Bản án số 12/2025/DS-PT ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng ủy quyền
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 12/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 12/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 12/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 12/2025/DS-PT ngày 06/01/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng ủy quyền |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng ủy quyền |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 12/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hợp đồng vay tài sản, NĐ ông Phạm Quốc Đ, BĐ Nguyễn Mậu Đ |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
![](https://image3.luatvietnam.vn/uploaded/LawJudgs/Convert/Images/Original/2025/02/03/bg1-090419.png)
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 12/2025/DS-PT
Ngày 06 - 01 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng ủy quyền,
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, đòi lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và hợp đồng vay
tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Thanh.
Ông Nguyễn Thanh Tùng
Ông Nguyễn Văn Tài.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thùy Trang - Thư ký Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Ông Lê Trung Kiên - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
700/2024/TLPT-DS ngày 02/12/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền,
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đòi lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 111/2024/DS-ST ngày 19/8/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo và kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 529/2024/QĐ-PT,
ngày 09/12/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 591/2024/QĐ-PT
ngày 20 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Phạm Quốc Đ, sinh năm 1988;
2. Bà Phan Trịnh Hoàng H, sinh năm 1990.
2
Cùng địa chỉ: số B, đường N, tổ G, khu phố G, Phường A, quận T, Thành
phố Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện nay: Lô N nhà G C B, phường A, thành phố T,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông Phạm Quốc Đ đồng thời là người đại diện hợp pháp của bà Phan
Trịnh Hoàng H theo văn bản ủy quyền ngày 01/11/2023, có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Mậu Đ1, sinh năm 1991; địa chỉ: xóm P, xã X,
huyện T, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Võ Thị T, sinh năm 1982; địa chỉ: tổ B, khu phố T, phường T, thành
phố T, tỉnh Bình Dương.
- Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Võ Thị T: Ông Lê Văn L, sinh năm 1994; địa chỉ: thôn B, xã T, huyện S, tỉnh
Quãng Ngãi; địa chỉ liên lạc: số I, đường H, khu phố D, thị trấn D, huyện D, tỉnh
Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ngày 09/8/2024), có mặt.
2. Bà Trần Nguyễn Thảo T1, sinh năm 1988; địa chỉ: ấp T, xã M, huyện
D, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Văn phòng C, tỉnh Bình Dương; địa chỉ: số A, đường Đ, khu phố B,
phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Thị Thanh M - Trưởng Văn
phòng, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người kháng cáo: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị T.
- Viện Kiểm sát kháng nghị: Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-
VKS-DS ngày 30/8/2024 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu
Tiếng, tỉnh Bình Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo án sơ thẩm và quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Phạm Quốc Đ,
đồng thời ông Đ là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Phan Trịnh
Hoàng H trình bày:
Ông Phạm Quốc Đ và bà Phan Trịnh Hoàng H là vợ chồng, giữa ông Đ và
bà Trần Nguyễn Thảo T1 là người quen biết nhau. Bị đơn ông Nguyễn Mậu Đ1
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị T là người làm ăn chung và
ông Đ1, bà T là người quen của bà T1.
Lần 1: Do cần vốn kinh doanh bất động sản nên ngày 15/12/2022, bà T1
có giới thiệu cho ông Đ đến gặp bà Võ Thị T vay số tiền 3.000.000.000 đồng để
kinh doanh và được bà T đồng ý với điều kiện thỏa thuận lãi suất là 6%/tháng và
3
bà T thu trước tiền lãi tháng đầu tiên và ông Đ chấp nhận vay vốn của bà T.
Cùng ngày, bà T1 đã soạn thảo giấy vay tiền tại Văn phòng C (địa chỉ phường
B, thành phố T, tỉnh Bình Dương) nội dung: Ông Đ vay của bà T số tiền
3.000.000.000 đồng, thời hạn 05 tháng từ ngày 15/12/2022 và trả lại vốn gốc
ngày 15/5/2023, giấy vay tiền không đề cập lãi suất, ông Đ, bà T cùng ký xác
nhận việc vay tiền, bà T1 ký xác nhận người làm chứng. Ngày 16/12/2022, bà
Trung chuyển K cho bà T1 1.440.000.000 đồng và bà T1 đã chuyển khoản số
tiền này cho ông Đ ngay sau khi nhận; ông Nguyễn Mậu Đ1 đã chuyển khoản
cho ông Đ số tiền 1.380.000.000 đồng. Tổng cộng trong ngày 16/12/2022, ông
Đ đã được bà T, ông Đ1 chuyển số tiền gốc cho vay là 2.820.000.000 đồng (hai
tỷ tám trăm hai mươi triệu đồng) do bà T đã thu trước tháng lãi đầu tiên 6%
tương đương số tiền 180.000.000 đồng (một trăm tám mươi triệu đồng). Lần vay
này ông Đ đã thanh toán lãi cho bà T thông qua hình thức chuyển khoản ngân
hàng, cụ thể:
- Ngày 16/01/2023: chuyển khoản 180.000.000 đồng;
- Ngày 16/02/2023: chuyển khoản 180.000.000 đồng;
- Ngày 16/3/2023: chuyển khoản 150.000.000 đồng;
- Ngày 18/4/2023: chuyển khoản 150.000.000 đồng;
- Ngày 17/7/2023: chuyển khoản 100.000.000 đồng;
- Và số tiền lãi, bà T thu trước tháng đầu tiên vào ngày 15/12/2022 là
180.000.000 đồng.
Tổng số tiền lãi cho khoản vay 3.000.000.000 đồng, ông Đ đã nộp lãi cho
bà T tứ ngày 15/12/2022 đến ngày 17/7/2023 là 940.000.000 đồng, chưa thanh
toán cho bà T tiền gốc.
Lần 2: Ngày 10/01/2023, ông Đ tiếp tục hỏi vay của bà T và ông Đ1 số
tiền 1.000.000.000 đồng để kinh doanh thì bà T đồng ý và cũng với điều kiện lãi
suất 6%/tháng, thu trước lãi tháng đầu tiên. Lần vay này, hai bên không làm giấy
tờ, chỉ thỏa thuận miệng và cũng không thỏa thuận thời hạn nào trả lại vốn cho
bà T. Cùng ngày 10/01/2023, bà T đã chuyển khoản cho ông Đ số tiền
940.000.000 đồng sau khi đã trừ tiền lãi 6% của tháng đầu tiên. Số tiền ông Đ đã
thanh toán tiền lãi cho bà T như sau:
- Ngày 10/02/2023: Chuyển khoản 70.000.000 đồng;
- Ngày 10/3/2023: Chuyển khoản 70.000.000đồng;
- Ngày 12/4/2023: Chuyển khoản 20.000.000 đồng;
- Ngày 12/4/2023: Chuyển khoản 15.000.000 đồng;
4
- Ngày 06/5/2023: Chuyển khoản 25.000.000 đồng;
- Ngày 09/5/2023: Chuyển khoản 25.000.000 đồng;
- Ngày 24/5/2023: Chuyển khoản 30.000.000 đồng;
Khi nhận tiền vay lần 1 vào ngày 15/12/2022, thì ông Đ có giao cho bà Võ
Thị T bản chính Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN:
CS09305 mang tên Phạm Quốc Đ do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp
ngày 13/12/2022 đối với diện tích đất 7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561, tờ bản
đồ số 28 tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương và 01 giấy ủy quyền
của bà Phan Trịnh Hoàng H là vợ ông Đ ủy quyền cho bà T được sử dụng, cầm
cố, thế chấp, chuyển nhượng thửa đất 7.714,1m
2
thuộc thửa số 561, tờ bản đồ số
28 để bà T giữ làm tin.
Ngày 17/02/2023, bà T và ông Đ1 yêu cầu ông Đ đến Văn phòng C tại
phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương ký vào văn bản “Hợp đồng ủy quyền”
với nội dung: Ông Đ chấp nhận ủy quyền cho ông Nguyễn Mậu Đ1 được toàn
quyền sử dụng, định đoạt, chuyển nhượng cho người khác đối với thửa đất
7.714,1m
2
tại ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương của ông Đ, bà H theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho
ông Phạm Quốc Đ ngày 13/12/2022 hiện do bà T đang giữ đề làm tin. Trước khi
ký, ông Đ có thắc mắc thì được bà T và ông Đ1 giải thích, khi nào ông Đ trả đủ
số tiền vay (gốc 4.000.000.000 đồng và lãi suất) thì ông Đ1 sẽ đến Văn phòng
Công chứng ký hủy bỏ văn bản ủy quyền này để trả lại sổ đất cho ông Đ. Hợp
đồng ủy quyền được Công chứng viên Văn phòng C, quyển số 02/2023 TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 17/02/2023.
Tháng 9/2023, ông Đ phát hiện bị đơn là ông Nguyễn Mậu Đ1 đã đến Văn
phòng C ký “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đối với phần đất
7.714,1m
2
tại ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương thuộc thửa 561, tờ bản đồ
số 28 của ông Đ, bà H cho bà Võ Thị T được Văn phòng C, quyển số 09/2023
TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 15/9/2023 là trái pháp luật, không hỏi ý kiến ông Đ,
bà H.
Ông Đ, bà H khởi kiện đồng thời yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Dầu
Tiếng áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngăn chặn việc bà Võ Thị Trung L1
thủ tục trước bạ sang tên và chuyển nhượng đất cho người khác. Ngày
26/9/2023, Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đã ban hành Quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời số 19/2023/QĐ-BPKCTT ngày 26/9/2023 cấm
chuyển dịch tài sản đối với thửa đất 7.714,1m
2
tại ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình
Dương thuộc thửa đất số 561, tờ bản đồ số 28.
5
Nguyên đơn (ông Phạm Quốc Đ, bà Phan Trịnh Hoàng H) yêu cầu Tòa án
giải quyết:
1. Tuyên bố các hợp đồng ký tại Văn phòng C, tỉnh Bình Dương vô hiệu
do giả tạo nhằm che giấu hợp đồng vay tài sản giữa ông Phạm Quốc Đ và bà Võ
Thị T bao gồm:
1.1. “Hợp đồng ủy quyền” ký ngày 17/02/2023 giữa ông Phạm Quốc Đ và
ông Nguyễn Mậu Đ1 đối với diện tích đất 7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561, tờ
bản đồ số 28 tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương được Văn phòng
C, tỉnh Bình Dương chứng nhận số công chứng 00994, quyển số 02/2023
TP/CC-SCC/HĐGD.
1.2. “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ký ngày 15/9/2023
giữa ông Nguyễn Mậu Đ1 và bà Võ Thị T đối với diện tích đất 7.714,1m
2
thuộc
thửa đất số 561, tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình
Dương được Văn phòng C, tỉnh Bình Dương chứng nhận số công chứng 08928,
quyển số 09/2023 TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiệu do hợp đồng ủy quyền ngày
17/02/2023 giữa ông Đ1 và ông Đ là vô hiệu.
2. Buộc bị đơn ông Nguyễn Mậu Đ1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Võ Thị T cùng liên đới trả lại cho ông Đ, bà H bản chính Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS09305 do Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh B cấp ngày 13/12/2022 cho ông Phạm Quốc Đ.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Võ Thị T: Ông Đ đồng ý thanh toán tiền nợ gốc đối với 02 khoản
vay ngày 15/12/2022 là 3.000.000.000 đồng và khoản vay ngày 10/01/2023 là
1.000.000.000 đồng và lãi suất theo quy định của pháp luật từ ngày vay đến thời
điểm Tòa xét xử sơ thẩm và khấu trừ vào tiền lãi suất ông Đ đã trả lãi cho bà T
vượt quá quy định pháp luật.
4. Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số
19/2023/QĐ-BPKCTT, ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng,
tỉnh Bình Dương để đảm bảo thi hành án.
- Bị đơn là ông Nguyễn Mậu Đ1 trình bày:
Ông Đ1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị T góp vốn
làm ăn chung. Việc bà T cho nguyên đơn Phạm Quốc Đ vay số tiền
4.000.000.000 đồng trong 02 lần vào ngày 15/12/2022 và 10/01/2023, lãi suất
thu trước tháng đầu 6%, số tiền lãi ông Đ đã trả cho bà T là 1.200.000.000 đồng,
ông Đ1 biết rõ vì trong số tiền trên có vốn góp của ông Đ1 nhưng giữa ông Đ1
và bà T không tranh chấp về tiền góp vốn của mỗi bên trong vụ án này. Ngày
17/02/2023, ông Đ đã ký văn bản “Hợp đồng ủy quyền” số công chứng 00994,
6
quyển số 02/2023 TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C, cho ông Nguyễn Mậu
Đ1 có toàn quyền quyết định việc sử dụng, cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng
phần đất diện tích 7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561, tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại ấp
L, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương do ông Đ đứng tên trên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 13/12/2022.
Giữa ông Đ1 và ông Đ không thực hiện bất kỳ quyền và nghĩa vụ gì kể cả việc
giao nhận đất, giao nhận tiền liên quan đến hợp đồng ủy quyền nói trên. Hợp
đồng ủy quyền này ông Đ ký giao cho ông Đ1 giữ nhằm đảm bảo cho việc ông
Đ thanh toán tiền vốn vay 4.000.000.000 đồng và lãi suất theo thỏa thuận
6%/tháng đối với bà Võ Thị T mà thôi. Do số tiền vay đã đến hạn thanh toán từ
ngày 15/5/2023 nhưng ông Đ không trả vốn, không trả lãi, bà T, ông Đ1 đã hối
thúc nhiều lần nhưng ông Đ cố tình tránh né không trả tiền vay nên ông Đ1 mới
báo cho ông Đ biết sẽ bán đất của ông Đ để thu hồi vốn. Ngày 15/9/2023 ông
Đ1, bà T đến Văn phòng C ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nội
dung: ông Đ1 chuyển nhượng cho bà T phần đất 7.714,1m
2
thuộc thửa đất số
561, tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương. Hợp đồng
đã được Văn phòng C, tỉnh Bình Dương chứng nhận số công chứng 08928,
quyển số 09/2023 TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 15/9/2023.
Bị đơn ông Nguyễn Mậu Đ1 xác định đang giữ bản chính Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS09305 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp ngày 13/12/2022 cho ông Phạm Quốc Đ nhưng bị đơn không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (ông Đ, bà H) về việc tuyên bố
hợp đồng ủy quyền sử dụng đất giữa ông Phạm Quốc Đ và ông Nguyễn Mậu Đ1
ngày 17/02/2023 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nguyễn Mậu Đ1 và bà Võ Thị T ký ngày 15/9/2023 tại Văn phòng C. Không
đồng ý trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp
GCN: CS09305 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 13/12/2022
cho ông Phạm Quốc Đ. Khi nào nguyên đơn trả đủ số tiền gốc đã vay
(4.000.000.000 đồng) và tiền lãi chưa thanh toán theo mức lãi hai bên thỏa thuận
6%/tháng cho bà T thì ông Đ1, bà T sẽ đến Văn phòng C ký hủy bỏ hợp đồng
chuyển nhượng ngày 15/9/2023 trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS09305 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B
cấp ngày 13/12/2022 cho ông Phạm Quốc Đ.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là bà Võ Thị
T và người đại diện hợp pháp của bà Võ Thị T là ông Lê Văn L trình bày:
Bà T xác định lời trình bày trong quá trình tố tụng của nguyên đơn Phạm
Quốc Đ, Phan Trịnh Hoàng H, bị đơn Nguyễn Mậu Đ1 về việc vay tiền, lãi suất,
việc ủy quyền sử dụng đất, chuyển nhượng đất 7.714,1m
2
tại ấp L, xã L, huyện
7
D đều đúng sự thật. Bà T khai: giữa bà T, ông Đ1 và vợ chồng ông Đ, bà H hoàn
toàn không có quan hệ, giao dịch nào liên quan đến việc tặng cho, chuyển
nhượng, chuyển quyền sử dụng đối với phần đất thuộc quyền sử dụng của ông
Phạm Quốc Đ, bà Phan Trịnh Hoàng H diện tích 7.714,1m
2
thuộc thửa 561, tờ
bản đồ số 28 tại ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương do ông Phạm Quốc Đ
được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất ngày 13/12/2022. Trên thực tế, ông Đ cần vốn kinh doanh bất động sản, bà
T, ông Đ1 có vốn cần cho vay và thông qua người giới thiệu là bà Trần Nguyễn
Thảo T1 thì bà T cho ông Đ vay tiền, cụ thể:
Ngày 15/12/2022, lập giấy “Giấy thỏa thuận mượn tiền” tại Văn phòng C,
nội dung: Ông Đ vay của bà T số tiền 3.000.000.000 đồng, thời hạn vay 05
tháng hoàn lại từ ngày 15/12/2022 đến ngày 15/5/2023. Số tiền vay này, bà T
thống nhất tính đến ngày 17/7/2023, ông Đ đã thanh toán tiền lãi là 940.000.000
đồng, tiền vốn chưa thanh toán đồng nào.
Ngày 10/01/2023, vay 1.000.000.000 đồng, không làm giấy tờ bà T có
giao ước thời gian hoàn vốn như lần vay cũ (15/12/2022) và ông Đ chấp nhận.
Lần vay này, ông Đ thanh toán lãi đến ngày 10/5/2023 là 260.000.000 đồng.
Dù giấy tờ không thể hiện lãi suất nhưng hai bên có thỏa thuận riêng lãi
suất 6%/tháng và thực tế, bà T cũng đã trừ lãi trước tháng đầu tiên 6% khi giao
vốn vay cho ông Đ và các tháng tiếp theo ông Đ cũng chuyển khoản thanh toán
lãi theo mức lãi suất 6%/tháng.
Để đảm bảo cho việc thanh toán tiền vốn vay và lãi suất thì bà T mới yêu
cầu ông Đ ra phòng công chứng ký hợp đồng ủy quyền cho ông Nguyễn Mậu
Đ1 (là người góp vốn làm ăn với bà T) sử dụng, định đoạt phần đất 7.714,1m
2
của ông Đ, bà H tại huyện D. Do đó mới ra đời văn bản “Hợp đồng ủy quyền”
số công chứng 00994, quyển số 02/2023 TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C
giữa ông Đ và ông Đ1. Đây là hình thức thế chấp tài sản để vay tiền, ngược lại
giữa ông Đ1 và ông Đ không giao nhận đất, không giao nhận tiền chuyển
nhượng. Tương tự, do hết thời hạn vay tiền nhưng ông Đ, bà H không trả lại vốn
vay cũng không trả lãi suất từ tháng 5/2023, vì vậy ngày 15/9/2023, ông Đ1 mới
ký hợp đồng chuyển nhượng phần đất 7.714,1m
2
(do ông Đ đã ủy quyền cho ông
Đ1 ngày 17/02/2023) cho bà T theo Hợp đồng số công chứng 08928, quyển số
09/2023 TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 15/9/2023 tại Văn phòng C để bà T bán đất
thu hồi vốn.
Quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, bà T và người đại diện theo ủy quyền
của bà T là ông Lê Văn L không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về
việc tuyên vô hiệu hợp đồng ủy quyền ngày 17/02/2023 giữa ông Nguyễn Mậu
8
Đ1 và ông Phạm Quốc Đ và vô hiệu đối với hợp đồng chuyển nhượng giữa ông
Nguyễn Mậu Đ1 và bà Võ Thị T ngày 15/9/2023. Không đồng ý trả lại bản gốc
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp
ngày 13/12/2022 cho nguyên đơn. Bà Võ Thị T có yêu cầu độc lập như sau:
Buộc các nguyên đơn là ông Phạm Quốc Đ, bà Phan Trịnh Hoàng H phải
thanh toán cho bà T số tiền gốc đã vay là 4.000.000.000 đồng và tiền lãi tính từ
ngày vay đến ngày xét xử sơ thẩm 19/8/2024 là 1.839.283.000 đồng, khấu trừ đi
số tiền lãi ông Đ đã thanh toán 1.200.000.000 đồng, còn lại 639.283.000 đồng,
tổng cộng gốc và lãi buộc các nguyên đơn phải thanh toán đến ngày xét xử sơ
thẩm là 4.639.283.000 đồng (bốn tỷ sáu trăm ba mươi chín triệu hai trăm tám
mươi ba nghìn đồng).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Nguyễn Thảo T1 trình
bày:
Bà T1 là người quen biết với ông Đ1, bà T, bà T1 chỉ biết vợ chồng ông
Đ, bà H qua sự giới thiện của ông Trần Khánh H1 (bạn bà T1). Bà T1 có giới
thiệu cho ông Đ, bà H vay tiền của bà T 4.000.000.000 đồng vào ngày
15/12/2022 và 10/01/2023, mức lãi bà T cho nhiều người vay trong đó có ông Đ,
bà H là 6%/tháng. Quá trình vay thì do tình nghĩa với bà T, ông Đ1 nên bà T1
đứng ra nhận tiền từ bà T sau đó chuyển giao cho ông Đ, nhận tiền lãi từ ông Đ
sau đó chuyển giao cho bà T, bà T1 không hưởng lợi ích gì từ việc vay mượn
tiền giữa các bên. Bà T1 xác định từ ngày vay 15/12/2022 đến thời điểm ngày
17/7/2023 ông Đ đã thanh toán tiền lãi cho bà T được 1.200.000.000 đồng. Bà
T1 chỉ biết ông Đ, bà H có thế chấp chấp cho bà T thửa đất số 561, tờ bản đồ số
28, diện tích 7.714,1m
2
tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương cho bà
T, ông Đ1 để làm tin. Bà T1 không biết việc chuyển nhượng thửa đất này giữa
bà T và ông Đ1, do chị em tình nghĩa nên bà T1 mới giúp công việc trên cho bà
T và bà T1 không có lợi ích, thù lao, lợi nhuận gì trong giao dịch trên nên không
yêu cầu gì trong vụ án.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Văn phòng C, tỉnh Bình
Dương có văn bản ngày 11/7/2024 gửi Tòa án như sau:
Văn phòng C có thực hiện công chứng 02 loại hợp đồng dân sự gồm: Hợp
đồng ủy quyền số 00994, quyển số 02/2023TP/CC-SCC/HĐGD, ngày
17/02/2023 về ủy quyền tài sản là quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 561, tờ
bản đồ số 28, diện tích 7.714,1m
2
tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D giữa ông Phạm
Quốc Đ, bà Phan Trịnh Hoàng H và ông Nguyễn Mậu Đ1; Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất số 08928, quyển số 09/2023TP/CC-SCC/HĐGD,
ngày 15/9/2023 về chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 561, tờ
9
bản đồ số 28, diện tích 7.714,1m
2
tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D giữa ông
Nguyễn Mậu Đ1 và bà Võ Thị T. Việc chứng nhận các giao dịch trên theo yêu
cầu công chứng của đương sự là đúng quy định tại Điều 41 của Luật Công
chứng nên Văn phòng C không ý kiến gì về vụ án đồng thời xin vắng mặt khi
Tòa án xét xử.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 111/2024/DS-ST ngày 19/8/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Quốc Đ và bà Phan Trịnh
Hoàng H đối với ông Nguyễn Mậu Đ1 về việc “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền;
tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
1.1. Tuyên bố “Hợp đồng ủy quyền” ký ngày 17/02/2023 giữa ông Phạm
Quốc Đ và ông Nguyễn Mậu Đ1 được Văn phòng C, tỉnh Bình Dương chứng
nhận số công chứng 00994, quyển số 02/2023 TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiệu.
1.2. Tuyên bố “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ký ngày
15/9/2023 giữa ông Nguyễn Mậu Đ1 và bà Võ Thị T đối với diện tích đất
7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561, tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D,
tỉnh Bình Dương được Văn phòng C, tỉnh Bình Dương chứng nhận số công
chứng 08928, quyển số 09/2023 TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiệu.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Võ Thị T đối với nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ, bà Phan Trịnh
Hoàng H về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Buộc ông Phạm Quốc Đ và bà Phan Trịnh Hoàng H có trách nhiệm liên
đới thanh toán cho bà Võ Thị T số tiền 3.408.022.510 đồng (ba tỷ bốn trăm lẻ
tám triệu không trăm hai mươi hai nghìn năm trăm mười đồng).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ do
chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28/8/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Võ Thị T kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án
sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan: “Buộc ông Phạm Quốc Đ và bà Phan Trịnh Hoàng H phải
liên đới thanh toán cho bà Võ Thị T số tiền 4.639.283.000 đồng, bao gồm
4.000.000.000 đồng tiền gốc và 639.283.000 đồng tiền lãi”.
Ngày 30/8/2024, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng,
tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-
DS kháng nghị một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 111/2024/DS-ST ngày
19/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng. Đề nghị Tòa án cấp phúc
thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm về căn cứ tính tiền lãi và cách tính tiền lãi.
10
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của người có quyền lợ,
nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị T là ông Lê Văn L xác định không kháng cáo đối
với phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tuyên vô hiệu “Hợp đồng ủy
quyền” ký ngày 17/02/2023 giữa ông Phạm Quốc Đ và ông Nguyễn Mậu Đ1 và
“Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ký ngày 15/9/2023 giữa ông
Nguyễn Mậu Đ1 và bà Võ Thị T tại Văn phòng C. Không có ý kiến gì về phần
quyết định của bản án sơ thẩm tuyên buộc bà T, ông Đ1 trả lại cho ông Đ, bà H
bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chỉ kháng cáo yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm: buộc ông Phạm Quốc Đ và bà
Phan Trịnh Hoàng H phải liên đới thanh toán cho bà Võ Thị T số tiền
4.639.283.000 đồng, bao gồm 4.000.000.000 đồng tiền gốc và 639.283.000 đồng
tiền lãi và tiếp tục thanh toán tiền lãi nợ quá hạn từ ngày xét xử sơ thẩm
19/8/2024 đến ngày xét xử phúc thẩm 06/01/2025. Nguyên đơn giữ nguyên yêu
cầu khởi kiện, bị đơn không kháng cáo và không có ý kiến thay đổi, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có kháng cáo nhưng không
cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Trần Nguyễn Thảo T1, Văn phòng C không có ý kiến khác. Các
đương sự không thỏa thuận được các vấn đề có tranh chấp trong vụ án.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã
thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nên Viện Kiểm sát không
kiến nghị khắc phục gì thêm. Viện Kiểm sát giữ nguyên Quyết định kháng nghị
số 03/QĐ-VKS-DS, ngày 30/8/2024 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
huyện Dầu Tiếng.
- Về nội dung: Quá trình tố tụng và xét xử tại cấp sơ thẩm, các đương sự
trong vụ án gồm: Nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ, bà Phan Trịnh Hoàng H; bị
đơn ông Nguyễn Mậu Đ1; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị T,
bà Trần Nguyễn Thảo T1 đều thừa nhận: ngày 17/02/2023, ông Phạm Quốc Đ
và bà Phan Trịnh Hoàng H ký “Hợp đồng ủy quyền” cho ông Nguyễn Mậu Đ1
được toàn quyền thực hiện các quyền của người sử dụng đất đối với thửa đất số
561, tờ bản đồ số 28, diện tích 7.714,1m
2
tại ấp L, xã L, huyện D theo Giấy
Chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS09305 mang tên Phạm
Quốc Đ do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 13/12/2022 tai Văn
phòng Công chứng C (phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương). Mục đích của
việc ông Đ, bà H ký ủy quyền sử dụng đất cho ông Đ1 như trên chỉ nhằm đảm
bảo việc thực hiện thanh toán tiền vay 4.000.000.000 đồng và tiền lãi theo thỏa
thuận giữa người vay là ông Phạm Quốc Đ và người cho vay là bà Võ Thị T xác
lập vào các ngày 15/12/2022 và 10/01/2023, ngoài ra giữa ông Đ1 và ông Đ
không thỏa thuận bất kỳ một giao dịch nào khác liên quan đến việc định đoạt,
chuyển quyền sử dụng 7.714,1m
2
đất tại ấp L, xã L, huyện D của ông Đ, bà H
cho ông Đ1. Do đó, Tòa án sơ thẩm đã nhận định Hợp đồng ủy quyền ký ngày
17/02/2023 giữa ông Phạm Quốc Đ và ông Nguyễn Mậu Đ1 được Văn phòng C,
tỉnh Bình Dương chứng nhận số công chứng 00994, quyển số 02/2023 TP/CC-
SCC/HĐGD là hợp đồng giả tạo nhằm che giấu cho hợp đồng vay tài sản ngày
11
15/12/2022 và 10/3/2023 giữa ông Đ và bà T nên bị vô hiệu theo Điều 124 của
Bộ luật Dân sự và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định tại
Điều 131 của Bộ luật Dân sự là đúng quy định pháp luật. Do Hợp đồng ủy
quyền nêu trên vô hiệu do giả cách nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất lập ngày 15/9/2023 giữa bà Võ Thị T và ông Nguyễn Mậu Đ1 về việc
chuyển nhượng thửa đất số 561, tờ bản đồ số 28 diện tích 7.714,1m
2
đất của ông
Đ, bà H không phát sinh hiệu lực và cũng bị vô hiệu.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng bị che giấu là hợp đồng vay tài sản
giữa bà Võ Thị T và ông Phạm Quốc Đ phát sinh hiệu lực và đã giải quyết tranh
chấp theo yêu cầu độc lập của bà Võ Thị T là đúng quy định tại các Điều 357,
463, 466, 468, 469, 470 của Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xác
định hợp đồng vay vào các ngày 15/12/2022 và 10/01/2023 giữa bà Võ Thị T và
ông Phạm Quốc Đ là loại hợp đồng vay có thời hạn và không xác định rõ lãi
suất, từ đó áp dụng mức lãi suất 10%/năm theo khoản 2 Điều 468 của Bộ luật
Dân sự để tính lãi suất chậm trả từ ngày vay đến thời điểm xét xử sơ thẩm
19/8/2024 là chưa đúng quy định pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của bà T.
Quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, các đương sự đều thừa nhận số tiền ông
Đ vay của bà T vào ngày 15/12/2022 và ngày 10/01/2023 đều có thỏa thuận mức
lãi là 6%/tháng (tương đương 72%/năm) và là vay có thời hạn thanh toán cuối
cùng là ngày 15/5/2023, do đó hợp đồng vay giữa ông Đ, bà T nói trên thuộc
trường hợp vay có thời hạn và có lãi, mức lãi các đương sự thỏa thuận 72%/năm
là vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật
Dân sự (20%/năm) nên cần xác định phần lãi trong hạn (15/12/2022 đến
17/7/2023) ông Đ đã trả cho bà T vượt quá 52%/năm không có hiệu lực và được
trừ vào tiền gốc theo quy định tại Điều 9 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP,
ngày 11/01/2019 của Tòa án nhân dân tối cao. Phần nợ gốc chưa thanh toán sau
khi hết hạn, được tính lãi chậm trả bằng 150% lãi suất trong hạn theo quy định
tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự đến thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy
định tại điểm b khoản 5 Điều 466 Bộ luậT Dân sự và điểm c khoản 2 Điều 5 của
Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Tòa án nhân dân tối
cao.
Đề nghị Hội đồng xét xử: căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người có quyền , nghĩa
nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị T, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện
Kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số
111/2024/DS-ST ngày 19/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh
Bình Dương như Viện Kiểm sát đã trình bày như trên.
Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
12
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu
Tiếng, tỉnh Bình Dương và kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập bà Võ Thị T trong hạn luật định. Căn cứ Điều 293 của
Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý và xét xử vụ án theo quy
định.
[1.2] Bị đơn ông Nguyễn Mậu Đ1 vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Trần Nguyễn Thảo T1 và Văn phòng C có đơn yêu cầu giải quyết
vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên theo
quy định tại Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung: nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ, bà Phan Trịnh Hoàng H
khởi kiện yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Mậu Đ1, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Võ Thị T cùng liên đới trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS09305 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B
cấp cho ông Phạm Quốc Đ ngày 13/12/2022 cho nguyên đơn. Đồng thời nguyên
đơn cho rằng văn bản “Hợp đồng ủy quyền” do nguyên đơn đã ký ngày
17/02/2023 để ủy quyền cho bị đơn (ông Đ1) được quyền sử dụng, định đoạt
thửa đất 7.714,1m
2
đất của ông Đ, bà H, số công chứng 00994, quyển số
02/2023 TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C là giả tạo nên yêu cầu Tòa án
tuyên hợp đồng ủy quyền này vô hiệu do che giấu cho hợp đồng vay tài sản thể
hiện bằng “Giấy thỏa thuận mượn tiền” lập ngày 15/12/2022 tại Văn phòng C
với số tiền vay là 3.000.000.000 đồng trong thời hạn 05 tháng và một hợp đồng
miệng thỏa thuận vay tiền 1.000.000.000 đồng ngày 10/01/2023 giữa ông Phạm
Quốc Đ và bà Võ Thị T. Do Hợp đồng ủy quyền trên vô hiệu nên kéo theo “Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ký ngày 15/9/2023 giữa ông Nguyễn
Mậu Đ1 và bà Võ Thị T đối với diện tích đất 7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561,
tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương được Văn
phòng C, tỉnh Bình Dương chứng nhận số công chứng 08928, quyển số 09/2023
TP/CC-SCC/HĐGD cũng bị vô hiệu. Quá trình tố tụng, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là bà Võ Thị T có đơn yêu cầu độc lập và được Tòa cấp sơ
thẩm chấp nhận: Buộc nguyên đơn Phạm Quốc Đ và bà Phan Trịnh Hoàng H
cùng liên đới thanh toán cho bà T số tiền gốc đã vay ngày 15/12/2022 là
3.000.000.000 đồng; tiền gốc đã vay ngày 10/01/2023 là 1.000.000.000 đồng,
tổng cộng tiền nợ gốc là 4.000.000.000 đồng và lãi suất tính từ ngày vay đến
ngày xét xử sơ thẩm sau khi khấu trừ số tiền lãi nguyên đơn đã thanh toán là
1.200.000.000 đồng, còn lại 639.283.000 đồng, tổng tiền gốc và lãi đến ngày xét
xử sơ thẩm là 4. 639.283.000 đồng.
[3] Xét về “Hợp đồng ủy quyền” số công chứng 00994, quyển số 02/2023
TP/CC-SCC/HĐGD xác lập ngày 17/02/2023 tại Văn phòng C giữa ông Phạm
Quốc Đ và ông Nguyễn Mậu Đ1 về việc ủy quyền định đoạt đối với khu đất diện
13
tích 7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561, tờ bản đồ số 28 tại ấp L, xã L, huyện D,
tỉnh Bình Dương, thấy rằng: tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên tham gia
giao dịch đều có đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự và đều ký kết
trên tinh thần tự nguyện, không thể hiện sự ép buộc lẫn nhau. Do đó, Hợp đồng
ủy quyền này do công chứng viên Trần Thị Thanh M thuộc Văn phòng C công
chứng là hoàn toàn đúng quy định tại các Điều 117, 119, 401, 501, 502, 562,
563 của Bộ luật Dân sự và phù hợp Điều 41 của Luật Công chứng nên có giá trị
thực hiện giữa các bên từ thời điểm giao kết. Tuy nhiên, quá trình tố tụng, giữa
nguyên đơn (ông Đ), bị đơn (ông Đ1) và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
(bà T) đều thừa nhận và xác định giữa ông Đ và ông Đ1 hoàn toàn không thỏa
thuận việc chuyển quyền sử dụng đối với khu đất 7.714,1m
2
nêu trên, hai bên
cũng không giao nhận đất, không giao nhận tiền, không có thù lao, khu đất trên
vẫn do ông Đ và bà H quản lý sử dụng. Mục đích ông Đ ký hợp đồng ủy quyền
sử dụng đất cho ông Đ1 nhằm để đảm bảo cho việc ông Đ thanh toán tiền gốc
4.000.000.000 đồng và lãi suất thỏa thuận cho bà Võ Thị T theo các hợp đồng
vay ngày 15/12/2022 và ngày 10/01/2023. Sự thừa nhận của các đương sự là
tình tiết không cần phải chứng minh theo Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Do các bên đương sự đã thừa nhận “Hợp đồng ủy quyền” số công chứng 00994,
quyển số 02/2023 TP/CC-SCC/HĐGD xác lập ngày 17/02/2023 tại Văn phòng
C giữa ông Phạm Quốc Đ và ông Nguyễn Mậu Đ1 là hợp đồng giả tạo nhằm che
giấu cho Hợp đồng vay tài sản giữa bà Võ Thị T và ông Phạm Quốc Đ số tiền
4.000.000.000 đồng vào ngày 15/12/2022 và 10/01/2023 nên hợp đồng ủy quyền
giữa ông Đ, ông Đ1 nói trên bị vô hiệu do giả tạo theo Điều 124 của Bộ luật Dân
sự, giao dịch dân sự “Vay tài sản” giữa ông Đ, bà T bị che giấu phát sinh hiệu
lực. Do hợp đồng vô hiệu nên các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận
theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật Dân sự. Các bên thừa nhận giữa ông Đ,
ông Đ1 chưa thực hiện hành vi nào đối với hợp đồng ủy quyền nói trên nên chưa
có hậu quả. Tuy nhiên, ngày 15/9/2023, ông Nguyễn Mậu Đ1 đã ký hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất 7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561, tờ bản đồ số
28 tại ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương cho bà Võ Thị T số công chứng
08928, quyển số 09/2023 TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiệu do hợp đồng ủy quyền
sử dụng đất do ông Đ đã ký cho ông Đ1 ngày 17/02/2023 bị vô hiệu. Tòa án cấp
sơ thẩm xét xử tuyên hai hợp đồng: Hợp đồng ủy quyền số công chứng 00994,
quyển số 02/2023 TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 17/02/2023 giữa ông Phạm Quốc
Đ và ông Nguyễn Mậu Đ1 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
công chứng 08928, quyển số 09/2023 TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 15/9/2023 giữa
ông Nguyễn Mậu Đ1 và bà Võ Thị T tại Văn phòng C vô hiệu. Buộc bị đơn ông
Nguyễn Mậu Đ1, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị T cùng liên
đối trả lại cho các nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ và bà Phan Trịnh Hoàng H
bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DI604050, số vào sổ CS09305
do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B đã cấp cho ông Phạm Quốc Đ ngày
13/12/2022 là có căn cứ đúng quy định pháp luật.
14
[4] Xét yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ
Thị T đối với các hợp đồng vay tài sản giữa bà Võ Thị T và ông Phạm Quốc Đ
xác lập các ngày 15/12/2022 và 10/3/2023:
[4.1] Theo “Giấy thỏa thuận mượn tiền” lập ngày 15/12/2022, thể hiện
ông Phạm Quốc Đ vay của bà Võ Thị T số tiền gốc là 3.000.000.000 đồng (ba tỷ
đồng), thời hạn vay từ ngày 15/12/2022 đến ngày 15/5/2023. Mặc dù, trong văn
bản vay mượn tiền này giữa bên vay và bên đi vay không đề cập lãi suất nhưng
trên thực tế, bà T đã thu lãi trước tháng đầu tiên với số tiền 180.000.000 đồng,
tương đương 6% và các tháng 01/2023, 02/2023 … hàng tháng, ông Đ đều
chuyển khoản nộp lãi cho bà T mỗi tháng 180.000.000 đồng, tương đương 6%.
Do đó, có đủ căn cứ xác định hợp đồng vay tiền ngày 15/12/2022 giữa bà T và
ông Đ là loại hợp đồng vay có thời hạn 05 tháng và lãi suất 6%/tháng (tương
đương 72%/năm). Giữa ông Đ và bà T đã khai thống nhất số tiền lãi trong hạn
đối với khoản vay này ông Đ đã thanh toán cho bà T đến ngày 17/7/2023 là
940.000.000 đồng. Mức lãi suất 72%/năm do các đương sự đã tự nguyện thỏa
thuận là quá cao, vượt mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ
luật Dân sự (20%/năm). Vì vậy, cần áp dụng đoạn 2 khoản 1 Điều 468 của Bộ
luật dân sự và Điều 9 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để xử lý số tiền lãi trong hạn đã
thanh toán vượt quy định như sau:
- Lãi trong hạn theo quy định tại khoản 1 Điềun 468 của Bộ luật Dân sự:
3.000.000.000 đồng x 20%/năm (tương đương 1,667%/tháng) x 05 tháng
(15/12/2022 – 15/5/2023) = 250.050.000 đồng.
- Tiền lãi ông Đ đã thanh toán cho bà T đối với khoản vay này từ ngày
15/12/2022 đến 17/7/2023) là 940.000.000 đồng. Khấu trừ tiền lãi đã thực thanh
toán và lãi trong hạn theo quy định pháp luật: 940.000.000 đồng – 250.050.000
đồng = 689.950.000 đồng. Số tiền lãi trong hạn ông Đ thanh toán thừa theo quy
định pháp luật sẽ được khấu trừ vào vốn gốc như sau: 3.000.000.000 đồng –
689.950.000 đồng = 2.310.050.000 đồng (1).
Từ ngày 16/5/2023 đến thời điểm Tòa sơ thẩm giải quyết (19/8/2024) là
01 năm 04 tháng 03 ngày, ông Đ chưa thanh toán nợ gốc cho bà T nên được tính
theo nợ lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn theo quy định tại điểm b khoản 2
Điều 466 của Bộ luật Dân sự và điểm c khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số
01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao:
- 2.310.050.000 đồng x [20%/năm (tương đương 1,667%/tháng) x 150%] x 01
năm 04 tháng 03 ngày = 929.775.000 đồng (2).
[4.2] Đối với hợp đồng vay tài sản ngày 10/01/2023 không lập thành văn
bản: giữa bà Võ Thị T và ông Phạm Quốc Đ đã khai thống nhất: ngày
10/01/2023, ông Đ vay của bà T 1.000.000.000 đồng tiền gốc, lãi suất 6%/tháng,
ông Đ đã thanh toán tiền lãi cho bà T đối với hợp đồng vay này tính đến tháng
5/2023 là 260.000.000 đồng. Do hai bên không lập văn bản về việc vay tiền, chỉ
thống nhất về lãi suất, không thống nhất về thời hạn vay. Bà T xác định thời hạn
15
hoàn vốn vay của hợp đồng này cũng thỏa thuận đến ngày 15/5/2023, lời trình
bày của bà T không được ông Đ thừa nhận, ông Đ xác định hợp đồng vay này
không xác định thời hạn. Xét quá trình trả lãi cho khoản vay 1.000.000.000
đồng, ngày 10/01/2023, ông T chỉ thanh toán lãi lần cuối đối với khoản vay này
là các ngày 09/5 và 24/5/2023 nhưng sồ tiền lãi đã thanh toán cũng không đầy
đủ, từ đó có thể xác định ông Đ đã biết bà T chỉ cho vay số tiền 1.000.000.000
đồng đến ngày 15/5/2023 bằng với thời hạn vay số tiền 3.000.000.000 đồng
trước đó vào ngày 15/12/2022. Do đó, hợp đồng vay ngày 10/01/2023, số tiền
1.000.000.000 đồng giữa ông Đ và bà T có đủ căn cứ xác định là loại hợp đồng
vay xác định thời hạn 04 tháng 05 ngày và lãi suất 6%/tháng (tương đương
72%/năm). Do vậy, tiền lãi ông Đ đã thanh toán trong hạn vượt quá quy định
của pháp luật cũng sẽ được xem xét giải quyết trừ vào tiền gốc theo quy định tại
khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự và Điều 9 Nghị quyết số 01/2019/NQ-
HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, cụ
thể như sau:
- Lãi trong hạn theo quy định tại khoản 1 Điềun 468 Bộ luật dân sự:
1.000.000.000 đồng x 20%/năm (tương đương 1,667%/tháng) x 04 tháng 05
ngày (10/01/2023 – 15/5/2023) = 69.446.000 đồng.
- Tiền lãi ông Đ đã thanh toán cho bà T đối với khoản vay này từ ngày
10/01/2023 đến 24/5/2023) là 260.000.000 đồng. Khấu trừ tiền lãi đã thực thanh
toán và lãi trong hạn theo quy định pháp luật: 260.000.000 đồng – 69.446.000
đồng = 190.554.000 đồng. Số tiền lãi trong hạn ông Đ thanh toán thừa theo quy
định pháp luật sẽ được khấu trừ vào vốn gốc như sau: 1.000.000.000 đồng –
190.554.000 đồng = 809.446.000 đồng (3).
Từ ngày 16/5/2023 đến thời điểm Tòa sơ thẩm giải quyết (19/8/2024) là
01 năm 04 tháng 03 ngày, ông Đ chưa thanh toán nợ gốc cho bà T nên được tính
theo nợ lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn theo quy định tại điểm b khoản 2
Điều 466 của Bộ luật Dân sự và điểm c khoản 2 Điều 5 của Nghị quyết số
01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao:
- 809.446.000 đồng x [20%/năm (tương đương 1,667%/tháng) x 150%] x 01
năm 04 tháng 03 ngày = 325.804.800 đồng (4).
[5] Từ các phân tích như trên, xét thấy kháng cáo của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị T và kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa
bản án sơ thẩm về phần tính lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn đối với các hợp
đồng vay ngày 15/12/2022 và ngày 10/01/2023 là có căn cứ được chấp nhận.
Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm đối với yêu cầu độc
lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về tranh chấp hợp đồng vay tài
sản đối với nguyên đơn Phạm Quốc Đ, bà Phan Trịnh Hoàng H về thanh toán
tiền gốc và lãi suất chậm trả, lãi quá hạn. Cụ thể:
Ông Phạm Quốc Đ và vợ là bà Phan Trịnh Hoàng H cùng liên đới có
trách nhiệm thanh toán cho bà Võ Thị T tổng số tiền: (1) + (2) + (3) + (4) =
16
2.310.050.000 đồng + 929.775.000 đồng + 809.446.000 đồng + 325.804.800 =
4.375.075.800 đồng, trong đó tiền gốc là 3.119.496.000 đồng (ba tỷ một trăm
mười chín triệu bốn trăm chín mươi sáu nghìn đồng), tiền lãi tính đến thời điểm
xét xử sơ thẩm là 1.255.579.800 đồng (một tỷ hai trăm năm mươi lăm triệu năm
trăm bảy mươi chín nghìn tám trăm đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (19/8/2024) cho đến khi thi
hành án xong, ông Phạm Quốc Đ và bà Phan Trịnh Hoàng H còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo quy định
tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
[6] Các đương sự trong vụ án có quyền nộp đơn yêu cầu Chánh án Tòa án
nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xem xét duy trì hoặc hủy bỏ
Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 19/2023/QĐ-BPKCTT,
ngày 26/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương theo
quy định tại điểm g khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[7] Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại
phiên tòa phúc thẩm được chấp nhận một phần.
[8] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá tài sản, sao lục
hồ sơ: bị đơn phải chịu theo quy định pháp luật.
[9] Về án phí dân sự sơ thẩm: nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ, bà Phan
Trịnh Hoàng H phải chịu án phí đối với nghĩa vụ thanh toán tiền vay gốc và lãi
suất chậm trả đối với hợp đồng vay tài sản; bị đơn Nguyễn Mậu Đ1 phải chịu án
phí đối với phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị T phải chịu án đối với phần yêu cầu tiền
gốc và lãi không được chấp nhận (264.207.200 đồng).
[10] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên người kháng cáo
không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 148, khoản 2 Điều 308, Điều 309 và Điều 313 của
Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 124, Điều 131, Điều 357, điểm b khoản 5 Điều 466, khoản
1 Điều 468, khoản 2 Điều 470, Điều 501, Điều 502, Điều 562 và Điều 563 của
Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 5, Điều 6, Điều 9, điểm a khoản 1 Điều 13
của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/1/2019 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao quy định về hướng dẫn áp dụng một số quy định của
pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm quy định về hợp đồng vay tài sản.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
17
1. Chấp nhận kháng nghị số 03/QĐ-VKS-DS ngày 30/8/2024 của Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương; chấp nhận
một phần kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập bà Võ Thị T.
2. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 111/2024/DS-ST ngày
19/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương như sau:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ, bà Phan
Trịnh Hoàng H đối với bị đơn ông Nguyễn Mậu Đ1 về việc “tranh chấp hợp
đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đòi lại bản chính
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Tuyên bố “Hợp đồng ủy quyền” ký ngày 17/02/2023 giữa ông Phạm
Quốc Đ và ông Nguyễn Mậu Đ1 được Văn phòng C, tỉnh Bình Dương chứng
nhận số công chứng 00994, quyển số 02/2023 TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiệu.
Tuyên bố “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ký ngày
15/9/2023 giữa ông Nguyễn Mậu Đ1 và bà Võ Thị T đối với diện tích đất
7.714,1m
2
thuộc thửa đất số 561, tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại ấp L, xã L, huyện D,
tỉnh Bình Dương được Văn phòng C, tỉnh Bình Dương chứng nhận số công
chứng 08928, quyển số 09/2023 TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiệu.
Buộc ông Nguyễn Mậu Đ1 và bà Võ Thị T có trách nhiệm trả lại cho ông
Phạm Quốc Đ và bà Phan Trịnh Hoàng H bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số DI604050, số vào sổ CS09305 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
B đã cấp cho ông Phạm Quốc Đ ngày 13/12/2022.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan của bà Võ Thị T đối với nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ, bà Phan Trịnh
Hoàng H về việc “tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Buộc ông Phạm Quốc Đ và bà Phan Trịnh Hoàng H có trách nhiệm liên
đới thanh toán cho bà Võ Thị T số tiền 4.375.075.800 đồng (bốn tỷ ba trăm bảy
mươi lăm triệu không trăm bảy mươi lăm nghìn tám trăm đồng), trong đó tiền
gốc là 3.119.496.000 đồng (Ba tỷ một trăm mười chín triệu bốn trăm chín mươi
sáu nghìn đồng), tiền lãi đến thời điểm xét xử sơ thẩm là 1.255.579.800 đồng
(một tỷ hai trăm năm mươi lăm triệu năm trăm bảy mươi chín nghìn tám trăm
đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (19/8/2024) cho đến khi thi
hành án xong, ông Phạm Quốc Đ và bà Phan Trịnh Hoàng H còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
4. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan bà Võ Thị T đối với nguyên đơn ông Phạm Quốc Đ, bà Phan Trịnh Hoàng
18
H về số tiền tranh chấp là 264.207.200 đồng (hai trăm sáu mươi bốn triệu hai
trăm lẻ bảy nghìn hai trăm đồng).
5. Buộc bà Võ Thị T có trách nhiệm trả lại cho ông Phạm Quốc Đ bản
chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DI 604050, số vào sổ cấp GCN:
CS09305 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 13/12/2022 cho ông
Phạm Quốc Đ.
6. Chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tài sản tranh chấp là 140.000 đồng
(một trăm bốn mươi nghìn đồng) nguyên đơn Phạm Quốc Đ tự nguyện chịu và
đã nộp xong.
7. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Phạm Quốc Đ và bà Phan Trịnh Hoàng H phải nộp 112.375.000
đồng (một trăm mười hai triệu ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) và được khấu
trừ 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai
thu số AA/2021/0009359 ngày 25/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Dầu Tiếng. Ông Phạm Quốc Đ và bà Phan Trịnh Hoàng H còn phải nộp tiếp số
tiền 111.775.000 đồng (một trăm mười một triệu bảy trăm bảy mươi lăm nghìn
đồng).
- Ông Nguyễn Mậu Đ1 phải nộp 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng).
- Bà Võ Thị T phải nộp 13.210.360 đồng (mười ba triệu hai trăm mười
nghìn ba trăm sáu mươi đồng) và được khấu trừ vào 57.280.000 đồng (năm
mươi bảy triệu hai trăm tám mươi nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo
Biên lai thu tiền số 0000182 ngày 10/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Dầu Tiếng. Hoàn trả cho bà Võ Thị T số tiền còn lại 44.069.640 đồng
(bốn mươi bốn triệu không trăm sáu mươi chín nghìn sáu trăm bốn mươi đồng).
8. Về án phí dân sự phúc thẩm:
- Hoàn trả cho bà Võ Thị T số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng)
theo Biên lai thu tiền số 0000409 ngày 28/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.
9. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật
Thi hành án dân sự năm 2008 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi
hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7
và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
10. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
19
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS huyện Dầu Tiếng;
- TAND huyện Dầu Tiếng;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Văn Thanh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 15/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 22/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 22/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 08/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 24/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm