Bản án số 56/2025/DS-PT ngày 31/03/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng ủy quyền

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 56/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 56/2025/DS-PT ngày 31/03/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Số hiệu: 56/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông T khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất ký ngày 10-6-2022 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Văn T4 đối với thửa đất 837, tờ bản đồ 24, xã L, huyện Đ giữa ông Nguyễn Minh T và bà Võ Thị D1; yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14-10-2022 tại Văn phòng C đối với thửa đất 837, tờ bản đồ 24, xã L, huyện Đ giữa bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Minh T (do bà Võ Thị D1 đại diện theo ủy quyền) với ông Trần Hoàng Cao T1 và bà Nguyễn Thị Kim N; yêu cầu ông T1, bà N trả lại cho ông T 01 bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
Bản án số: 56/2025/DS-PT
Ngày 31-3-2025
V/v Tranh chấp hợp đồng ủy quyền,
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và đòi lại tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Cao Minh Vỹ
Các Thẩm phán: Bà Đào Thị Huệ
Bà Bùi Thị Thương
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Rịa - Vũng Tàu.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Rịa - Vũng Tàu tham gia
phiên tòa: Bà Bùi Thị Doan - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 26 và 31 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Rịa - Vũng Tàu, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số
68/2024/TLPT-DS ngày 12 tháng 4 năm 2024 về Tranh chấp hợp đồng ủy
quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đòi lại tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2024/DS-ST ngày 19 tháng 01 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Đ (nay huyện L), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bị kháng
cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 160/2024/QĐ-PT ngày 13 tháng 6
năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 185/2024/QĐ-PT ngày 25 tháng 6 năm
2024, Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng số 114/2024/QĐ-PT ngày 19
tháng 7 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 198/2024/QĐ-PT ngày 19 tháng
7 năm 2024, Quyết định thay đổi người tiến hành ttụng số 146/2024/QĐ-PT
ngày 20 tháng 8 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 205/2024/QĐ-PT ngày
20 tháng 8 năm 2024, Quyết định thay đổi người tiến hành t tụng số
147/2024/QĐ-PT ngày 21 tháng 8 năm 2024, Quyết định tạm đình chỉ xét xử
phúc thẩm số 01/2024/QĐ-PT ngày 21 tháng 8 năm 2024, Quyết định tiếp tục
giải quyết vụ án số 29/2025/QĐ-PT ngày 21 tháng 02 năm 2025, Thông báo m
lại phiên tòa số 30/2025/TB-TA ngày 21 tháng 02 năm 2025 Quyết định hoãn
phiên tòa số 41/2025/QĐ-PT ngày 06 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1993.
Địa chỉ: Tổ E, ấp P, xã P, huyện Đ (nay là huyện L), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
(có mặt).
Người đại din theo y quyn của nguyên đơn:
2
Ông Phạm Đại D, sinh năm 1992.
Địa ch: T G, ấp C, xã P, huyện C, Thành phố H Chí Minh, theo Giấy ủy
quyền ngày 22-7-2024 (có mt).
- B đơn: Bà Võ Thị D1, sinh năm 1990.
Địa ch: Ấp M, xã L, huyện Đ (nay là huyện L), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có
mt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trần Hoàng Cao T1, sinh năm 1991 và Nguyn Th Kim N, sinh
năm 1997.
Địa chỉ: H ấp Đ, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông T1:
Ông Võ Đức T2, sinh năm 1977.
Địa chỉ: A A, Cư xá T, Phường B, quận B, Thành ph Hồ Chí Minh, theo
Giấy ủy quyền ngày 25-01-2024 (có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bà N:
Ông Trần Hoàng Cao T1, sinh năm 1991.
Địa chỉ: H ấp Đ, G, huyện T, tỉnh Đồng Nai, theo Hợp đồng ủy quyền
ngày 18-11-2023 (vắng mặt).
2. Văn phòng C (nay là Văn phòng C1).
Địa chỉ: Tổ A, Tỉnh lộ 44A, ấp M, xã L, huyện Đ (nay là huyện L), tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo pháp luật: Trần Thị Thảo T3 Trưởng Văn phòng
(vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
- Người kháng cáo:
1. Ông Nguyễn Minh T - Nguyên đơn.
2. Ông Trần Hoàng Cao T1 - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn ông Nguyễn Minh T, trình bày:
Tháng 6 năm 2022, ông T có gặp bà Võ Thị D1 để hỏi vay số tiền
2.500.000.000 đồng. D1 yêu cầu ông T phải tài sản đảm bảo thì mới cho
vay, ông T đồng ý. Ngày 10-6-2022, D1 yêu cầu ông T ra Văn phòng công
chứng Nguyễn Văn T4 để ký hợp đồng ủy quyền đối với thửa đất số 837, tờ bản
đồ 24, xã L, huyện Đ để đảm bảo cho khoản vay. Sau đó, hai bên có lập bản thỏa
thuận và cam kết ngày 10-6-2022 với nội dung: Ông T thế chấp toàn bộ thửa đất
số 837, tờ bản đồ 24, xã L, huyện Đ cho bà D1 để vay số tiền 2.500.000.000 đồng
và giá trị của tài sản là 12.500.000.000 đồng, thời hạn vay là 06 tháng kể từ ngày
biên bản. Nếu ông T không thanh toán lãi suất cho D1 trong 03 tháng
cũng không khả năng hoàn trả nợ gốc thì D1 được quyền yêu cầu ông T bàn
giao thửa đất tài sản gắn liền với đất cho D1. Lãi suất hai bên không ghi
trong bản thỏa thuận này nhưng có thỏa thuận miệng với nhau là 2%/tháng.
3
Tuy nhiên, sau đó D1 không đưa cho ông T số tiền 2.500.000.000 đồng
này mà nhiều lần né tránh ông T, thất hẹn. Ông T nhiều lần liên lạc để yêu cầu
D1 trả lại cho ông T bản chính của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên
nhưng D1 không nghe điện thoại, không trả lại bản chính giấy tờ cho ông T.
Sau đó, khoảng giữa năm 2023, ông T tìm hiểu thì được biết D1 đã chuyển
nhượng thửa đất của ông T cho vợ chồng ông T1, bà N. Bà D1 không thông báo
cho ông T biết việc đất đã bị chuyển nhượng cho ông T1, bà N, cũng như không
giao tiền chuyển nhượng đất này cho ông T.
Tại đơn khởi kiện, nguyên đơn ông T yêu cầu: Hủy hợp đồng ủy quyền quyền
sử dụng đất ngày 10-6-2022 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Văn T4 đối
với thửa đất 837, tờ bản đồ 24, xã L, huyện Đ giữa ông Nguyễn Minh T bà Võ
Thị D1; hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14-10-2022 ti
Văn phòng C đối với thửa đất 837, tờ bản đồ 24, xã L, huyện Đ giữa bên chuyển
nhượng ông Nguyễn Minh T (do Võ Thị D1 đại diện theo ủy quyền) với ông
Trần Hoàng Cao T1 Nguyễn Thị Kim N; yêu cầu D1 trả lại cho ông T
bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 837, tờ bản đồ
24, xã L, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Trong quá tnh tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn ông T thay đổi yêu
cầu khởi kiện như sau: u cầu hủy hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng đất
ngày 10-6-2022 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Văn T4 đối với thửa đất 837,
tờ bản đồ 24, xã L, huyện Đ giữa ông Nguyễn Minh T và bà Võ Thị D1; yêu cầu
hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14-10-2022 tại Văn phòng
C đối với thửa đất 837, tờ bản đồ 24, L, huyện Đ giữa bên chuyển nhượng
ông Nguyễn Minh T (do Thị D1 đại diện theo ủy quyền) với ông Trần
Hoàng Cao T1 và bà Nguyễn Thị Kim N; yêu cầu ông T1, bà N trả lại cho ông T
01 bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên.
Bị đơn bà Võ Thị D1 trình bày:
D1 không đồng ý với yêu cầu của ông T. Bà D1 xác định do đã lập hợp
đồng ủy quyền và cam kết với ông T, nên bà D1 được quyền chuyển nhượng đất
với người khác để bảo đảm tiền vay. Bà D1 có vay tiền của ông T1, hình thức là
ký hợp đồng giả cách chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Bà có nhận tiền từ ông
T1 bằng hình thức chuyển khoản với số tiền chỉ hơn 2.000.000.000 đồng, chứ
không phải 3.000.000.000 đồng. Trước đây, D1 ông T1 giao dịch mua
bán 01 đất khác với giá 3.000.000.000 đồng, đã tất toán xong tiền, hoàn
thành việc chuyển nhượng. Khoảng 02 tháng sau, D1 ông T1 giả cách
hợp đồng với nhau và lần này chỉ giao dịch số tiền hơn 2.000.000.000 đồng, ông
T1 hứa chuyển khoản đủ 3.000.000.000 đồng nhưng sau đó không chuyển. Nếu
ông T1 cung cấp được chứng từ đã chuyển 3.000.000.000 đồng cho bà D1 thì
D1 đồng ý trả. Bà D1 không đồng ý với yêu cầu của ông T1 về việc công nhận
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng Cao T1 trình bày:
Vào ngày 14-10-2022, v chồng ông T1 có nhận chuyển nhượng thửa đất s
837, t bản đồ 24, xã L, huyện Đ. Khi nhn chuyển nhượng, v chồng ông T1
4
xem giy t đất đai gồm giy chng nhn quyn s dụng đất, hợp đng y quyn
nên mới mua đất đã hoàn tt th tc chuyển nhượng ti Văn phòng C. Giá
chuyển nhượng 3.000.000.000 đồng, v chồng ông T1 đã giao đủ tiền cho
D1.
Trong quá trình chuyển nhượng, ông T1 không được gặp ông T, không gp
s tranh chấp nào và thực hin th tc chuyển nhượng theo đúng quy đnh ca
pháp luật. Tuy nhiên, sau đó gia đình ông T1 có xảy ra chuyện nên chưa làm thủ
tục sang tên đối vi thửa đất trên. Tháng 10-2023, ông T1 có nộp h sơ để làm
th tục sang tên thì được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ, tỉnh Bà
Ra Vũng Tàu thông báo tạm ngưng tiếp nhn h sơ, do Tòa án đang giải quyết
tranh chp giữa ông T và bà D1. Hin ti s đỏ ông T1 đang giữ. Hin trng tha
đất tranh chấp đt trống, chưa trồng cây gì. Về yêu cầu khi kin của nguyên
đơn thì ông T1 và bà N không đồng ý.
Ông Trần Hoàng Cao T1 có đơn yêu cầu độc lập, yêu cầu Tòa án công nhận
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14-10-2022 tại Văn phòng C
đối với thửa đất số 837, tờ bản đồ số 24, xã L, huyện Đ do bà D1 nhận ủy quyền
của ông Nguyễn Minh T chuyển nhượng cho ông Trần Hoàng Cao T1
Nguyn Th Kim N; hoặc yêu cầu bà Võ Thị D1 và ông T có trách nhiệm trả cho
ông T1 N số tiền là 3.000.000.000 đồng.
Tại phiên tòa thẩm, ông Trần Hoàng Cao T1 thay đổi yêu cầu độc lập,
yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14-
10-2022 tại Văn phòng C đối với thửa đất số 837, tờ bản đồ 24, xã L, huyện Đ do
D1 nhận ủy quyền của ông Nguyễn Minh T chuyển nhượng cho ông Trn
Hoàng Cao T1 Nguyn Th Kim N; hoc yêu cầu Võ Thị D1 trách
nhiệm trả cho ông T1, bà N số tiền là 2.895.000.000 đồng, rút yêu cầu đối với số
tiền 105.000.000 đồng không chứng cứ, số tiền này ông T1 đưa tiền mặt cho
D1, không có làm biên bản giao nhận tiền. Ông T1 không yêu cầu ông T trả
3.000.000.000 đồng, t yêu cầu độc lập về việc yêu cầu ông T trả 3.000.000.000
đồng.
Tại Bản án dân sự thẩm số 05/2024/DS-ST ngày 19 tháng 01 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Đ (nay huyện L), tỉnh Rịa - Vũng Tàu, đã tuyên
xử:
1. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh T về
việc hủy Hợp đồng ủy quyền số 4884 ngày 10-6-2022 tại Văn phòng C đối với
thửa đất 837, tờ bản đ24, L, huyện Đ, tỉnh Rịa - Vũng Tàu giữa ông
Nguyễn Minh T và bà Võ Thị D1.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh T về
việc hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 6850 ngày 14-10-2022
tại Văn phòng C đối với thửa đất số 837, tờ bản đồ 24, xã L, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu, giữa bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Minh T do bà Võ Thị D1
đại diện theo ủy quyền với ông Trần Hoàng Cao T1 và bà Nguyễn Thị Kim N.
5
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Trần Hoàng Cao T1
về việc công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất s6850 ngày 14-
10-2022 tại Văn phòng C đối với thửa đất số 837, tờ bản đồ 24, L, huyện Đ,
tỉnh Rịa - Vũng Tàu, do D1 nhận ủy quyền của ông Nguyễn Minh T chuyển
nhượng cho ông Trần Hoàng Cao T1 và bà Nguyễn Thị Kim N.
4. Đình chỉ mt phần yêu cầu độc lập của ông Trần Hoàng Cao T1 về việc
yêu cầu ông Nguyễn Minh T trả số tiền 3.000.000.000 đồng yêu cầu bà Võ Thị
D1 trả số tiền 105.000.000 đồng.
5. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh T vviệc
yêu cầu ông Trần Hoàng Cao T1 Nguyễn Thị Kim N trả lại cho ông T 01
(một) bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sDC 695274 do Sở Tài
nguyên Môi trưởng tỉnh B cấp ngày 14-6-2021, đã chỉnh lý tên ông Nguyễn
Minh T ngày 15-7-2021 đối với thửa đất s837, tbản đồ 24, xã L, huyện Đ, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu.
7. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Trần Hoàng Cao T1 về việc
yêu cầu bà Võ Thị D1 trả cho ông T1, bà N số tiền 2.895.000.000 đồng.
8. Tuyên bố Hợp đồng ủy quyền được ký kết giữa ông Nguyễn Minh T với
bà Võ Thị D1, số Công chứng 4884 quyển số 01/2022 TP/CC-SCC/HĐGD ngày
10-6-2022 tại Văn phòng C vô hiệu.
9. Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết giữa
bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Minh T do bà Võ Thị D1 đại diện ủy quyền
với bên nhận chuyển nhượng là ông Trần Hoàng Cao T1 và bà Nguyễn Thị Kim
N, số công chứng 6850 quyển số 01/2022 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 14-10-2022
tại Văn phòng C hiệu.
10. Giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu:
- Buộc bà Võ Thị D1 nghĩa vụ trả cho ông Trần Hoàng Cao T1 và bà Nguyễn
Thị Kim N số tiền là 2.895.000.000 đồng.
- Buộc ông Nguyễn Minh T nghĩa vụ trả cho Thị D1 số tiền
2.500.000.000 đồng.
- Buộc ông Trần Hoàng Cao T1 bà Nguyễn Thị Kim N nghĩa vụ giao
trả lại cho ông Nguyễn Minh T 01 (một) bản chính Giấy chứng nhận quyền s
dụng đất số DC 695274 do Sở Tài nguyên Môi trưởng tỉnh B cấp ngày 14-6-
2021, đã chỉnh tên ông Nguyễn Minh T ngày 15-7-2021 đối với thửa đất số 837,
tờ bản đồ 24, xã L, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Trường hợp ông Trần Hoàng Cao T1 Nguyễn Thị Kim N không nộp
lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên, thì ông Nguyễn Minh
T được quyền liên hệ quan thẩm quyền đđược cấp lại bản chính Giấy
chứng nhận quyền sdụng đất đối với thửa đất số 837, tbản đồ 24, xã L, huyện
Đ, tỉnh Bà Rịa - ng Tàu cho ông T.
Ngoài ra, án thẩm còn tuyên vnghĩa vụ chậm thi hành án, án phí, quyền kháng
cáo theo luật định.
6
Ngày 24-01-2024, nguyên đơn ông Nguyễn Minh T đơn kháng cáo bản
án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo ớng không buộc
ông Nguyễn Minh T nghĩa vụ trả cho bà Thị D1 số tiền 2.500.000.000 đồng.
Ngày 31-01-2024, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng
Cao T1 đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm do
có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và có dấu hiệu làm sai lệch hồ sơ vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn ông Nguyễn Minh T (do ông Phạm Đại D đại diện) giữ nguyên
yêu cầu khởi kiện yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử sửa một phần
bản án thẩm theo hướng không buộc ông T phải trả cho bà Thị D1 số tiền
2.500.000.000 đồng do D1 chưa giao số tiền này cho ông cũng không yêu
cầu ông trả cho D1 số tiền này.
Bị đơn bà Võ Thị D1 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo
của nguyên đơn, sửa bản án thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn. Bà D1 xác
nhận sau khi ký hợp đồng nhận ủy quyền với ông T, bà chưa giao cho ông T vay
số tiền 2.500.000.000 đồng như bà đã khai ở cấp sơ thẩm. Còn số tiền ông T1 cho
vay đã giao cho chính xác 3.000.000.000 đồng, trong đó chuyển khoản
2.895.000.000 đồng, còn 105.000.000 đồng ông T1 trừ trước tiền lãi của 1
tháng với lãi suất 3,5%/tháng. do trước đây bà khai đã giao cho ông T số
tiền 2.500.000.000 đồng chỉ nhận của ông T1 hơn 2 tỷ đồng khi đó mới
bị bắt tạm giam, đang hoang mang lo sợ và chưa nhớ chính xác sự việc. Nay tâm
bà ổn định nên bà nhớ lại và khai lại đúng sự thật. D1 cũng khẳng định
không lừa đảo ông T và ông T1 mà chỉ ký hợp đồng ủy quyền và chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giả cách để đảm bảo cho việc vay tiền giữa các bên. đồng
ý trả lại cho ông T1, bà N số tiền bà đã vay là 3.000.000.000 đồng và không yêu
cầu ông T trả tiền cho bà.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng Cao T1 (do ông
Đức T2 đại diện) giữ nguyên yêu cầu độc lập và yêu cầu kháng cáo, đề nghị cấp
phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm do có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố
tụng có dấu hiệu m sai lệch hồ sơ vụ án, cụ thể: Người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan trong vụ án là ông Trần Hoàng Cao T1, nhưng trong các văn bản tố
tụng bản án thẩm lại ghi thành Trần Cao Hoàng T5 một người khác, không
liên quan trong vụ án. Đây là hành vi cố ý làm sai lệch hồ vụ án ra bản án
trái pháp luật của Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa cấp thẩm; biên bản giao nhận
văn bản tố tụng cho bà D1 không có xác nhận của Giám thị Trại tạm giam Công
an tỉnh B; D1 đang bị tạm giam nhưng đơn đề nghị xét xử vắng mặt lại được
đánh máy, chứng tỏ người khác đánh máy sẵn cho D1 nên không khách
quan; cấp sơ thẩm không tiến hành thu thập chứng cứ là bản chính của Bản thỏa
thuận và cam kết ngày 10-6-2022 mà chỉ căn cứ vào bản phô của chứng cứ này
để xét xử là không đúng quy định pháp luật; trong bản thỏa thuận và cam kết này
ghi giá thửa đất tranh chấp 12.500.000.000 đồng, cao hơn nhiều so với giá bà
D1 chuyển nhượng cho ông T5, N nhưng cấp thẩm không định giá tài sản
tranh chấp; cấp thẩm không đưa Văn phòng công chng Nguyễn Văn T4 vào
7
tham gia tố tụng với tư cách ngườiquyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án;
ông T5 đã đơn tố cáo ông T D1 về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
tại quan điều tra Công an tỉnh B nhưng Tòa án vẫn giải quyết vụ án này là mt
vụ việc nhưng hai quan ng giải quyết vi phạm tố tụng; căn cứ nội dung
ghi âm thể hiện ông Nguyễn Minh T đã đưa hối lộ số tiền 1.000.000.000 đồng để
không mất số tiền 8.000.000.000 đồng trong 07 vụ án tại Tòa án nhân dân huyện
Đất Đỏ, trong đó có vụ án này, nên cấp sơ thẩm đã không vô tư, khách quan khi
xét xử vụ án này; bản án cấp sơ thẩm đã tống đạt cho ông T5 không đúng như bản
án đọc tại phiên tòa bản án lưu tại hồ vụ án. Ngoài ra, tại phiên tòa phúc
thẩm, ông T khai đã đơn tố cáo D1 tại Công an huyện Đ nên đề nghị Hội
đồng xét xử hoãn phiên tòa để xác minh về kết quả giải quyết đơn tố cáo của ông
T tại Công an huyện Đ.
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án
không bổ sung thêm tài liệu, chứng cứ.
- Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về
việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Đơn kháng o của nguyên đơn, người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Trần Hoàng Cao T1 nộp trong thời hạn luật định. Những người tiến
hành tố tụng đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp
luật. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của
nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Hoàng Cao T1,
sửa một phần bản án thẩm theo hướng không buộc ông Nguyễn Minh T phải
trả cho bà Thị D1 số tiền 2.500.000.000 đồng; trường hợp D1 tranh chấp
với ông T về số tiền này thì quyền khởi kiện vụ án khác theo quy định của pháp
luật; giữ nguyên các quyết định còn lại của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, trên cơ sở
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Minh T người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng Cao T1 nộp trong thời hạn luật
định, nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Nguyên đơn và ông T1, bà N vắng mặt nhưng có người đại diện tham
gia phiên tòa, hoặc đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt
không do. Văn phòng C1 vắng mặt nhưng đã đơn đề nghị xét xử vắng
mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, xử vắng mặt
các đương sự trên.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Trần Hoàng Cao T1 về việc hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
8
[2.1] Ông T1 kháng cáo yêu cầu hủy bản án sơ thẩm do Tòa án cấp sơ thẩm
đã có nhiều vi phạm nghiêm trọng về thủ tc tố tụng, cụ thể:
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là ông Trần Hoàng Cao
T1, nhưng trong các văn bản tố tụng bản án thẩm lại ghi thành Trần Cao
Hoàng T5 một người khác, không liên quan trong vụ án. Đây là hành vi cố ý
làm sai lệch hồ sơ vụ án của Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa cấp sơ thẩm.
- Biên bản giao nhận văn bản tố tụng cho D1 không xác nhận của
Giám thị Trại tạm giam Công an tỉnh B. Bà D1 đang bị tạm giam nhưng đơn đ
nghị xét xử vắng mặt lại được đánh máy, chứng tỏ có người khác đánh máy sẵn
cho bà D1 nên không khách quan.
- Cấp sơ thẩm không tiến hành thu thập chứng cứ là bản chính của Bản thỏa
thuận và cam kết ngày 10-6-2022, không trưng cầu định giá tài sản để xác định
giá trị thực tế của thửa đất số 837, tờ bản đồ số 24, xã L, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu.
- Không đưa Văn phòng công chứng Nguyễn Văn T4 vào tham gia tố tụng
với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Ông T5 đã có đơn tố cáo ông T và bà D1 về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản tại quan điều tra Công an tỉnh B nhưng Tòa án vẫn giải quyết vụ án
này là một vụ việc nhưng hai cơ quan cùng giải quyết là vi phạm tố tụng.
- Bản án cấp thẩm đã tống đạt cho ông T5 không đúng như bản án đọc
tại phiên tòa và bản án lưu tại hồ sơ v án.
- Căn cứ nội dung ghi âm thể hiện ông Nguyễn Minh T đã đưa hối lộ số tiền
1.000.000.000 đồng để không mất số tiền 8.000.000.000 đồng trong 07 vụ án tại
Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ, trong đó vụ án này. Do đó, cấp thẩm đã
không vô tư, khách quan khi xét xử vụ án này.
Ngoài ra, ông T2 còn đề nghị hoãn phiên tòa để xác minh về kết quả giải
quyết đơn tố cáo của ông T đối vớiD1 tại Công an huyện Đ.
Xét những lý do và yêu cầu nêu trên thì thấy:
[2.2] Về việc ghi sai tên ông T5: Trong quá trình giải quyết vụ án cấp sơ
thẩm, ông T5 đều tự ghi họ tên của mình Trần Hoàng Cao T1 trong
các văn bản, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với căn cước công dân của ông
T1 cung cấp tại Văn phòng công chứng. Tuy nhiên, Tòa án cấp thẩm lại ghi
sai tên của ông T1 Trần Cao Hoàng T5 trong rất nhiều các văn bản tố tụng, kể
cả bản án sơ thẩm. Đây là sai sót về nghiệp vụ của Thẩm phán và Thư ký cấp sơ
thẩm khi không kiểm tra kỹ về họ tên giấy tờ tùy thân của đương sự. Tuy
nhiên, bản thân ông T5 và ông T2 cũng thừa nhận ông T5 có nhận được các văn
bản tố tụng của Tòa án ghi sai tên ông nhưng ông không có ý kiến gì, chỉ sau khi
xét xử thẩm ông làm đơn kháng cáo thì cấp thẩm mới phát hiện việc sai tên.
Do vậy, cấp sơ thẩm đã có quyết định sửa chữa, bổ sung bản án, trong đó sửa họ
tên của ông T5 theo đúng giấy tờ pháp (Bl 113). Tuy cấp sơ thẩm có sai sót về
ghi họ tên đương sự nhưng đây suất về nghiệp vụ đã được khắc phục,
ông T5 vẫn được thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình đầy đủ, trong
9
đó có quyền yêu cầu độc lập, nên không gây ảnh hưởng gì đến quyền và lợi ích
hợp pháp của ông. Đây cũng không phải là hành vi cố ý làm sai lệch hsơ vụ án
của Thẩm phán cấp thẩm như ông T5 quy kết. Do vậy, không cần thiết phải
hủy bản án thẩm sai sót này. Cấp thẩm cần nghiêm khắc rút kinh
nghiệm về sai sót này để không lặp lại trong các vụ án khác.
[2.3] Về việc biên bản giao nhận các văn bản tố tụng cho D1 không có
xác nhận của Trại tạm giam: Bộ luật Tố tụng dân sự các văn bản hướng dẫn
thi hành không điều khoản nào quy định việc tống đạt văn bản tố tụng cho
đương sự đang bị tạm giam phải xác nhận của Giám thị Trại tạm giam. Mặt
khác, bản thân D1 thừa nhận chữ của mình trong các biên bản giao nhận
đơn đề nghị xét xvắng mặt, thừa nhận đơn đề nghị xét xử vắng mặt do người
khác đánh máy cho nhưng thể hiện đúng ý chí của bà, không bị ai ép buộc hay
lừa dối. Do vậy, ý kiến này của ông T5 không có căn cứ nên không được chấp
nhận.
[2.4] Về việc cấp thẩm không định giá tài sản thửa đất tranh chấp:
Trong vụ án này, nguyên đơn yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền hợp đồng
chuyển nhượng, yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không yêu
cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng bị hủy hoặc vô hiệu; bị đơn không có yêu
cầu gì trong vụ án; ông T5 yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng thửa đất
tranh chấp hoặc yêu cầu bà D1 trả lại số tiền 2.895.000.000 đồng, không có yêu
cầu khác. Do vậy, cấp thẩm không định giá tài sản hoàn toàn phù hợp
quy định của pháp luật.
[2.5] Về việc cấp thẩm không thu thập bản chính chứng cứ Bản thỏa
thuận và cam kết ngày 10-6-2022: Tại hồ sơ vụ án có bản chính của văn bản này
được thu thập từ cấp thẩm (Bl 44-46). Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T cũng
xác nhận ông là người nộp bản chính của văn bản trên cho Tòa án cấp sơ thẩm.
Do vậy, ý kiến này là không có căn cứ.
[2.6] Về việc không đưa Văn phòng công chứng Nguyễn Văn T4 vào tham
gia tố tụng:
Đây là thiếu sót của cấp thẩm nhưng đã được cấp phúc thẩm khắc phục
bằng việc đưa Văn phòng công chứng trên vào làm người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan. Văn phòng C (nay Trần Thị Thảo T3) đã văn bản xác nhận không
yêu cầu gì trong vụ án, không có yêu cầu gì đối với bản án sơ thẩm. Do vậy,
đây không phải vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng không làm ảnh
hưởng quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, nên không cần thiết phải hủy
bản án sơ thẩm như ông T5 yêu cầu.
[2.7] Về việc bản án đọc tại phiên tòa không giống bản án giao cho ông T5
và lưu tại hồ sơ vụ án: Ông T5 không cung cấp được chứng cứ v nội dung này.
Nguyên đơn, bđơn xác nhận bản án đã tuyên tại phiên tòa đúng với bản án đã
nhận. Do vậy, ý kiến này của ông T5 là không căn cứ nên không được chấp
nhận.
[2.8] Về việc ông T5 tố cáo Thẩm phán và Thư ký cấp sơ thẩm nhận hối lộ
nên xét xử không khách quan: Ông T5 có nhiều đơn tố cáo nội dung này nhưng
10
lại không nộp kèm i liệu, chứng cứ chứng minh. Tại phiên tòa phúc thẩm,
ông T2 khẳng định ông không cung cấp bất cứ tài liệu, chứng cứ nào chứng minh
cho vấn đề này nên không có căn cứ xem xét. Nếu ông T2 có chứng cứ thì
quyền tố cáo đến Cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định pháp luật.
[2.9] Về việc ông T5 tố cáo ông T, bà D1 tại Cơ quan điều tra Công an tỉnh
B việc ông T tố cáo bà D1 tại Công an huyện Đ: Tòa án tỉnh đã xác minh tại
quan điều tra Công an tỉnh (cũng đơn vị tiếp nhận nhiệm vụ từ Công an
huyện Đ) được cung cấp kết quả là quan này không nhận được đơn tố giác
tội phạm của ông Trần Hoàng Cao T1 đối với ông T, D1 không khởi tố,
điều tra vụ án nào liên quan đến các đương sự này thửa đất tranh chấp trong
vụ án. Do đó, ý kiến này của ông T1 không căn cứ. Ông T cũng bản
tường trình xác nhận không nộp đơn tố cáo D1 tại Công an huyện Đ mà ch
đến trực tiếp Công an huyện Đ để làm việc được hướng dẫn khởi kiện tại Tòa
án theo thủ tục tố tụng dân sự nên ông đã làm theo hướng dẫn này, không yêu
cầu Công an huyện Đ giải quyết nữa. Do đó, không căn cứ xác định vụ án này
đang được Cơ quan điều tra Công an tỉnh giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự
và không cần thiết hoãn phiên tòa như ông T2 đề nghị.
[2.10] Qua các căn cứ phân tích trên cho thấy, việc ông T1 cho rằng Thẩm
phán – Chủ tọa phiên tòa làm sai lệch hồ sơ vụ án, ra bản án trái pháp luật và vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng không căn cứ nên Hội đồng xét xử thống
nhất không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T1 về việc hủy toàn bộ bản án
sơ thẩm.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Minh T:
[3.1] Về hiệu lực của hợp đồng ủy quyền ngày 10-6-2022:
Quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm, ông T và bà D1 đều
khai thống nhất về việc hợp đồng ủy quyền này hợp đồng giả tạo để che
giấu cho hợp đồng vay tiền giữa hai bên, thực tế không có việc ông T ủy quyền
cho D1 thực hiện các công việc như trong hợp đồng ủy quyền đã thể hiện.
Đây chỉ hình thức đảm bảo cho việc vay tiền giữa ông T D1. Lời khai
của hai bên đương sự phù hợp với chứng cứ là Bản thỏa thuận và cam kết ngày
10-6-2022 giữa ông T D1 (Bl 45-46). Vì vậy, có căn cứ xác định hợp đồng
này vô hiệu do giả tạo, che giấu cho quan hệ vay tiền giữa hai bên. Nguyên đơn
yêu cầu Tòa án tuyên hủy hợp đồng ủy quyền này không đúng quy định tại
Điều 423 Bộ luật Dân sự. Cấp sơ thẩm tuyên vô hiệu hợp đồng ủy quyền này mà
không tuyên hủy hợp đồng ủy quyền như nguyên đơn yêu cầu có căn cứ, đúng
pháp luật. Các đương sự không kháng cáo phần này của bản án sơ thẩm nên giữ
nguyên quyết định này.
[3.2] Về hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
T (do bà D1 đại diện theo ủy quyền) với ông T1, bà N:
Do hợp đồng ủy quyền ngày 10-6-2022 giữa ông T D1 hiệu do giả
tạo, các bên chưa thực hiện nghĩa vụ với nhau theo đúng hợp đồng này nên
D1 không quyền đại diện cho ông T để hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất với ông T1, N. Việc D1 căn cứ vào một hợp đồng ủy quyền giả
11
tạo để xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác
trái pháp luật. Do quyền sử dụng đất vẫn đứng tên của ông T, chưa sang tên cho
D1 nên ông T1, bà N không phải là người thứ 3 ngay tình. Do vậy, hợp đồng
chuyển nhượng này vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật. Cấp thẩm tuyên
hiệu hợp đồng này mà không tuyên hủy hợp đồng theo yêu cầu của nguyên đơn
là đúng quy định pháp luật. Các đương sự không kháng cáo quyết định này nên
giữ nguyên như án sơ thẩm.
[3.3] Về việc trả s tiền 2.500.000.000 đồng cho bà D1:
Quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, ông T
luôn khẳng định bà D1 chưa giao cho ông số tiền 2.500.000.000 đồng mà bà D1
cam kết cho ông T vay theo Bản thỏa thuận và cam kết ngày 10-6-2022 giữa hai
bên (Bl 45-46). Còn b đơn D1 khai tại cấp thẩm đã giao số tiền
2.500.000.000 đồng cho ông T nhưng không chứng cứ chứng minh nên không
yêu cầu ông T trả lại số tiền này (Bl 90). Tại phiên tòa phúc thẩm, D1 xác
nhận chưa giao cho ông T số tiền trên không yêu cầu ông T trả lại số tiền này.
Tuy nhiên, bản án thẩm lại buộc ông T trả cho D1 số tiền 2.500.000.000
đồng không đúng quy định của pháp luật, vượt quá phạm vi yêu cầu của đương
sự, không tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự quy định tại Điều 5 của Bộ
luật Tố tụng dân sự. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn,
sửa phần này của bản án sơ thẩm theo hướng không buộc ông T trả cho D1 số
tiền 2.500.000.000 đồng.
[3.4] Về việc trả s tiền 2.895.000.000 đồng cho ông T1, bà N:
Ông T1 khai đã giao cho D1 tổng số tiền 2.895.000.000 đồng để nhận
chuyển nhượng thửa đất tranh chấp thông qua hình thức chuyển khoản. Lời khai
này phù hợp với chứng cứ ông T1 cung cấp là chứng từ chuyển khoản tại Ngân
hàng (Bl 71, 74-79). D1 cũng thừa nhận có nhận số tiền này tông T1 nhưng
cho rằng đây là tiền vay, việc hợp đồng chuyển nhượng chỉ để đảm bảo cho
khoản vay này, nhưng do D1 không chứng cứ chứng minh cho lời khai này
nên không có căn cứ xác định đây là tiền vay.D1 ng xác nhận không giao
số tiền này cho ông T. Do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14-
10-2022 hiệu nên theo quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự, các bên phải
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những đã nhận. thế, ông
T1 yêu cầu D1 trả lại số tiền 2.895.000.000 đồng có căn cứ, bà D1 cũng
đồng ý trả số tiền này cho ông T1, bà N, nên cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu này
của ông T1 đúng quy định của pháp luật nên giữ nguyên. Ông T1, N phải
trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC 695274 ngày 14-6-
2021, đã chỉnh lý tên ông Nguyễn Minh T ngày 15-7-2021 cho ông T.
[4] Đối với yêu cầu độc lập của ông T1 về việc yêu cầu D1 trả số tiền
105.000.000 đồng và yêu cầu ông T trả số tiền 3.000.000.000 đồng: Do ông T1
đã rút phần yêu cầu này nên cấp sơ thẩm đình ch giải quyết các yêu cầu độc lập
này của ông T1 là đúng quy định pháp luật.
12
Về tiền lãi trên số tiền 2.895.000.000 đồng hoặc bồi thường thiệt hại do hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, ông T1, bà N và bà D1 không
yêu cầu nên không giải quyết.
[5] Do các đương sự thừa nhận thửa đất số 837, tờ bản đồ 24, L, huyện
Đ, tỉnh Rịa - Vũng Tàu hiện vẫn do ông T quản lý, sdụng, trên đất không
có tài sản gì và các đương sự không yêu cầu giao trả quyền sử dụng thửa đất trên
nên không xem xét, giải quyết.
[6] Từ những căn cứ phân tích trên, Hội đồng t xử thống nhất chấp
nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của
nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Hoàng Cao T1,
sửa một phần bản án sơ thẩm như trên.
Ngoài ra, do bản án sơ thẩm tuyên phần quyết định bị trùng lặp và chưa sắp
xếp hợp lý thứ tự các mục, nên cần điều chỉnh lại phần quyết định cho ngắn gọn
và thuận lợi cho việc thi hành án.
[7] Vchi ptố tụng: Nguyên đơn ông Nguyễn Minh T phải chịu số tiền
chi phí sao lục hồ sơ, cung cấp thông tin là 1.257.640 đồng và đã nộp xong. Ông
T không kháng cáo phần này nên giữ nguyên như án sơ thẩm.
[8] Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Yêu cầu khởi kiện về việc tuyên hủy hợp đồng ủy quyền hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của nguyên đơn không được chấp nhận nên
ông T phải chịu 600.000 đồng án pdân sự không có giá ngạch, được trừ vào số
tiền tạm ứng án phí đã nộp.
- Buộc bà Võ Thị D1 phải chịu số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 89.900.000
đồng.
- Yêu cầu độc lập về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất của ông Trần Hoàng Cao T1 không được chp nhận nên ông T1 phải chịu
300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch, được trừ vào số tiền tạm
ứng án phí ông T1 đã nộp.
[9] Về án phí dân sự phúc thẩm: Kháng cáo được chấp nhận nên nguyên đơn
không phải chịu án phí phúc thẩm.
Ông Trần Hoàng Cao T1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm
do kháng cáo không được chấp nhận, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí
phúc thẩm đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Minh T; không
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần
Hoàng Cao T1, sửa một phần bản án sơ thẩm như sau:
13
Căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản
2 Điều 244, Điều 273, 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 117, Điều 119, Điều
122, Điều 123, Điều 124, Điều 131, Điều 133, Điều 138, Điều 140, Điều 142,
Điều 166, Điều 407, Điều 423, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Điều 26, Điều 27, Điều 29 Nghị quyết s326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016
của Ủy ban Thường v Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu độc lập của ông Trần Hoàng Cao T1
về việc yêu cầu ông Nguyễn Minh T trả cho ông T1 số tiền 3.000.000.000 (ba tỷ)
đồng yêu cầu Thị D1 trả cho ông T1 số tiền 105.000.000 (một trăm lẻ
năm triệu) đồng.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh T về
việc hủy Hợp đồng ủy quyền số 4884 ngày 10-6-2022 tại Văn phòng C đối với
thửa đất 837, tờ bản đồ 24, L, huyện Đ, tỉnh Rịa - Vũng Tàu, giữa ông
Nguyễn Minh T Thị D1 hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất số 6850 ngày 14-10-2022 tại Văn phòng C đối với thửa đất số 837, tờ
bản đồ 24, L, huyện Đ (nay huyện L), tỉnh Rịa - Vũng Tàu, giữa bên
chuyển nhượng là ông Nguyễn Minh T do Thị D1 đại diện theo ủy quyền
với ông Trần Hoàng Cao T1 và bà Nguyễn Thị Kim N.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh T:
3.1. Tuyên bố: Hợp đồng ủy quyền giữa ông Nguyễn Minh T Thị
D1, số công chứng 4884 quyển số 01/2022 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 10-6-2022
tại Văn phòng C hiệu.
3.2. Tuyên bố: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển
nhượng ông Nguyễn Minh T (do Thị D1 đại diện theo ủy quyền)
với bên nhận chuyển nhượng là ông Trần Hoàng Cao T1 bà Nguyễn Thị Kim
N, số Công chứng 6850 quyển số 01/2022 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 14-10-2022
tại Văn phòng C hiệu.
3.3. Buộc ông Trần Hoàng Cao T1 và bà Nguyễn Thị Kim N trả lại cho ông
Nguyễn Minh T 01 (mt) bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DC
695274 do Sở Tài nguyên Môi trưởng tỉnh B cấp ngày 14-6-2021, chỉnh
sang tên cho ông Nguyễn Minh T ngày 15-7-2021, đối với thửa đất số 837, tờ bản
đồ 24, xã L, huyện Đ (nay là huyện L), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Trường hợp ông Trần Hoàng Cao T1 Nguyn Th Kim N không giao
trả bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho ông Nguyn Minh
T, thì ông T được quyền liên hệ cơ quan Nnước thẩm quyền đđược cấp lại
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 837, tờ bản đồ 24, xã L,
huyện Đ (nay là huyện L), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho ông Nguyn Minh T theo
quy định pháp luật.
3.4. Bà Võ Thị D1 đưc quyn khi kin v án khác theo quy định của pháp
luật đ yêu cầu ông Nguyn Minh T tr li s tin 2.500.000.000 (hai tỷ, m trăm
triệu) đồng, nếu có tranh chấp.
14
4. Không chấp nhận yêu cầu độc lp của ông Trần Hoàng Cao T1 v vic
yêu cầu công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất s 6850 ngày 14-
10-2022 tại n phòng C đối với thửa đất số 837, t bản đồ 24, L, huyện Đ
(nay huyện L), tỉnh Rịa - Vũng Tàu, giữa ông Nguyễn Minh T (do
Thị D1 đại diện theo ủy quyền) và ông Trần Hoàng Cao T1, bà Nguyn Th Kim
N.
5. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của ông Trần Hoàng Cao T1:
Buộc bà Võ Thị D1 trả cho ông Trần Hoàng Cao T1 và bà Nguyễn Thị Kim
N số tiền 2.895.000.000 (hai tỷ, tám trăm chín mươi lăm triệu) đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
6. Về chi phí tố tng: Nguyên đơn ông Nguyễn Minh T phải chịu số tiền chi
phí sao lục hồ sơ, cung cấp thông tin là 1.257.640 (một triệu, hai trăm năm mươi
bảy ngàn, sáu trăm bốn mươi) đồng và đã nộp xong.
7. Về án phí dân sự sơ thẩm:
7.1. Ông Nguyễn Minh T phải chịu 600.000 (sáu trăm ngàn) đồng án phí dân
sự sơ thẩm không có giá ngạch, được trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm ngàn) đồng
tạm ứng án phí ông T đã nộp, theo Biên lai thu tiền số 0004161 ngày 16-10-2023
của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đ(nay huyện L), tỉnh Rịa - Vũng
Tàu. Ông Nguyễn Minh T còn phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí
thẩm.
7.2. Thị D1 phải chịu 89.900.000 (tám mươi chín triệu, chín trăm ngàn)
đồng án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
7.3. Ông Trần Hoàng Cao T1 phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí
dân sự thẩm, được trừ vào số tiền 46.000.000 (bốn mươi sáu triệu) đồng tạm
ứng án phí ông T1 đã nộp, theo biên lai thu tiền s0004703 ngày 12-01-2024 của
Chi cục Thi hành án dân shuyện Đ(nay huyện L), tỉnh Rịa - Vũng Tàu.
Hoàn trả cho ông Trần Hoàng Cao T1 số tiền là 45.700.000 (bốn mươi lăm triệu,
bảy trăm ngàn) đồng.
8. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Nguyễn Minh T không phải chịu. Hoàn trả cho ông T số tiền 300.000
(ba trăm ngàn) đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp, theo Biên lai thu tiền số
0004725, ngày 24-01-2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ(nay huyện
L), tỉnh Bà Rịa - ng Tàu.
Ông Trần Hoàng Cao T1 phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí dân
sự phúc thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tạm ứng án phí
phúc thẩm ông T1 đã nộp, theo biên lai thu tiền số 0004734 ngày 05-02-2024 của
Chi cục Thi hành án dân shuyện Đ(nay huyện L), tỉnh Rịa - Vũng Tàu.
Ông T1 đã nộp xong án phí phúc thẩm.
15
9. Bản án dân sphúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (31-3-
2025).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh BR-VT;
- Sở Tư pháp tỉnh BR-VT;
- TAND H. L, tỉnh BR-VT;
- VKSND H. L, tỉnh BR-VT;
- Chi cục THADS H. L, tỉnh BR-VT;
- CN VPĐKĐĐ H. L, tỉnh BR-VT;
- Các đương sự;
- Lưu: Tòa Dân sự, Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Cao Minh Vỹ
Tải về
Bản án số 56/2025/DS-PT Bản án số 56/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 56/2025/DS-PT Bản án số 56/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất