Bản án số 128/2024/DS-ST ngày 16/09/2024 của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng ủy quyền

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 128/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 128/2024/DS-ST ngày 16/09/2024 của TAND huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Cần Giuộc (TAND tỉnh Long An)
Số hiệu: 128/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Phan Văn T tranh chấp "Hợp đồng ủy quyền, hợp đồng vay tài sản" Lê Thị Ngọc T1
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CẦN GIUỘC
TỈNH LONG AN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 128/2024/DS ST
Ngày: 16 - 9 - 2024
V/v tranh chấp Hợp đồng ủy quyền,
hợp đồng vay tài sản, di chúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Tô Cẩm H;
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Công Danh;
Ông Nguyễn Thanh An;
- Thư phiên tòa: Ông Phạm Hoàng - Thư Tòa án nhân dân huyện
Cần Giuộc, tỉnh Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Giuộc tham gia phiên tòa:
Bà Phan Thị Hoa Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 9 m 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc,
xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ số: 241/2024/TLST- DS, ngày 09 tháng 7
năm 2024, về tranh chấp hợp đồng ủy quyền, hợp đồng vay tài sản, di chúc theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 173/2024/QĐXXST - DS, ngày 26 tháng 8
năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phan Văn T, sinh năm 1968; Địa chỉ: Ấp Đ, A,
huyện C, tỉnh Long An.
- Bị đơn: Thị Ngọc T1, sinh năm 1987; Nơi ĐKTT: Ấp Đ1, L,
huyện C1, tỉnh Long An; Hiện trú tại: Ấp T, xã O, huyện C, tỉnh Long An.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Phùng Thị Thủy T2, sinh năm 1974; Địa chỉ: Ấp Đ, A, huyện C,
tỉnh Long An.
2/ Bà Phan Thị Thúy H, sinh năm 1985; Địa chỉ: Ấp Q, xã O, huyện C, tỉnh
Long An.
3/ Nguyễn Thị S, sinh năm 1990; Địa chỉ: Ấp D, xã A, huyện C, tỉnh
Long An.
2
Người đại diện theo ủy quyền của S: Ông Nguyễn Minh V, sinh năm
1992; Địa chỉ: Ấp R, xã O, huyện C, tỉnh Long An.
(Văn bản ủy quyền công chứng số 21019 ngày 02/8/2024).
4/ Văn phòng công chứng Y; Địa chỉ: Khu phố X, thị trấn C1, huyện C,
tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn D1 Trưởng văn phòng.
(Ông T, bà T1, bà H, T2, ông V có mặt; ông D1 xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Quá trình giải quyết vụ án tại phiên a, nguyên đơn ông Phan Văn T
trình bày:
Năm 2022, cháu ruột của ông là Phan Thị Thúy H vay tiền của Lê
Thị Ngọc T1 nhưng bà H không có tài sản để bảo đảm nên bà T1 không cho vay.
vậy, bà H nhờ ông v của ông Phùng Thị Thủy T2 vay tiền T1,
tiền vay được thì đưa cho H. Đồng thời, H mượn bản chính giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AP 715743 vào ssố H 02872 do Ủy ban nhân dân
huyện C cấp cho ông vào ngày 28/9/2009, đối với thửa đất số 1866 (pcl), tờ bản
đồ số 7, tại ấp Đ, xã A, huyện C, tỉnh Long An, diện tích còn lại là 1.400m
2
, loại
đất lúa, để đưa cho T1 giữ, nhằm bảo đảm cho khoản vay. Vợ chồng ông tin
tưởng bà H nên đồng ý nhưng không biết bà H vay cụ thể bao nhiêu tiền.
Ngày 06/10/2022, vợ chồng ông nhân danh mình để vay tiền Thị
Ngọc T1, đồng thời giấy vay tiền với T1 giao bản chính giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho bà T1 giữ. Mục đích vợ chồng ông vay tiền
T1 là để cho bà H được nhận và sử dụng toàn bộ số tiền vay. Khi ký giấy vay
tiền thì giấy chỉ có tựa đề là giấy vay tiền, phần đánh máy đã in sẵn, còn toàn
bộ nội dung là trống, chưa ghi gì, ký tại nơi bán trái cây của bà T1. Ngoài ra, vợ
chồng ông hợp đồng ủy quyền đối với thửa đất số 1866 cho T1, khi
ông không biết đó hợp đồng ủy quyền, ông nghĩ là giấy vay tiền.
Sau khi giấy txong, vợ chồng ông việc bận nên về trước, không
nhận giấy vay tiền, hợp đồng ủy quyền tiền cho vay từ T1. Vợ chồng ông
đồng ý để bà H trực tiếp nhận tiền vay từ bà T1. Sau đó, vợ chồng ông có hỏi
H vay bao nhiêu thì H nói vay vài chục triệu. Cách đây khoảng 06, 07 tháng,
T1 đòi nợ thì vợ chồng ông mới biết H vay 800.000.000 đồng.
Nay ông khởi kiện yêu cầu hiệu hợp đồng ủy quyn gia vợ chng ông
với Lê Th Ngọc T1 đưc n phòng công chng Y ng chng ny
06/10/2022, số công chng 31402, quyển số 32/2022TP/CC-SCC/HĐGD, việc
hợp đồng ủy quyền này vchồng ông không biết. Ông không yêu cầu trả lại bản
chính giấy chng nhận quyền sử dụng đất, khi o H trnợ xong thì T1 trả
lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông.
Đối với yêu cầu phản tố của T1, ông không đồng ý trả 800.000.000
đồng. Vì sự thật là H vay nợ, bà H nhận và sử dụng toàn bộ số tiền
3
800.000.000 đồng thì bà H phải tự trả. Về số tiền lãi đã trả, ông không có ý kiến,
không có yêu cầu khấu trừ.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn bà Lê Thị Ngọc T1 trình
bày: Trước ngày 06/10/2022, Phan ThT1 H hỏi vay 800.000.000 đồng,
không đồng ý, H không tài sản để bảo đảm. Ngày 06/10/2022, H chú
thím ruột của bà H ông Phan Văn T Phùng Thị Thủy T2 đến gặp bà, cả 03
người hỏi vay 800.000.000 đồng, đồng ý. Để bảo đảm cho khoản vay, ông
T, T2 đưa cho bà gi bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất AP 715743
vào sổ số H 02872 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Phan Văn T vào
ngày 28/9/2009, đối với thửa đất số 1866 (pcl), tờ bản đồ số 7, tại ấp Đ, A,
huyện C, tỉnh Long An, diện tích còn lại 1.400m
2
, loại đất lúa. xác định nếu
chỉ có H vay thì không đồng ý cho vay, bà cho cả 03 người ng vay. Còn
ai trong số ba người này sử dụng vốn vay thì đó là việc riêng của họ.
Cùng ngày, ông T T2 giấy vay tiền, hợp đồng ủy quyền, di chúc
thửa đất trên cho đvay số tiền 800.000.000 đồng, lãi suất 2,5%/tháng, thời
hạn vay là 03 tháng. Còn H thì chỉ nói miệng về việc vay nợ này. Khi ông
T, T2 giấy vay tiền thì đã ghi nội dung giấy vay đầy đủ rồi, chứ không
phải để giấy trống như ông T trình bày. Sau khi ký giấy vay tiền xong, ông T, bà
T2 bận chăm sóc cha bị bệnh nên về trước và yêu cầu bà giao tiền cho bà H. Khi
hết thời hạn vay, ông T, bà T2 và bà H không trả gốc như thỏa thuận mà vẫn tiếp
tục trả lãi, cũng chấp nhận. Về việc trả lãi, xác định từ khi vay, H
người trực tiếp trả lãi nhưng trả không đầy đủ, hiện tại không nhớ số tiền
lãi đã trả, các lần trả lãi không lập văn bản, bà không yêu cầu tính lại số tiền
lãi đã trả. Đầu năm 2024, H, ông T T2 không trả lãi, gốc cho bà.
nhiều lần yêu cầu trả nợ, H, ông T, bà T2 hứa hẹn xoay sở tiền trả nhưng nay
lại khởi kiện bà.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông T, đồng ý, ông T, T2 chỉ vay
tiền, không ủy quyền thửa đất số 1866 cho bà, khi hợp đồng ủy quyền thì
ông T, bà T2 không biết đó là hợp đồng ủy quyền.
yêu cầu phản tố, buộc ông T, T2 H liên đới trả cho số nợ
gốc 800.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi đến khi xét xử, yêu cầu tính lãi
chậm trả trong giai đoạn thi hành án.
rút lại yêu cầu hủy bỏ di chúc số công chứng 31405, quyển số
32/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 06/10/2022 của Văn phòng công chứng Y,
giữa ông Phan Văn T, Phùng Thị Thủy T2 với , bà sẽ tự thực hiện thủ tục
hủy bỏ di chúc tại Văn phòng công chứng.
Số tiền 800.000.000 đồng cho vay tiền hùn của Nguyễn Thị S
nhưng là người trực tiếp giao dịch với bà H, ông T, bà T2 nên bà là người cho
vay người khởi kiện, yêu cầu các ông bà này liên đới trả tiền vay cho bà,
không cần trả cho S. Vấn đề hùn tiền giữa S thì và bà S tự giải
quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện bản chính giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất của ông T thì S đang giữ, ông T không yêu cầu trả, cũng
4
không có ý kiến.
Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Phùng Thị Thủy T2 trình bày: vợ ông Phan Văn T, thống
nhất với lời trình bày của ông T. Bà bổ sung thêm là sau khi bà và ông T ký giấy
vay tiền với T1 thì ông bà bận việc nên đi về trước và bà đồng ý để H trực
tiếp nhận tiền vay từ bà T1.
Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Phan Thị Thúy H trình bày: Năm 2022, hỏi vay tiền
Thị Ngọc T1 nhưng bà T1 không chấp nhận, vì bà không có tài sản. Vậy nên, bà
nhờ chú thím của là ông Phan Văn T Phùng Thị Thủy T2 vay tiền của
Thị Ngọc T1, mục đích đưa số tiền vay cho sử dụng, ông T T2
đồng ý. Đồng thời, bà cũngợn ông T, bà T2 bản chính giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số AP 715743 vào sổ số H 02872 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp
cho ông Phan Văn T vào ngày 28/9/2009, đối với thửa đất số 1866 (pcl), tờ bản
đồ số 7, tại ấp Đ, xã A, huyện C, tỉnh Long An, diện tích còn lại 1.400m
2
, loại
đất lúa, đđưa cho T1 giữ, nhằm bảo đảm cho khoản vay, ông T T2 cũng
đồng ý. Tuy nhiên, ông T bà T2 không biết bà vay bao nhiêu tiền.
Ngày 06/10/2022, ông T, T2 giấy vay tiền với T1, số tiền vay
800.000.000 đồng, lãi suất 2,5%/tháng, thời hạn vay 03 tháng. Sau khi giấy
vay tiền xong thì ông T, bà T2 bận việc nên về trước đồng ý để cho
người trực tiếp nhận tiền vay, nhận đủ 800.000.000 đồng. Từ khi vay cho đến
tháng 12/2023, trả lãi đầy đcho T1, mỗi tháng 20.000.000 đồng. Đầu
năm 2024, không khả năng trả nữa. Khi vay các bên thỏa thuận thời hạn
vay là 03 tháng nhưng do trả lãi đầy đủn các bên tự kéo dài thời hạn vay.
Nay đồng ý trả lại vốn gốc cho bà T1 là 800.000.000 đồng, về số tiền lãi
đã trả có vượt quá lãi suất quy định của pháp luật nhưng bà không yêu cầu khấu
trừ, vì từ năm 2024 đến nay bà không có trả lãi cho bà T1. chỉ vay của bà T1,
không biết bà S nên đồng ý trả nợ cho bà T1, không đồng ý trả cho bà S. Về yêu
cầu khởi kiện ca ông T, không có ý kiến gì.
Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền
của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị S ông Nguyễn
Minh V trình bày: Ông đồng ý với lời trình bày của T1. Hiện S giữ bản
chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T. Tuy S ghi họ
tên bên cho vay trong giấy vay tiền ngày 06/10/2022 nhưng thực tế S
không gặp mặt, thương lượng cho vay với ông T, T2 và T1 nên S
không phải bên cho vay, ch T1 bên cho vay, đnghị Tòa án giải
quyết, buộc ông T, T2, H liên đới trả nợ cho T1. Về vấn đề tiền hùn
giữa S bà T1 thì S sẽ tự giải quyết với bà T1, S không yêu cầu
trong vụ án này.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng Y đơn
xin xét xử vắng mặt văn bản trình bày ý kiến hồ ng chứng hợp
đồng ủy quyền thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
5
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của
người tham gia tố tụng dân sự là đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015.
Về nội dung: Đi với yêu cu về hủy bỏ di chúc của Lê Thị Ngọc T1, do bà
T1 đã rút yêu cầu tại phiên tòa, đ ngh Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối vi yêu
cầu y. Vyêu cầu khởi kin của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận
tn bộ, tuyên bố hiệu hợp đồng ủy quyền giữa ông Phan n T, Phùng Thị
Thủy T2 với Thị Ngọc T1 được n png công chứng Y công chứng ngày
06/10/2022, số ng chứng 31402, quyn số 32/2022TP/CC-SCC/HĐGD, hợp
đồng ủy quyền y là hợp đồng giả tạo, để che giấu cho hợp đồng vayi sản. Ông
T, T2 không u cầu trlại bản chính giấy chng nhận quyền sử dụng đất n
không xem t. V yêu cầu phản tố còn lại của bà Lê Thị Ngọc T1 sở, đề
nghị Hội đồng t xử chấp nhận toàn bộ, buộc ông T, T2 H liên đới tr
cho T1 n gốc 800.000.000 đồng. Về số tiền i đã trả, c đương sự không
yêu cầu xem xét khấu tr nên không xem xét. Số tiền cho vay là tiền hùn của bà S
bà T1 nhưng S bà T1 không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Thẩm quyền của a án: Nguyên đơn khởi kiện u cầu hiệu
hợp đồng y quyền, bđơn nơi trú tại O, huyện C, tỉnh Long An. Căn
cứ vào Khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 của
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
[1.2] Svắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa, người đại diện theo pháp
luật của Văn phòng công chứng Y xin t xử vắng mặt. Căn cứ vào Khoản 1
Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vắng mặt người
đại diện theo pháp luật của Văn phòng công chứng Y.
[1.3] Pháp luật áp dụng: Hợp đồng vay tài sản, hợp đồng ủy quyền di
chúc được giao kết năm 2022. Do đó, áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm
2015 để giải quyết vụ án.
[1.4] Rút mt phần yêu cầu phản tố của bị đơn: Tại phiên tòa, Thị
Ngọc T1 rút lại yêu cầu hủy bỏ di chúc số công chứng 31405, quyển số
32/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 06/10/2022 của Văn phòng công chứng Y,
giữa ông Phan Văn T, Phùng Thị Thủy T2 với Thị Ngọc T1. Căn cứ
Khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân snăm 2015, Hội đồng xét xử đình
chỉ xét xử đối với yêu cầu này.
[2] Về nội dung:
6
[2.1] Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Ông T yêu cầu hiệu hợp đồng
ủy quyền giữa ông, bà Phùng Thị Thủy T2 với Thị Ngọc T1, số công
chứng 31402, quyển số 32/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 06/10/2022 của Văn
phòng công chứng Y, khi ông T, bà T2 thì ông không biết đây hợp
đồng y quyền mà nghĩ đây là hợp đồng vay tài sản. T2, T1 thống nhất
với lời trình bày của ông T, đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông T. Như vậy,
ông T, T2 chỉ đồng ý hợp đồng vay tài sản, việc hợp đồng ủy quyền
vượt ngoài mong muốn không phù hợp với ý chí đích thực của ông T, T2.
Do đó, hợp đồng ủy quyền không hiệu lực ngay khi giao kết không bảo
đảm ý chí tnguyện của chủ thể tham gia giao dịch theo quy định tại điểm b
Khoản 1 Điều 117 của Bộ luật dân sự năm 2015. Hơn nữa, các bên trong hợp
đồng cũng thống nhất vô hiệu hợp đồng ủy quyền. Căn cứ Điều 122 của Bộ luật
dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ca nguyên
đơn, tuyên bố hiệu hợp đồng ủy quyền số công chứng 31402, quyển s
32/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 06/10/2022 của Văn phòng công chứng Y.
Ông T, T2 không yêu cầu trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền s
dụng đất số AP 715743 vào sổ số H 02872 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho
ông Phan Văn T vào ngày 28/9/2009, đối với thửa đất s1866 (pcl), tờ bản đồ
số 7, tại ấp Đ, xã A, huyện C, tỉnh Long An, diện tích còn lại 1.400m
2
, loại
đất lúa, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
[2.2] Yêu cầu phản tố của bị đơn:
[2.2.1] Chủ thể cho vay: Tại giấy vay tiền ngày 06/10/2022, bên cho vay có
bà Lê Thị Ngọc T1bà Nguyễn Thị S ký, ghi họ tên. Theo bà T1 người đại
diện theo ủy quyền của S là ông Nguyễn Minh V trình bày thì số tiền cho vay
tiền hùn của T1 S. Tuy nhiên, chỉ T1 thỏa thuận với bên vay
nên S và T1 thống nhất xác định chỉ T1 người cho vay tiền theo
giấy vay tiền nêu trên. T1 S tự giải quyết về tiền hùn, không yêu cầu
trong vụ án này. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015,
xác định bên cho vay trong giấy vay tiền ngày 06/10/2022 Thị Ngọc
T1.
[2.2.2] Chủ thể vay: T1 xác định cho cả ông Phan Văn T, Phùng
Thị Thủy T2 và bà Phan Thị Thúy H cùng vay 800.000.000 đồng.
[2.2.2.1] Bà H xác nhận vay 800.000.000 đồng của T1 vào ngày
06/10/2022 như T1 trình bày đúng, các bên không lập hợp đồng vay bằng
văn bản mà chnói miệng. Từ sự thừa nhận của H, xác định giữa H và
T1 xác lập hợp đồng vay tài sản bằng lời nói vào ngày 06/10/2022 nên H
chthể vay, theo quy định tại Khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015, Khoản 1 Điều 119, Điều 463 của Bộ luật dân sự năm 2015.
[2.2.2.2] Ông T T2 thừa nhận ông chỉ giấy vay tiền ngày
06/10/2022 với bà T1, mục đích là để H được sử dụng số tiền vay nên thực tế
H người vay tiền. Đồng thời, ông bà trình bày khi ông ký và viết họ tên
vào giấy vay tiền này thì văn bản chỉ mới tựa đề giấy vay tiền, phần đánh
7
máy đã in sẵn, phần viết tay chưa viết , nên ông không biết T1 cho
vay bao nhiêu tiền.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
thì khi ông T, T2 yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho
ông bà, ông phải nghĩa vụ thu thập cung cấp chứng cứ cho Tòa án để
chứng minh cho yêu cầu, lời trình bày của mình là căn cứ hợp pháp. Đến
nay, ông T, bà T2 không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho sự kiện là khi
ông viết họ tên vào giấy vay tiền ngày 06/10/2022 thì văn bản chỉ mới
tựa đề giấy vay tiền, phần đánh máy đã in sẵn, phần viết tay chưa viết
. Trong khi đó, bà T1 không thừa nhận sự việc này và khẳng định khi ông T,
T2 ký giấy vay tiền thì giấy vay tiền đã điền đầy đủ nội dung đúng y như bản
chính giấy vay tiền cung cấp cho Tòa án. Vậy nên, lời trình bày của ông
T, T2 là không sở. Hội đồng xét xử xác định giấy vay tiền ngày
06/10/2022, nội dung là ông T, bà T2 vay của T1 800.000.000 đồng đã được
ghi đầy đủ trước khi ông T bà Tiến ký và ghi họ tên.
Ngoài ra, tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 26/8/2024 tại
phiên tòa, ông T và bà T2 khẳng định ông biết nếu chỉ mình bà H vay tiền
thì bà T1 không cho vay nên ông bà đã nhân danh chính mình và sử dụng tài sản
của mình để vay tiền T1, mục đích để cho H sử dụng số tiền vay. Đồng
thời, ông còn đem cả bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông
bà để đưa cho T1, mục đích là để T1 tin tưởng mới cho vay tiền.
T những phân tích trên, xác định ông T T2 vay T1
800.000.000 đồng nên ông T, T2 cũng chủ thể vay theo quy định tại Điều
117, Điều 463 của Bộ luật dân sự năm 2015,
[2.2.3] Về loại hợp đồng vay tài sản: Các bên thừa nhận sau khi hết thời
hạn vay 03 tháng theo thỏa thuận, bên vay không trả nợ vẫn tiếp tục trả lãi,
bên cho vay đồng ý. Từ đó, xác định các bên đã thống nhất thay đổi thời hạn
vay, từ vay kỳ hạn thành vay không kỳ hạn. Tại bản văn của giấy vay tiền
ghi nhận lãi suất 2.5%/tháng. Do đó, đây hợp đồng vay tài sản không kỳ
hạn và có lãi theo quy định tại Khoản 2 Điều 469 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Đối với hợp đồng vay tài sản không kỳ hạn lãi thì T1 bên cho
vay có quyền đòi lại tài sản cho vay bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước với ông
T, T2, H một thời gian hợp lý. Các đương sự đều thống nhất trình bày
T1 có yêu cầu trả tiền từ đầu năm 2024 nhưng do bên vay không trả được nên
T1 mới khởi kiện.
[2.2.4] Mức lãi suất và số tiền lãi đã trả: Tại giấy vay tiền ghi nhận lãi
suất là 2,5%/tháng. Mức lãi suất này là vượt quá lãi suất giới hạn được quy định
tại Khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân snăm 2015 nhưng do các bên không
yêu cầu khấu trừ tiền lãi cũng không cung cấp được chứng cứ vsố tiền lãi
đã trả nên Hội đồng xét xử không đủ sở để khấu trừ tiền lãi. Từ những
phân tích trên, Hội đồng xét xử ghi nhận stự nguyện của các bên, không tính
toán lại số tiền lãi đã trả và không khấu trừ lại số tiền lãi đã trả dư.T1 không
8
yêu cầu tính lãi từ đầu năm 2024 đến khi xét xử sơ thẩm nên Hội đồng xét xử
không giải quyết.
[2.2.5] Nghĩa vụ trả nợ: Ông T, T2 xác định sau khi hợp đồng vay
tiền xong thì ông bà vềđồng ý để cho bà H ở lại nhận toàn bộ số tiền vay. Bà
H thừa nhận lời trình bày của ông T T2 là đúng và bà H đã nhận số tiền
vay 800.000.000 đồng từ bà T1.
Căn cứ theo Điều 274, Khoản 1 Điều 275, Khoản 1 Điều 288, Điều 463 Bộ
luật dân sự năm 2015 thì một trong các căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ hợp
đồng. Ông T, T2, bà H đã cùng giao kết hợp đồng vay tài sản với T1;
T1 đã giao đủ số tiền vay cho ông T, T2, H, trong đó bà H trực tiếp nhận
tiền, với sự đồng ý của ông T, T2 nên đã làm phát sinh nghĩa vụ liên đới trả
nợ của ông T, T2, H đối với T1. Ông T, T2 cho rằng H người
trực tiếp nhận tiền sdụng số tiền vay, ông không trực tiếp nhận sử
dụng số tiền vay nên ông bà không có nghĩa vụ trả là không đúng.
[2.2.6] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu
cầu phản tố của bị đơn, buộc ông Phan Văn T, Phùng Thị Thủy T2
Phan Thị T1 H liên đới trả lại số tiền đã vay là 800.000.000 đồng cho bà Thị
Ngọc T1.
[3] Về án phí: Buộc bà Lê Thị Ngọc T1 chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận; buộc ông Phan Văn T,
Phùng Thị Thủy T2 Phan Thị Thúy H liên đới chịu án phí dân sự thẩm
đối với yêu cầu phản tố của bị đơn được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1
Điều 39, Điều 91, 92, Khoản 1 Điều 147, Khoản 1 Điều 227, Khoản 2 Điều 244
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 117, 119, 122, Khoản 1 Điều 288,
Điều 357, Khoản 1 Điều 404, Điều 463, Khoản 1 Điều 466, Điều 468, Khoản 2
Điều 469 của Bộ luật dân sự năm 2015; Khoản 2, 5 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án p lệ phí Tòa
án; Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về
lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn T đối với bà
Thị Ngọc T1.
Tuyên bố hợp đồng ủy quyền số công chứng 31402, quyển số
32/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 06/10/2022 của Văn phòng công chứng Y,
giữa ông Phan Văn T, bà Phùng Thị Thủy T2 với bà Lê Thị Ngọc T1 bị vô hiệu.
9
2. Đình chỉ xét xử yêu cầu phản tố của bà Thị Ngọc T1 về việc yêu cầu
hủy b di chúc số công chứng 31405, quyển s 32/2022TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 06/10/2022 của Văn phòng công chứng Y, giữa ông Phan Văn T, bà Phùng
Thị Thủy T2 với bà Lê Thị Ngọc T1.
3. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của Thị Ngọc T1 về hợp đồng
vay tài sản.
Buộc ông Phan Văn T, Phùng Thị Thủy T2 Phan Thị Thúy H liên
đới trả cho bà Lê Thị Ngọc T1 số tiền đã vay là 800.000.000 đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong khoản tiền trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
liên đới chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất
quy định tại Điều 357, Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Về án phí:
Thị Ngọc T1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự thẩm, được
khấu trừ tạm ứng án phí bà T1 đã nộp 18.300.000 đồng theo Biên lai thu số
0013240 ngày 09/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Long
An. Hoàn trả lại cho Thị Ngọc T1 số tiền tạm ứng án phí đã nộp
18.000.000 đồng.
Ông Phan Văn T, bà Phùng Thị Thủy T2, bà Phan Thị Thúy H liên đới chịu
36.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ tạm ứng án phí ông Phan
Văn T đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0013109 ngày 01/7/2024 của
Chi cục Thi hành án dân shuyện C, tỉnh Long An. Ông Phan Văn T, Phùng
Thị Thủy T2, Phan Thị Thúy H còn phải liên đới chịu 35.700.000 đồng án
phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Đương sự mặt quyền kháng cáo trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt quyền kháng cáo trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án được tống đạt hợp lệ.
6. Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- TAND tỉnh Long An;
- VKSND huyện Cần Giuộc;
- Chi cục THA huyện Cần Giuộc;
- Lưu./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Tô Cẩm Hương
10
Tải về
Bản án số 128/2024/DS-ST Bản án số 128/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 128/2024/DS-ST Bản án số 128/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất