Bản án số 12/2025/DS-PT ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng ủy quyền

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 12/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 12/2025/DS-PT ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 12/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hợp đồng vay tài sản, NĐ ông Phạm Quốc Đ, BĐ Nguyễn Mậu Đ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 12/2025/DS-PT
Ngày 06 - 01 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng ủy quyền,
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, đòi lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và hợp đồng vay
tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Thanh.
Ông Nguyễn Thanh Tùng
Ông Nguyễn Văn Tài.
- Thư phiên a: Nguyễn Thị Thùy Trang - Thư Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Ông Lê Trung Kiên - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số
700/2024/TLPT-DS ngày 02/12/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền,
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đòi lại giấy chng nhận quyền sử
dụng đất và hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số 111/2024/DS-ST ngày 19/8/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo và kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 529/2024/QĐ-PT,
ngày 09/12/2024 Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 591/2024/QĐ-PT
ngày 20 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Phạm Quốc Đ, sinh năm 1988;
2. Bà Phan Trịnh Hoàng H, sinh năm 1990.
2
Cùng địa chỉ: sB, đường N, tổ G, khu phố G, Phường A, quận T, Thành
phố Hồ Chí Minh; chỗ hiện nay: N nhà G C B, phường A, thành phố T,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông Phạm Quốc Đ đồng thời người đại diện hợp pháp của Phan
Trịnh Hoàng H theo văn bản ủy quyền ngày 01/11/2023, có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Mậu Đ1, sinh năm 1991; địa chỉ: xóm P, xã X,
huyện T, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Thị T, sinh năm 1982; địa chỉ: tổ B, khu phố T, phường T, thành
phố T, tỉnh Bình Dương.
- Người đại diện hợp pháp của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Thị T: Ông Văn L, sinh năm 1994; địa chỉ: thôn B, T, huyện S, tỉnh
Quãng Ngãi; địa chỉ liên lạc: số I, đường H, khu phố D, thị trấn D, huyện D, tỉnh
Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ngày 09/8/2024), có mặt.
2. Trần Nguyễn Thảo T1, sinh năm 1988; địa chỉ: ấp T, M, huyện
D, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Văn phòng C, tỉnh Bình Dương; địa chỉ: số A, đường Đ, khu phố B,
phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Thị Thanh M - Trưởng Văn
phòng, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người kháng cáo: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Võ Thị T.
- Viện Kiểm sát kháng nghị: Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-
VKS-DS ngày 30/8/2024 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu
Tiếng, tỉnh Bình Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo án sơ thẩm và quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Phạm Quốc Đ,
đồng thời ông Đ là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Phan Trịnh
Hoàng H trình bày:
Ông Phạm Quốc Đ và bà Phan Trịnh Hoàng H là vợ chồng, giữa ông Đ
Trần Nguyễn Thảo T1 người quen biết nhau. Bị đơn ông Nguyễn Mậu Đ1
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị T là người làm ăn chung và
ông Đ1, bà T là người quen của bà T1.
Lần 1: Do cần vốn kinh doanh bất động sản nên ngày 15/12/2022, bà T1
giới thiệu cho ông Đ đến gặp Thị T vay số tiền 3.000.000.000 đồng để
kinh doanh và được bà T đồng ý với điều kiện thỏa thuận lãi suất là 6%/tháng và
3
T thu trước tiền lãi tháng đầu tiên ông Đ chấp nhận vay vốn của T.
Cùng ngày, T1 đã soạn thảo giấy vay tiền tại Văn phòng C (địa chỉ phường
B, thành phố T, tỉnh Bình Dương) nội dung: Ông Đ vay của T số tiền
3.000.000.000 đồng, thời hạn 05 tháng từ ngày 15/12/2022 và trả lại vốn gốc
ngày 15/5/2023, giấy vay tiền không đề cập lãi suất, ông Đ, T cùng xác
nhận việc vay tiền, T1 xác nhận người làm chứng. Ngày 16/12/2022,
Trung chuyển K cho T1 1.440.000.000 đồng T1 đã chuyển khoản số
tiền này cho ông Đ ngay sau khi nhận; ông Nguyễn Mậu Đ1 đã chuyển khoản
cho ông Đ số tiền 1.380.000.000 đồng. Tổng cộng trong ngày 16/12/2022, ông
Đ đã được T, ông Đ1 chuyển số tiền gốc cho vay 2.820.000.000 đồng (hai
tỷ tám trăm hai mươi triệu đồng) do T đã thu trước tháng lãi đầu tiên 6%
tương đương số tiền 180.000.000 đồng (một trăm tám mươi triệu đồng). Lần vay
này ông Đ đã thanh toán lãi cho bà T thông qua hình thức chuyển khoản ngân
hàng, cụ thể:
- Ngày 16/01/2023: chuyển khoản 180.000.000 đồng;
- Ngày 16/02/2023: chuyển khoản 180.000.000 đồng;
- Ngày 16/3/2023: chuyển khoản 150.000.000 đồng;
- Ngày 18/4/2023: chuyển khoản 150.000.000 đồng;
- Ngày 17/7/2023: chuyển khoản 100.000.000 đồng;
- Và số tiền lãi, T thu trước tháng đầu tiên vào ngày 15/12/2022
180.000.000 đồng.
Tổng số tiền lãi cho khoản vay 3.000.000.000 đồng, ông Đ đã nộp i cho
T tứ ngày 15/12/2022 đến ngày 17/7/2023 940.000.000 đồng, chưa thanh
toán cho bà T tiền gốc.
Lần 2: Ngày 10/01/2023, ông Đ tiếp tục hỏi vay của T ông Đ1 số
tiền 1.000.000.000 đồng để kinh doanh thì bà T đồng ý và cũng với điều kiện lãi
suất 6%/tháng, thu trước lãi tháng đầu tiên. Lần vay này, hai bên không làm giấy
tờ, chỉ thỏa thuận miệng cũng không thỏa thuận thời hạn nào trả lại vốn cho
T. Cùng ngày 10/01/2023, T đã chuyển khoản cho ông Đ số tiền
940.000.000 đồng sau khi đã trừ tiền lãi 6% của tháng đầu tiên. Số tiền ông Đ đã
thanh toán tiền lãi cho bà T như sau:
- Ngày 10/02/2023: Chuyển khoản 70.000.000 đồng;
- Ngày 10/3/2023: Chuyển khoản 70.000.000đồng;
- Ngày 12/4/2023: Chuyển khoản 20.000.000 đồng;
- Ngày 12/4/2023: Chuyển khoản 15.000.000 đồng;
4
- Ngày 06/5/2023: Chuyển khoản 25.000.000 đồng;
- Ngày 09/5/2023: Chuyển khoản 25.000.000 đồng;
- Ngày 24/5/2023: Chuyển khoản 30.000.000 đồng;
Khi nhận tiền vay lần 1 vào ngày 15/12/2022, thì ông Đ có giao cho bà Võ
Thị T bản chính Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất s vào sổ cấp GCN:
CS09305 mang tên Phạm Quốc Đ do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp
ngày 13/12/2022 đối với diện tích đất 7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561, tờ bản
đồ số 28 tọa lạc tại ấp L, L, huyện D, tỉnh Bình Dương 01 giấy ủy quyền
của Phan Trịnh Hoàng H vông Đ ủy quyền cho T được sử dụng, cầm
cố, thế chấp, chuyển nhượng thửa đất 7.714,1m
2
thuộc thửa số 561, tờ bản đồ số
28 để bà T giữ làm tin.
Ngày 17/02/2023, T ông Đ1 yêu cầu ông Đ đến Văn phòng C tại
phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương vào văn bản “Hợp đồng ủy quyền”
với nội dung: Ông Đ chấp nhận ủy quyền cho ông Nguyễn Mậu Đ1 được toàn
quyền sử dụng, định đoạt, chuyển nhượng cho người khác đối với thửa đất
7.714,1m
2
tại ấp L, L, huyện D, tỉnh Bình Dương của ông Đ, H theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho
ông Phạm Quốc Đ ngày 13/12/2022 hiện do bà T đang giữ đề làm tin. Trước khi
ký, ông Đ thắc mắc thì được bà T ông Đ1 giải thích, khi nào ông Đ trả đủ
số tiền vay (gốc 4.000.000.000 đồng và lãi suất) tông Đ1 sẽ đến Văn phòng
Công chứng hủy bỏ văn bản ủy quyền này để trả lại sổ đất cho ông Đ. Hợp
đồng ủy quyền được Công chứng viên Văn phòng C, quyển số 02/2023 TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 17/02/2023.
Tháng 9/2023, ông Đ phát hiện bị đơn là ông Nguyễn Mậu Đ1 đã đến Văn
phòng C “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đối với phần đất
7.714,1m
2
tại ấp L, L, huyện D, tỉnh Bình Dương thuộc thửa 561, tờ bản đồ
số 28 của ông Đ, H cho Thị T được Văn phòng C, quyển số 09/2023
TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 15/9/2023 trái pháp luật, không hỏi ý kiến ông Đ,
bà H.
Ông Đ, H khởi kiện đồng thời yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Dầu
Tiếng áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngăn chặn việc Thị Trung L1
thủ tục trước bạ sang tên và chuyển nhượng đất cho người khác. Ngày
26/9/2023, Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đã ban hành Quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời số 19/2023/QĐ-BPKCTT ngày 26/9/2023 cấm
chuyển dịch tài sản đối với thửa đất 7.714,1m
2
tại ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình
Dương thuộc thửa đất số 561, tờ bản đồ số 28.
5
Nguyên đơn (ông Phạm Quốc Đ, Phan Trịnh Hoàng H) yêu cầu Tòa án
giải quyết:
1. Tuyên bố các hợp đồng tại Văn phòng C, tỉnh Bình Dương hiệu
do giả tạo nhằm che giấu hợp đồng vay tài sản giữa ông Phạm Quốc Đ
Thị T bao gồm:
1.1. “Hợp đồng ủy quyền” ký ngày 17/02/2023 giữa ông Phạm Quốc Đ
ông Nguyễn Mậu Đ1 đối với diện tích đất 7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561, tờ
bản đồ số 28 tọa lạc tại ấp L, L, huyện D, tỉnh Bình Dương được Văn phòng
C, tỉnh Bình Dương chứng nhận số công chứng 00994, quyển số 02/2023
TP/CC-SCC/HĐGD.
1.2. “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 15/9/2023
giữa ông Nguyễn Mậu Đ1 và Võ Thị T đối với diện tích đất 7.714,1m
2
thuộc
thửa đất số 561, tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình
Dương được Văn phòng C, tỉnh Bình Dương chứng nhận số công chứng 08928,
quyển số 09/2023 TP/CC-SCC/HĐGD hiệu do hợp đồng ủy quyền ngày
17/02/2023 giữa ông Đ1ông Đ là vô hiệu.
2. Buộc bị đơn ông Nguyễn Mậu Đ1 người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan Thị T cùng liên đới trả lại cho ông Đ, H bản chính Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS09305 do STài nguyên
Môi trường tỉnh B cấp ngày 13/12/2022 cho ông Phạm Quốc Đ.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Thị T: Ông Đ đồng ý thanh toán tiền nợ gốc đối với 02 khoản
vay ngày 15/12/2022 3.000.000.000 đồng khoản vay ngày 10/01/2023
1.000.000.000 đồng và lãi suất theo quy định của pháp luật từ ngày vay đến thời
điểm Tòa xét xử thẩm khấu trừ vào tiền lãi suất ông Đ đã trả lãi cho T
vượt quá quy định pháp luật.
4. Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số
19/2023/QĐ-BPKCTT, ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng,
tỉnh Bình Dương để đảm bảo thi hành án.
- Bị đơn là ông Nguyễn Mậu Đ1 trình bày:
Ông Đ1 người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thị T góp vốn
làm ăn chung. Việc T cho nguyên đơn Phạm Quốc Đ vay số tiền
4.000.000.000 đồng trong 02 lần vào ngày 15/12/2022 10/01/2023, lãi suất
thu trước tháng đầu 6%, số tiền lãi ông Đ đã trả cho T là 1.200.000.000 đồng,
ông Đ1 biết trong số tiền trên vốn góp của ông Đ1 nhưng giữa ông Đ1
T không tranh chấp về tiền góp vốn của mỗi bên trong vụ án này. Ngày
17/02/2023, ông Đ đã văn bản Hợp đồng ủy quyền” số công chứng 00994,
6
quyển số 02/2023 TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C, cho ông Nguyễn Mậu
Đ1 toàn quyền quyết định việc sử dụng, cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng
phần đất diện tích 7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561, tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại ấp
L, L, huyện D, tỉnh Bình Dương do ông Đ đứng tên trên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tnh B cấp ngày 13/12/2022.
Giữa ông Đ1 ông Đ không thực hiện bất kỳ quyền nghĩa vụ kể cả việc
giao nhận đất, giao nhận tiền liên quan đến hợp đồng ủy quyền nói trên. Hợp
đồng ủy quyền này ông Đ giao cho ông Đ1 giữ nhằm đảm bảo cho việc ông
Đ thanh toán tiền vốn vay 4.000.000.000 đồng và lãi suất theo thỏa thuận
6%/tháng đối với Thị T thôi. Do số tiền vay đã đến hạn thanh toán từ
ngày 15/5/2023 nhưng ông Đ không trả vốn, không trả lãi, T, ông Đ1 đã hối
thúc nhiều lần nhưng ông Đ cố tình tránh không trả tiền vay nên ông Đ1 mới
báo cho ông Đ biết sẽ bán đất của ông Đ đthu hồi vốn. Ngày 15/9/2023 ông
Đ1, T đến Văn phòng C hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nội
dung: ông Đ1 chuyển nhượng cho T phần đất 7.714,1m
2
thuộc thửa đất số
561, tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương. Hợp đồng
đã được Văn phòng C, tỉnh Bình Dương chứng nhận số công chứng 08928,
quyển số 09/2023 TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 15/9/2023.
Bị đơn ông Nguyễn Mậu Đ1 xác định đang giữ bản chính Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS09305 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp ngày 13/12/2022 cho ông Phạm Quốc Đ nhưng bị đơn không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (ông Đ, H) về việc tuyên bố
hợp đồng ủy quyền sử dụng đất giữa ông Phạm Quốc Đ và ông Nguyễn Mậu Đ1
ngày 17/02/2023 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nguyễn Mậu Đ1 bà Thị T ngày 15/9/2023 tại Văn phòng C. Không
đồng ý trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp
GCN: CS09305 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp ngày 13/12/2022
cho ông Phạm Quốc Đ. Khi nào nguyên đơn trả đủ số tiền gốc đã vay
(4.000.000.000 đồng) và tiền lãi chưa thanh toán theo mức lãi hai bên thỏa thuận
6%/tháng cho T thì ông Đ1, T sđến Văn phòng C hủy bhợp đồng
chuyển nhượng ngày 15/9/2023 trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS09305 do STài nguyên Môi trường tỉnh B
cấp ngày 13/12/2022 cho ông Phạm Quốc Đ.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là bà Thị
T và người đại diện hợp pháp của bà Võ Thị Tông Lê Văn L trình bày:
T xác định lời trình bày trong quá trình tố tụng của nguyên đơn Phạm
Quốc Đ, Phan Trịnh Hoàng H, bị đơn Nguyễn Mậu Đ1 về việc vay tiền, lãi suất,
việc ủy quyền sử dụng đất, chuyển nhượng đất 7.714,1m
2
tại ấp L, L, huyện
7
D đều đúng sự thật. Bà T khai: giữa bà T, ông Đ1 và vợ chồng ông Đ, bà H hoàn
toàn không quan hệ, giao dịch nào liên quan đến việc tặng cho, chuyển
nhượng, chuyển quyền sử dụng đối với phần đất thuộc quyền sử dụng của ông
Phạm Quốc Đ, Phan Trịnh Hoàng H diện tích 7.714,1m
2
thuộc thửa 561, tờ
bản đồ số 28 tại ấp L, L, huyện D, tỉnh Bình Dương do ông Phạm Quốc Đ
được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất ngày 13/12/2022. Trên thực tế, ông Đ cần vốn kinh doanh bất động sản,
T, ông Đ1 vốn cần cho vay thông qua người giới thiệu Trần Nguyễn
Thảo T1 thì bà T cho ông Đ vay tiền, cụ thể:
Ngày 15/12/2022, lập giấy “Giấy thỏa thuận mượn tiền” tại Văn phòng C,
nội dung: Ông Đ vay của T số tiền 3.000.000.000 đồng, thời hạn vay 05
tháng hoàn lại từ ngày 15/12/2022 đến ngày 15/5/2023. Số tiền vay này, T
thống nhất tính đến ngày 17/7/2023, ông Đ đã thanh toán tiền lãi là 940.000.000
đồng, tiền vốn chưa thanh toán đồng nào.
Ngày 10/01/2023, vay 1.000.000.000 đồng, không làm giấy tờ T
giao ước thời gian hoàn vốn như lần vay (15/12/2022) ông Đ chấp nhận.
Lần vay này, ông Đ thanh toán lãi đến ngày 10/5/2023 là 260.000.000 đồng.
giấy tờ không thể hiện lãi suất nhưng hai bên thỏa thuận riêng lãi
suất 6%/tháng thực tế, T cũng đã trừ lãi trước tháng đầu tiên 6% khi giao
vốn vay cho ông Đ các tháng tiếp theo ông Đ cũng chuyển khoản thanh toán
lãi theo mức lãi suất 6%/tháng.
Để đảm bảo cho việc thanh toán tiền vốn vay lãi suất thì T mới yêu
cầu ông Đ ra phòng công chứng hợp đồng ủy quyền cho ông Nguyễn Mậu
Đ1 (là người góp vốn làm ăn với T) sử dụng, định đoạt phần đất 7.714,1m
2
của ông Đ, H tại huyện D. Do đó mới ra đời văn bản “Hợp đồng ủy quyền”
số công chứng 00994, quyển số 02/2023 TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C
giữa ông Đ ông Đ1. Đây hình thức thế chấp tài sản để vay tiền, ngược lại
giữa ông Đ1 ông Đ không giao nhận đất, không giao nhận tiền chuyển
nhượng. Tương tự, do hết thời hạn vay tiền nhưng ông Đ, bà H không trả lại vốn
vay cũng không trả lãi suất từ tháng 5/2023, vì vậy ngày 15/9/2023, ông Đ1 mới
ký hợp đồng chuyển nhượng phần đất 7.714,1m
2
(do ông Đ đã ủy quyền cho ông
Đ1 ngày 17/02/2023) cho T theo Hợp đồng số công chứng 08928, quyển số
09/2023 TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 15/9/2023 tại Văn phòng C để T bán đất
thu hồi vốn.
Quá trình tố tụng tại cấp thẩm, T người đại diện theo y quyền
của bà T ông Văn L không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về
việc tuyên hiệu hợp đồng ủy quyền ngày 17/02/2023 giữa ông Nguyễn Mậu
8
Đ1 ông Phạm Quốc Đ hiệu đối với hợp đồng chuyển nhượng giữa ông
Nguyễn Mậu Đ1 Võ Thị T ngày 15/9/2023. Không đồng ý trả lại bản gốc
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp
ngày 13/12/2022 cho nguyên đơn. Bà Võ Thị T có yêu cầu độc lập như sau:
Buộc các nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ, Phan Trịnh Hoàng H phải
thanh toán cho T số tiền gốc đã vay 4.000.000.000 đồng tiền lãi tính t
ngày vay đến ngày xét xử thẩm 19/8/2024 là 1.839.283.000 đồng, khấu trừ đi
số tiền lãi ông Đ đã thanh toán 1.200.000.000 đồng, còn lại 639.283.000 đồng,
tổng cộng gốc lãi buộc các nguyên đơn phải thanh toán đến ngày xét xử
thẩm 4.639.283.000 đồng (bốn tỷ sáu trăm ba mươi chín triệu hai trăm tám
mươi ba nghìn đồng).
- Người có quyn li, nghĩa v liên quan Trần Nguyễn Thảo T1 trình
bày:
T1 người quen biết với ông Đ1, T, T1 chỉ biết vợ chồng ông
Đ, H qua sự giới thiện của ông Trần Khánh H1 (bạn T1). T1 giới
thiệu cho ông Đ, H vay tiền của T 4.000.000.000 đồng vào ngày
15/12/2022 và 10/01/2023, mức lãi bà T cho nhiều người vay trong đó có ông Đ,
H 6%/tháng. Quá trình vay thì do tình nghĩa với T, ông Đ1 nên T1
đứng ra nhận tiền tT sau đó chuyển giao cho ông Đ, nhận tiền lãi từ ông Đ
sau đó chuyển giao cho T, T1 không hưởng lợi ích từ việc vay mượn
tiền giữa các bên. T1 xác định từ ngày vay 15/12/2022 đến thời điểm ngày
17/7/2023 ông Đ đã thanh toán tiền lãi cho T được 1.200.000.000 đồng.
T1 chỉ biết ông Đ, bà H thế chấp chấp cho bà T thửa đất số 561, tờ bản đồ số
28, diện tích 7.714,1m
2
tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương cho
T, ông Đ1 để làm tin. T1 không biết việc chuyển nhượng thửa đất này giữa
T ông Đ1, do chị em tình nghĩa nênT1 mới giúp công việc trên cho
T và bà T1 không có lợi ích, thù lao, lợi nhuận gì trong giao dịch trên nên không
yêu cầu gì trong vụ án.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C, tỉnh Bình
Dương có văn bản ngày 11/7/2024 gửi Tòa án như sau:
Văn phòng C có thực hiện công chứng 02 loại hợp đồng dân sự gồm: Hợp
đồng ủy quyền số 00994, quyển số 02/2023TP/CC-SCC/HĐGD, ngày
17/02/2023 về ủy quyền tài sản quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 561, tờ
bản đồ số 28, diện tích 7.714,1m
2
tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D giữa ông Phạm
Quốc Đ, Phan Trịnh Hoàng H ông Nguyễn Mậu Đ1; Hợp đồng chuyển
nhượng quyền s dụng đất số 08928, quyển số 09/2023TP/CC-SCC/HĐGD,
ngày 15/9/2023 về chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 561, tờ
9
bản đồ số 28, diện tích 7.714,1m
2
tọa lạc tại ấp L, L, huyện D giữa ông
Nguyễn Mậu Đ1 và Thị T. Việc chứng nhận các giao dịch trên theo yêu
cầu công chứng của đương sự đúng quy định tại Điều 41 của Luật Công
chứng nên Văn phòng C không ý kiến về ván đồng thời xin vắng mặt khi
Tòa án xét xử.
Tại Bản án dân sự thẩm số 111/2024/DS-ST ngày 19/8/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Quốc Đ Phan Trịnh
Hoàng H đối với ông Nguyễn Mậu Đ1 về việc “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền;
tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
1.1. Tuyên b “Hợp đồng ủy quyền” ngày 17/02/2023 giữa ông Phạm
Quốc Đ ông Nguyễn Mậu Đ1 được Văn phòng C, tỉnh Bình Dương chứng
nhận số công chứng 00994, quyển số 02/2023 TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiu.
1.2. Tuyên b Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất” ngày
15/9/2023 giữa ông Nguyễn Mậu Đ1 Thị T đối với diện tích đất
7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561, tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D,
tỉnh Bình Dương được Văn phòng C, tỉnh Bình Dương chứng nhận số công
chứng 08928, quyển số 09/2023 TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiu.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Thị T đối với nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ, Phan Trịnh
Hoàng H về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Buc ông Phạm Quốc Đ Phan Trịnh Hoàng H có trách nhim liên
đới thanh toán cho Võ Thị T s tiền 3.408.022.510 đồng (ba tỷ bốn trăm lẻ
tám triệu không trăm hai mươi hai nghìn năm trăm mười đồng).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ do
chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28/8/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Võ Thị T kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án
thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan: “Buộc ông Phạm Quốc Đ Phan Trịnh Hoàng H phải
liên đới thanh toán cho Thị T số tiền 4.639.283.000 đồng, bao gồm
4.000.000.000 đồng tiền gốc và 639.283.000 đồng tiền lãi”.
Ngày 30/8/2024, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng,
tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-
DS kháng nghị một phần Bản án dân sự thẩm số 111/2024/DS-ST ngày
19/8/2024 của Tòa án nhân n huyện Dầu Tiếng. Đnghị Tòa án cấp phúc
thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm về căn cứ tính tiền lãi và cách tính tiền lãi.
10
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại din hp pháp của người quyn l,
nghĩa vụ liên quan Th T ông Văn L xác định không kháng cáo đi
vi phn yêu cu khi kin ca nguyên đơn về tuyên hiu “Hợp đồng ủy
quyền” ngày 17/02/2023 giữa ông Phạm Quốc Đ ông Nguyễn Mậu Đ1
“Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ký ngày 15/9/2023 giữa ông
Nguyễn Mậu Đ1 Thị T tại Văn phòng C. Không ý kiến về phần
quyết định của bản án thẩm tuyên buộc T, ông Đ1 trả lại cho ông Đ, H
bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chỉ kháng o yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm sửa một phần bản án thẩm: buộc ông Phạm Quốc Đ
Phan Trịnh Hoàng H phải liên đới thanh toán cho Thị T số tiền
4.639.283.000 đồng, bao gồm 4.000.000.000 đồng tiền gốc và 639.283.000 đồng
tiền lãi tiếp tục thanh toán tiền lãi nợ quá hạn từ ngày xét xử thẩm
19/8/2024 đến ngày xét xử phúc thẩm 06/01/2025. Nguyên đơn giữ nguyên yêu
cầu khởi kiện, bị đơn không kháng cáo không có ý kiến thay đổi, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập kháng cáo nhưng không
cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác, người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Trần Nguyễn Thảo T1, Văn phòng C không ý kiến khác. Các
đương sự không thỏa thuận được các vấn đề có tranh chấp trong vụ án.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụngngười tham gia tố tụng đã
thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nên Viện Kiểm sát không
kiến nghị khắc phục thêm. Viện Kiểm sát giữ nguyên Quyết định kháng nghị
số 03/QĐ-VKS-DS, ngày 30/8/2024 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
huyện Dầu Tiếng.
- Về nội dung: Quá trình tố tụng xét xử tại cấp thẩm, các đương s
trong vụ án gồm: Nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ, Phan Trịnh Hoàng H; bị
đơn ông Nguyễn Mậu Đ1; người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thị T,
Trần Nguyễn Thảo T1 đều thừa nhận: ngày 17/02/2023, ông Phạm Quốc Đ
Phan Trịnh Hoàng H “Hợp đồng y quyền” cho ông Nguyễn Mậu Đ1
được toàn quyền thực hiện các quyền của người sử dụng đất đối với thửa đất số
561, tờ bản đồ số 28, diện tích 7.714,1m
2
tại ấp L, L, huyện D theo Giấy
Chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS09305 mang tên Phạm
Quốc Đ do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 13/12/2022 tai Văn
phòng Công chứng C (phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương). Mục đích của
việc ông Đ, H ủy quyền sử dụng đất cho ông Đ1 như trên chỉ nhằm đảm
bảo việc thực hiện thanh toán tiền vay 4.000.000.000 đồng tiền lãi theo thỏa
thuận giữa người vay là ông Phạm Quốc Đ người cho vay là bà Thị T xác
lập vào các ngày 15/12/2022 10/01/2023, ngoài ra giữa ông Đ1 ông Đ
không thỏa thuận bất kỳ một giao dịch nào khác liên quan đến việc định đoạt,
chuyển quyền sử dụng 7.714,1m
2
đất tại ấp L, L, huyện D của ông Đ, H
cho ông Đ1. Do đó, Tòa án thẩm đã nhận định Hợp đồng ủy quyền ngày
17/02/2023 giữa ông Phạm Quốc Đ và ông Nguyễn Mậu Đ1 được Văn phòng C,
tỉnh Bình Dương chứng nhận số công chứng 00994, quyển số 02/2023 TP/CC-
SCC/HĐGD là hợp đồng gitạo nhằm che giấu cho hợp đồng vay tài sản ngày
11
15/12/2022 10/3/2023 giữa ông Đ T nên bị hiệu theo Điều 124 của
Bộ luật Dân sự giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu theo quy định tại
Điều 131 của Bộ luật Dân sự đúng quy định pháp luật. Do Hợp đồng y
quyền nêu trên vô hiệu do giả cách nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất lập ngày 15/9/2023 giữa Thị T ông Nguyễn Mậu Đ1 về việc
chuyển nhượng thửa đất số 561, tờ bản đồ số 28 diện tích 7.714,1m
2
đất của ông
Đ, bà H không phát sinh hiệu lực và cũng bị vô hiệu.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng bị che giấu là hợp đồng vay tài sản
giữa bà Thị T và ông Phạm Quốc Đ phát sinh hiệu lực và đã giải quyết tranh
chấp theo yêu cầu độc lập của Thị T đúng quy định tại các Điều 357,
463, 466, 468, 469, 470 của Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, a án cấp thẩm xác
định hợp đồng vay vào các ngày 15/12/2022 và 10/01/2023 giữa Võ Thị T
ông Phạm Quốc Đ loại hợp đồng vay thời hạn không xác định lãi
suất, từ đó áp dụng mức lãi suất 10%/năm theo khoản 2 Điều 468 của Bluật
Dân sự để tính i suất chậm trả từ ngày vay đến thời điểm xét xử thẩm
19/8/2024 chưa đúng quy định pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của bà T.
Quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, các đương sự đều thừa nhận số tiền ông
Đ vay của bà T vào ngày 15/12/2022 và ngày 10/01/2023 đều có thỏa thuận mức
lãi 6%/tháng (tương đương 72%/năm) vay thời hạn thanh toán cuối
cùng ngày 15/5/2023, do đó hợp đồng vay giữa ông Đ, T nói trên thuộc
trường hợp vay có thời hạn và có lãi, mức lãi các đương sự thỏa thuận 72%/năm
vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật
Dân sự (20%/năm) nên cần xác định phần lãi trong hạn (15/12/2022 đến
17/7/2023) ông Đ đã trả cho bà T vượt quá 52%/năm không có hiệu lực và được
trừ vào tiền gốc theo quy định tại Điều 9 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP,
ngày 11/01/2019 của Tòa án nhân dân tối cao. Phần nợ gốc chưa thanh toán sau
khi hết hạn, được tính lãi chậm trả bằng 150% lãi suất trong hạn theo quy định
tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự đến thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy
định tại điểm b khoản 5 Điều 466 Bộ luậT Dân sự và điểm c khoản 2 Điều 5 của
Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Tòa án nhân dân tối
cao.
Đề nghị Hội đồng xét xử: căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015, chấp nhận yêu cầu kháng o của người quyền , nghĩa
nghĩa vụ liên quan Thị T, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện
Kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, sửa Bản án dân sự thẩm số
111/2024/DS-ST ngày 19/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh
Bình Dương như Viện Kiểm sát đã trình bày như trên.
Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
12
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu
Tiếng, tỉnh Bình Dương kháng cáo của người quyn lợi, nghĩa vụ liên
quan yêu cầu độc lp Th T trong hạn luật định. Căn cứ Điều 293 của
Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc thẩm thụ xét xử vụ án theo quy
định.
[1.2] Bị đơn ông Nguyễn Mậu Đ1 vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Trần Nguyễn Thảo T1 và Văn phòng C đơn yêu cầu giải quyết
vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên theo
quy định tại Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung: nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ, Phan Trịnh Hoàng H
khởi kiện yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Mậu Đ1, người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Võ Thị T cùng liên đới trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền s
dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS09305 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B
cấp cho ông Phạm Quốc Đ ngày 13/12/2022 cho nguyên đơn. Đồng thời nguyên
đơn cho rằng văn bản “Hợp đồng ủy quyền do nguyên đơn đã ngày
17/02/2023 để ủy quyền cho bị đơn (ông Đ1) được quyền sử dụng, định đoạt
thửa đất 7.714,1m
2
đất của ông Đ, bà H, số công chứng 00994, quyển s
02/2023 TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C giả tạo nên yêu cầu Tòa án
tuyên hợp đồng ủy quyền này hiệu do che giấu cho hợp đồng vay tài sản thể
hiện bằng “Giấy thỏa thuận mượn tiền” lập ngày 15/12/2022 tại Văn phòng C
với số tiền vay 3.000.000.000 đồng trong thời hạn 05 tháng một hợp đồng
miệng thỏa thuận vay tiền 1.000.000.000 đồng ngày 10/01/2023 giữa ông Phạm
Quốc Đ và bà Võ Thị T. Do Hợp đồng ủy quyền trên vô hiệu nên kéo theo “Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 15/9/2023 giữa ông Nguyễn
Mậu Đ1 Thị T đối với diện tích đất 7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561,
tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại ấp L, L, huyện D, tỉnh Bình Dương được Văn
phòng C, tỉnh Bình Dương chứng nhận số công chứng 08928, quyển số 09/2023
TP/CC-SCC/HĐGD cũng bị hiệu. Quá trình tố tụng, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Thị T đơn yêu cầu độc lập và được Tòa cấp
thẩm chấp nhận: Buộc nguyên đơn Phạm Quốc Đ Phan Trịnh Hoàng H
cùng liên đới thanh toán cho T số tiền gốc đã vay ngày 15/12/2022
3.000.000.000 đồng; tiền gốc đã vay ngày 10/01/2023 1.000.000.000 đồng,
tổng cộng tiền ngốc 4.000.000.000 đồng lãi suất tính từ ngày vay đến
ngày xét xử thẩm sau khi khấu trừ số tiền lãi nguyên đơn đã thanh toán
1.200.000.000 đồng, còn lại 639.283.000 đồng, tổng tiền gốc và lãi đến ngày xét
xử sơ thẩm là 4. 639.283.000 đồng.
[3] Xét về “Hợp đồng ủy quyền” số công chứng 00994, quyển số 02/2023
TP/CC-SCC/HĐGD xác lập ngày 17/02/2023 tại Văn phòng C giữa ông Phạm
Quốc Đ và ông Nguyễn Mậu Đ1 về việc ủy quyền định đoạt đối với khu đất diện
13
tích 7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561, tờ bản đồ số 28 tại ấp L, xã L, huyện D,
tỉnh Bình Dương, thấy rằng: tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên tham gia
giao dịch đều đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự đều kết
trên tinh thần tự nguyện, không thể hiện sự ép buộc lẫn nhau. Do đó, Hợp đồng
ủy quyền này do công chứng viên Trần Thị Thanh M thuộc Văn phòng C công
chứng hoàn toàn đúng quy định tại các Điều 117, 119, 401, 501, 502, 562,
563 của Bộ luật Dân sự và phù hợp Điều 41 của Luật Công chứng nên giá trị
thực hiện giữa các bên tthời điểm giao kết. Tuy nhiên, quá trình tố tụng, giữa
nguyên đơn (ông Đ), b đơn (ông Đ1) người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
(bà T) đều thừa nhận xác định giữa ông Đ ông Đ1 hoàn toàn không thỏa
thuận việc chuyển quyền sử dụng đối với khu đất 7.714,1m
2
nêu trên, hai bên
cũng không giao nhận đất, không giao nhận tiền, không tlao, khu đất trên
vẫn do ông Đ H quản sử dụng. Mục đích ông Đ hợp đồng ủy quyền
sử dụng đất cho ông Đ1 nhằm để đảm bảo cho việc ông Đ thanh toán tiền gốc
4.000.000.000 đồng lãi suất thỏa thuận cho Thị T theo các hợp đồng
vay ngày 15/12/2022 ngày 10/01/2023. Sự thừa nhận của các đương sự
tình tiết không cần phải chứng minh theo Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Do các bên đương sự đã thừa nhận “Hợp đồng ủy quyềnsố công chứng 00994,
quyển số 02/2023 TP/CC-SCC/HĐGD xác lập ngày 17/02/2023 tại Văn phòng
C giữa ông Phạm Quốc Đ và ông Nguyễn Mậu Đ1 là hợp đồng giả tạo nhằm che
giấu cho Hợp đồng vay tài sản giữa Thị T ông Phạm Quốc Đ số tiền
4.000.000.000 đồng vào ngày 15/12/2022 và 10/01/2023 nên hợp đồng ủy quyền
giữa ông Đ, ông Đ1 nói trên bị vô hiệu do giả tạo theo Điều 124 của Bộ luật Dân
sự, giao dịch dân s“Vay tài sản” giữa ông Đ, T bị che giấu phát sinh hiệu
lực. Do hợp đồng hiệu nên các bên phải hoàn trả cho nhau những đã nhận
theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật Dân sự. Các bên thừa nhận giữa ông Đ,
ông Đ1 chưa thực hiện hành vi nào đối với hợp đồng ủy quyền nói trên nên chưa
hậu quả. Tuy nhiên, ngày 15/9/2023, ông Nguyễn Mậu Đ1 đã hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất 7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561, tờ bản đồ số
28 tại ấp L, L, huyện D, tỉnh Bình Dương cho Thị T số công chứng
08928, quyển số 09/2023 TP/CC-SCC/HĐGD hiệu do hợp đồng y quyền
sử dụng đất do ông Đ đã ký cho ông Đ1 ngày 17/02/2023 bị vô hiệu. Tòa án cấp
thẩm xét xử tuyên hai hợp đồng: Hợp đồng ủy quyền số công chứng 00994,
quyển số 02/2023 TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 17/02/2023 giữa ông Phạm Quốc
Đ ông Nguyễn Mậu Đ1 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
công chứng 08928, quyển số 09/2023 TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 15/9/2023 giữa
ông Nguyễn Mậu Đ1 Thị T tại Văn phòng C vô hiệu. Buộc bị đơn ông
Nguyễn Mậu Đ1, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thị T cùng liên
đối trả lại cho các nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ Phan Trịnh Hoàng H
bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DI604050, số vào sổ CS09305
do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B đã cấp cho ông Phạm Quốc Đ ny
13/12/2022 là có căn cứ đúng quy định pháp luật.
14
[4] Xét yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Võ
Thị T đối với các hợp đồng vay tài sản giữa Thị T ông Phạm Quốc Đ
xác lập các ngày 15/12/2022 và 10/3/2023:
[4.1] Theo Giấy thỏa thuận mượn tiền” lập ngày 15/12/2022, thể hiện
ông Phạm Quốc Đ vay của bà Võ Thị T số tiền gốc là 3.000.000.000 đồng (ba tỷ
đồng), thời hạn vay từ ngày 15/12/2022 đến ngày 15/5/2023. Mặc dù, trong văn
bản vay mượn tiền này giữa bên vay bên đi vay không đề cập lãi suất nhưng
trên thực tế, T đã thu lãi trước tháng đầu tiên với số tiền 180.000.000 đồng,
tương đương 6% các tháng 01/2023, 02/2023 hàng tháng, ông Đ đều
chuyển khoản nộp lãi cho T mỗi tháng 180.000.000 đồng, tương đương 6%.
Do đó, đcăn cứ xác định hợp đồng vay tiền ngày 15/12/2022 giữa T
ông Đ loại hợp đồng vay thời hạn 05 tháng lãi suất 6%/tháng (tương
đương 72%/năm). Giữa ông Đ T đã khai thống nhất số tiền lãi trong hạn
đối với khoản vay này ông Đ đã thanh toán cho bà T đến ngày 17/7/2023
940.000.000 đồng. Mức lãi suất 72%/năm do các đương sự đã tự nguyện thỏa
thuận qcao, vượt mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ
luật Dân s(20%/năm). Vì vậy, cần áp dụng đoạn 2 khoản 1 Điều 468 của Bộ
luật dân sự Điều 9 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của
Hội đồng Thẩm phán a án nhân dân tối cao đxử số tiền lãi trong hạn đã
thanh toán vượt quy định như sau:
- Lãi trong hạn theo quy định tại khoản 1 Điềun 468 của Bộ luật Dân sự:
3.000.000.000 đồng x 20%/năm (tương đương 1,667%/tháng) x 05 tháng
(15/12/2022 15/5/2023) = 250.050.000 đồng.
- Tiền lãi ông Đ đã thanh toán cho T đối với khoản vay này từ ngày
15/12/2022 đến 17/7/2023) là 940.000.000 đồng. Khấu trừ tiền lãi đã thực thanh
toán lãi trong hạn theo quy định pháp luật: 940.000.000 đồng 250.050.000
đồng = 689.950.000 đồng. Số tiền lãi trong hạn ông Đ thanh toán thừa theo quy
định pháp luật sẽ được khấu trừ vào vốn gốc như sau: 3.000.000.000 đồng
689.950.000 đồng = 2.310.050.000 đồng (1).
Từ ngày 16/5/2023 đến thời điểm Tòa thẩm giải quyết (19/8/2024)
01 năm 04 tháng 03 ngày, ông Đ chưa thanh toán nợ gốc cho bà T nên được tính
theo nợ lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn theo quy định tại điểm b khoản 2
Điều 466 của Bộ luật Dân sự điểm c khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số
01/2019/NQ-TP, ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao:
- 2.310.050.000 đồng x [20%/năm (tương đương 1,667%/tháng) x 150%] x 01
năm 04 tháng 03 ngày = 929.775.000 đồng (2).
[4.2] Đối với hợp đồng vay tài sản ngày 10/01/2023 không lập thành văn
bản: giữa Thị T ông Phạm Quốc Đ đã khai thống nhất: ngày
10/01/2023, ông Đ vay của bà T 1.000.000.000 đồng tiền gốc, lãi suất 6%/tháng,
ông Đ đã thanh toán tiền lãi cho T đối với hợp đồng vay này tính đến tháng
5/2023 là 260.000.000 đồng. Do hai bên không lập văn bản vviệc vay tiền, chỉ
thống nhất về lãi suất, không thống nhất về thời hạn vay. T xác định thời hạn
15
hoàn vốn vay của hợp đồng này cũng thỏa thuận đến ngày 15/5/2023, lời trình
bày của T không được ông Đ thừa nhận, ông Đ xác định hợp đồng vay y
không xác định thời hạn. Xét quá trình trả lãi cho khoản vay 1.000.000.000
đồng, ngày 10/01/2023, ông T chỉ thanh toán lãi lần cuối đối với khoản vay này
các ngày 09/5 24/5/2023 nhưng sồ tiền lãi đã thanh toán cũng không đầy
đủ, từ đó thể xác định ông Đ đã biết T chỉ cho vay số tiền 1.000.000.000
đồng đến ngày 15/5/2023 bằng với thời hạn vay số tiền 3.000.000.000 đồng
trước đó vào ngày 15/12/2022. Do đó, hợp đồng vay ngày 10/01/2023, số tiền
1.000.000.000 đồng giữa ông Đ bà T đủ căn cứ xác định loại hợp đồng
vay xác định thời hạn 04 tháng 05 ngày và lãi suất 6%/tháng (tương đương
72%/năm). Do vậy, tiền lãi ông Đ đã thanh toán trong hạn vượt quá quy định
của pháp luật cũng sẽ được xem xét giải quyết trừ vào tiền gốc theo quy định tại
khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự Điều 9 Nghị quyết số 01/2019/NQ-
HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, cụ
thể như sau:
- Lãi trong hạn theo quy định tại khoản 1 Điềun 468 Bộ luật dân sự:
1.000.000.000 đồng x 20%/năm (tương đương 1,667%/tháng) x 04 tháng 05
ngày (10/01/2023 15/5/2023) = 69.446.000 đồng.
- Tiền lãi ông Đ đã thanh toán cho T đối với khoản vay này từ ngày
10/01/2023 đến 24/5/2023) là 260.000.000 đồng. Khấu trừ tiền lãi đã thực thanh
toán lãi trong hạn theo quy định pháp luật: 260.000.000 đồng 69.446.000
đồng = 190.554.000 đồng. Số tiền lãi trong hạn ông Đ thanh toán thừa theo quy
định pháp luật sẽ được khấu trừ vào vốn gốc như sau: 1.000.000.000 đồng
190.554.000 đồng = 809.446.000 đồng (3).
Từ ngày 16/5/2023 đến thời điểm Tòa thẩm giải quyết (19/8/2024)
01 năm 04 tháng 03 ngày, ông Đ chưa thanh toán nợ gốc cho bà T nên được tính
theo nợ lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn theo quy định tại điểm b khoản 2
Điều 466 của Bộ luật Dân sự điểm c khoản 2 Điều 5 của Nghị quyết số
01/2019/NQ-TP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao:
- 809.446.000 đồng x [20%/năm (tương đương 1,667%/tháng) x 150%] x 01
năm 04 tháng 03 ngày = 325.804.800 đồng (4).
[5] Từ các phân tích như trên, xét thấy kháng cáo của người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Thị T và kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa
bản án thẩm về phần tính lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn đối với các hợp
đồng vay ngày 15/12/2022 ngày 10/01/2023 căn cứ được chấp nhận.
Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm đối với yêu cầu độc
lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về tranh chấp hợp đồng vay tài
sản đối với nguyên đơn Phạm Quốc Đ, Phan Trịnh Hoàng H về thanh toán
tiền gốc và lãi suất chậm trả, lãi quá hạn. Cụ thể:
Ông Phạm Quốc Đ vợ Phan Trịnh Hoàng H cùng liên đới
trách nhiệm thanh toán cho Thị T tổng số tiền: (1) + (2) + (3) + (4) =
16
2.310.050.000 đồng + 929.775.000 đồng + 809.446.000 đồng + 325.804.800 =
4.375.075.800 đồng, trong đó tiền gốc là 3.119.496.000 đồng (ba tỷ một trăm
mười chín triệu bốn trăm chín mươi sáu nghìn đồng), tiền lãi tính đến thời điểm
xét xử sơ thẩm 1.255.579.800 đồng (một tỷ hai trăm năm mươi lăm triệu năm
trăm bảy mươi chín nghìn tám trăm đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử thẩm (19/8/2024) cho đến khi thi
hành án xong, ông Phạm Quốc Đ Phan Trịnh Hoàng H còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo quy định
tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
[6] Các đương sự trong vụ án có quyền nộp đơn yêu cầu Chánh án Tòa án
nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xem xét duy trì hoặc hủy bỏ
Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 19/2023/QĐ-BPKCTT,
ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương theo
quy định tại điểm g khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[7] Quan điểm của đại din Vin Kim sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại
phiên tòa phúc thẩm được chp nhn mt phn.
[8] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá tài sản, sao lục
hồ sơ: bị đơn phải chịu theo quy định pháp luật.
[9] Về án phí dân sự thẩm: nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ, bà Phan
Trịnh Hoàng H phải chịu án phí đối với nghĩa vụ thanh toán tiền vay gốc lãi
suất chậm trả đối với hợp đồng vay tài sản; bị đơn Nguyễn Mậu Đ1 phải chịu án
phí đối với phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận; người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị T phải chịu án đối với phần yêu cầu tiền
gốc và lãi không được chấp nhận (264.207.200 đồng).
[10] V án phí dân s phúc thm: Do sửa án sơ thẩm nên người kháng cáo
không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 148, khoản 2 Điều 308, Điều 309 Điều 313 của
Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 124, Điều 131, Điều 357, điểm b khoản 5 Điều 466, khoản
1 Điều 468, khoản 2 Điều 470, Điều 501, Điều 502, Điều 562 Điều 563 của
Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 5, Điều 6, Điều 9, điểm a khoản 1 Điều 13
của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/1/2019 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao quy định về hướng dẫn áp dụng một số quy định của
pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm quy định về hợp đồng vay tài sản.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
17
1. Chấp nhận kháng nghị số 03/QĐ-VKS-DS ngày 30/8/2024 của Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương; chấp nhận
một phần kháng cáo của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc
lập bà Võ Thị T.
2. Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 111/2024/DS-ST ngày
19/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương như sau:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ, Phan
Trịnh Hoàng H đối với bị đơn ông Nguyễn Mậu Đ1 về việc “tranh chấp hợp
đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đòi lại bản chính
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Tuyên b “Hợp đồng ủy quyền” ngày 17/02/2023 giữa ông Phạm
Quốc Đ ông Nguyễn Mậu Đ1 được Văn phòng C, tỉnh Bình Dương chứng
nhận số công chứng 00994, quyển số 02/2023 TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiu.
Tuyên b “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày
15/9/2023 giữa ông Nguyễn Mậu Đ1 Thị T đối với diện tích đất
7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561, tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D,
tỉnh Bình Dương được Văn phòng C, tỉnh Bình Dương chứng nhận số công
chứng 08928, quyển số 09/2023 TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiu.
Buộc ông Nguyễn Mậu Đ1 và bà Thị T trách nhiệm trả lại cho ông
Phạm Quốc Đ Phan Trịnh Hoàng H bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số DI604050, số vào sổ CS09305 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
B đã cấp cho ông Phạm Quốc Đ ngày 13/12/2022.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan của bà Võ Thị T đối với nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ, bà Phan Trịnh
Hoàng H về việc “tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Buc ông Phạm Quốc Đ Phan Trịnh Hoàng H có trách nhim liên
đới thanh toán cho Võ Thị T s tiền 4.375.075.800 đồng (bốn tỷ ba trăm bảy
mươi lăm triệu không trăm bảy mươi lăm nghìn tám trăm đồng), trong đó tiền
gốc 3.119.496.000 đồng (Ba tỷ một trăm mười chín triệu bốn trăm chín mươi
sáu nghìn đồng), tiền lãi đến thời điểm xét xử thẩm 1.255.579.800 đồng
(một tỷ hai trăm năm mươi lăm triệu năm trăm bảy mươi chín nghìn tám trăm
đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử thẩm (19/8/2024) cho đến khi thi
hành án xong, ông Phạm Quốc Đ Phan Trịnh Hoàng H còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
4. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan Thị T đối với nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ, Phan Trịnh Hoàng
18
H về số tiền tranh chấp 264.207.200 đồng (hai trăm sáu mươi bốn triệu hai
trăm lẻ bảy nghìn hai trăm đồng).
5. Buc Thị T có trách nhim tr li cho ông Phạm Quốc Đ bn
chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DI 604050, số vào sổ cấp GCN:
CS09305 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp ngày 13/12/2022 cho ông
Phạm Quốc Đ.
6. Chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tài sản tranh chấp là 140.000 đồng
(một trăm bốn mươi nghìn đồng) nguyên đơn Phạm Quốc Đ tự nguyện chịu
đã np xong.
7. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Phạm Quốc Đ Phan Trịnh Hoàng H phải nộp 112.375.000
đồng (một trăm mười hai triệu ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) được khấu
trừ 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) tiền tm ng án phí đã np theo biên lai
thu s AA/2021/0009359 ngày 25/9/2023 ca Chi cc Thi hành án dân s huyn
Du Tiếng. Ông Phạm Quốc Đ Phan Trịnh Hoàng H còn phải nộp tiếp số
tiền 111.775.000 đồng (một trăm mười một triệu bảy trăm bảy mươi lăm nghìn
đồng).
- Ông Nguyễn Mậu Đ1 phải nộp 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng).
- Thị T phải nộp 13.210.360 đồng (mười ba triệu hai trăm mười
nghìn ba trăm sáu mươi đồng) được khấu trừ vào 57.280.000 đồng (năm
mươi bảy triệu hai trăm tám mươi nghìn đng) tin tm ng án phí đã np theo
Biên lai thu tiền số 0000182 ngày 10/6/2024 ca Chi cc Thi hành án dân s
huyn Du Tiếng. Hoàn trả cho Thị T số tiền còn lại 44.069.640 đồng
(bốn mươi bốn triệu không trăm sáu mươi chín nghìn sáu trăm bốn mươi đồng).
8. Về án phí dân sự phúc thẩm:
- Hoàn trả cho Thị T số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng)
theo Biên lai thu tiền số 0000409 ngày 28/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.
9. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật
Thi hành án dân snăm 2008 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi
hành án dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, t
nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7
và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
10. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
19
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS huyện Dầu Tiếng;
- TAND huyện Dầu Tiếng;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Văn Thanh
Tải về
Bản án số 12/2025/DS-PT Bản án số 12/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 12/2025/DS-PT Bản án số 12/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất