Bản án số 135/2025/DS-PT ngày 11/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng ủy quyền

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 135/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 135/2025/DS-PT ngày 11/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng ủy quyền
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 135/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Đối với Hợp đồng ủy quyền số công chứng 6754, vì giảm tiền thuế nên các bên thoả thuận ký Hợp đồng này. Hợp đồng ủy quyền số 6757 thì nhằm che giấu quan hệ vay tiền giữa bà H và ông H1. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên vô hiệu các Hợp đồng ủy quyền này theo khoản 1 Điều 124 của Bộ luật Dân sự năm 2015 là có căn cứ. Do Hợp đồng ủy quyền nêu trên vô hiệu từ thời điểm ký kết, các bên chưa thực hiện các nội dung trong Hợp đồng ủy quyền nêu trên không phát sinh hiệu lực. Toà án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 135/2025/DS-PT
Ngày: 11-03-2025
V/v tranh chấp hợp đồng
ủy quyền
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Dũng;
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Duyên Hằng;
Bà Trần Thị Thanh Trúc.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Quốc Nhi - Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Ông Trần Đức Thoại - Kiểm sát viên.
Trong ngày 11 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 624/2024/DS-PT ngày
22 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 320/2024/DS-ST ngày 27/9/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2025/QĐ-PT ngày 23 tháng 01
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Lữ Hiếu Đ, sinh năm 1991; thường trú: Số A, khu phố B, phường
B, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
2. Ông Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1991; thường trú: Số nhà C, ấp P, xã A,
thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
3. Đinh Thị Trà G, sinh năm 1990; thường trú: Số B HTH tổ D, khu phố
E, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương; địa chỉ liên hệ: Số nhà C, ấp P,
A, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Bị đơn:
1. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1982; thường trú: Số A, khu phố T, phường
T, thành phố D, tỉnh Bình Dương; có mặt.
2
2. Ông Nguyễn Mạnh H1, sinh năm 1982; thường trú: Tổ A, khu phố L,
phường A, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Mạnh H1: Ông Nguyễn Thành
T, sinh năm 1989; địa chỉ: 4, tổ A, khu phố M, phường C, thành phố T, tỉnh Bình
Dương, người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 13/11/2024); có
mặt.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn Phòng C1, địa chỉ: Số C,
đường N, khu phố T, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương; đơn xin xét
xử vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp: Ông/Bà Trương Nguyên T1 Trưởng Văn
phòng C1.
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Mạnh H1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 01/12/2023, quá trình giải quyết vụ án tại phiên
tòa nguyên đơn ông Lữ Hiếu Đ, ông Nguyễn Tuấn A và bà Đinh Thị Trà G thống
nhất trình bày:
Ông Lữ Hiếu Đ, ông Nguyễn Tuấn A Đinh Thị Trà G cùng nhau
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuộc thửa số 206, tờ bản đồ số 20 tọa
lạc T, huyện P, tỉnh Bình Dương theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
DĐ286887 và số DĐ286888, số vào sổ cấp GCN: CS05973 do Sở Tài Nguyên
Môi trường tỉnh B cấp. Ngày 27/11/2023 qua giới thiệu của người quen thì ông Đ
ông A với G mới biết được Nguyễn Thị H nhu cầu nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất. Hai bên thỏa thuận bà H nhận chuyển nhượng quyền
sử dụng đất nêu trên với giá 1.680.000.000 đồng. Để thực hiện thủ tục mua bán,
ngày 29/11/2023 ông Đ, ông Tuấn A, G đã hợp đồng ủy quyền cho
Nguyễn Thị H được quyền quản lý, sử dụng, định đoạt quyền sử dụng thửa đất
nêu trên theo Hợp đồng ủy quyền số công chứng 6754, quyển số 11/2023 TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 29/11/2023 tại Văn phòng Công chứng T. Thời hạn ủy quyền
15 năm kể từ thời điểm hợp đồng ủy quyền được công chứng (ngày
29/11/2023), thù lao ủy quyền: không có. Theo hợp đồng này thì bà Nguyễn Thị
H được phép ủy quyền lại cho bên thứ ba. do giữa hai bên thực hiện việc
chuyển nhượng nhưng lại ký hợp đồng ủy quyền là vì bà H yêu cầu ký hợp đồng
ủy quyền, nếu không ký ủy quyền thì H không đồng ý mua nữa. Mặt khác, sau
khi ký Hợp đồng ủy quyền thì bà H hứa sẽ trả toàn bộ tiền chuyển nhượng quyền
sử dụng đất là 1.680.000.000 (một tỷ sáu trăm tám mươi triệu) đồng. Do cần bán
phần diện tích đất nêu trên nên ông Đ, ông Tuấn A Trà G đồng ý. Việc bà
H tiếp tục ký Hợp đồng ủy quyền tiếp sang cho ông Nguyễn Mạnh H1 thì ông Đ,
ông Tuấn A Trà G không được biết. Tại Văn phòng công chứng H yêu
cầu ông H1, ông Tuấn A Trà G ngồi một bên không được tiếp xúc với
người do H dẫn vô vì đấy là việc làm ăn của H. Do đó, sau khi ông Đ, ông
Tuấn A Trà G Hợp đồng ủy quyền thì H tiếp tục ủy quyền lại cho ông
H1 lúc nào ông Đ, ông Tuấn A Trà G không biết. Sau khi ký Hợp đồng ủy
3
quyền, ông Đ, ông Tuấn A và bà Trà G đợi khoảng 10 phút nhưng không thấy bà
H trả tiền thì qua hỏi, lúc đó thấy H với ông H1 cãi nhau, có sự xung đột lớn.
Ông H1 bỏ ra khỏi Văn phòng công chứng và bỏ ra bàn ghế đá ngoài Văn phòng
Công chứng ngồi. Tại đây ông H1 nói là ông Đ, ông Tuấn A, bà Trà G và cả bản
thân ông H1 đều bị bà H lừa. Ông H1 cầm sổ đỏ bản chính của ông Đ, ông Tuấn
A, bà Trà G và chạy ra xe ô tô. Sau đó, bà H chạy theo và giật được sổ đỏ và đưa
cho ông Đ, ông Tuấn A, bà Trà G. Bà H ông Đ, ông Tuấn A, Trà G yêu cầu
Văn phòng Công chứng hủy ủy quyền nhưng ông H1 không đồng ý nên không
thể hủy y quyền tại Văn phòng Công chứng được. vậy, ông Đ, ông Tuấn A,
Trà G mới khởi kiện ra Tòa để yêu cầu: Tuyên bố Hợp đồng ủy quyền số công
chứng 6754, quyển số 11/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 29/11/2023 Hợp đồng
ủy quyền số công chứng 6757, quyển số 11/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày
29/11/2023 được giao kết giữa ông Lữ Hiếu Đ, ông Nguyễn Tuấn A Đinh
Thị Trà G với Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Mạnh H1 tại Văn phòng Công chứng
T được chấm dứt.
Tại phiên tòa nguyên đơn ông Lữ Hiếu Đ, ông Nguyễn Tuấn A, Đinh
Thị Trà G xác định lại yêu cầu khởi kiện: Yêu cầu Tòa án tuyên hiệu Hợp đồng
ủy quyền số công chứng 6754, quyển số 11/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày
29/11/2023 được giao kết giữa ông Lữ Hiếu Đ, ông Nguyễn Tuấn A, bà Đinh Thị
Trà G với bà Nguyễn Thị H; Yêu cầu tuyên vô hiệu Hợp đồng ủy quyền số công
chứng 6757, quyển số 11/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 29/11/2023 được giao
kết giữa bà Nguyễn Thị H với ông Nguyễn Mạnh H1 tại Văn phòng Công chứng
T.
Tại bản tự khai ngày 04/01/2024, biên bản lấy lời khai ngày 07/3/2024
các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:
Giữa Nguyễn Thị H với ông Lữ Hiếu Đ, ông Nguyễn Tuấn A Đinh
Thị Trà G thông qua giới thiệu của bạn của H biết ông Lữ Hiếu Đ nhu
cầu chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên bà H liên hệ ông Đ để thỏa thuận nhận
chuyển nhượng. Sau khi thỏa thuận hai bên thống nhất H nhận chuyển nhượng
của ông Đ, ông Tuấn A và bà Trà G thửa đất cụ thể: Quyền sử dụng đất theo các
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất số DĐ286887 số DĐ286888 (cùng số vào sổ cấp GCN CS05973) do
Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh B cấp ngày 18/3/2022, có đặc điểm sau đây:
Thửa đất số 206, tờ bản đồ số 20; địa chỉ: T, huyện P, tỉnh Bình Dương, diện
tích: 524,7m
2
. Hai bên thỏa thuận giá chuyển nhượng 1.680.000.000 đồng.
để giảm tiền thuế nên hai bên thỏa thuận Hợp đồng ủy quyền vào ngày
29/11/2023.
Giữa H với ông Nguyễn Mạnh H1 không mối quan hệ họ hàng, thông
qua người môi giới H được biết ông Nguyễn Mạnh H1 người chuyên cho
vay để đáo hạn ngân hàng nên người môi giới dẫn ông H1 xuống gặp H để thỏa
thuận cho vay. Giữa ông H1 với H giao dịch vay tài sản với nhau từ ngày
08/11/2023. Trước thời điểm nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Đ
thì bà H thỏa thuận với ông Nguyễn Mạnh H1 sau khi ký hợp đồng ủy quyền
4
trên với ông Đ, G, ông A thì H sẽ làm thủ tục ủy quyền sang cho ông H1
mục đích làm tin để ông H1 cho bà H vay thêm số tiền 1.680.000.000 đồng để bà
H trcho ông Đ, G, ông A. vậy, cùng ngày 29/11/2023 sau khi ông Đ,
G, ông Tuấn A hợp đồng ủy quyền sang cho H thì bà H tiếp tục hợp đồng
ủy quyền thửa đất trên cho ông Nguyễn Mạnh H1. Sau khi ký và lăn tay vào Hợp
đồng ủy quyền sang cho ông Nguyễn Mạnh H1 thì tại Văn phòng C1 H viết 01
giấy vay tiền thể hiện nội dung H vay của ông Nguyễn Mạnh H1 số tiền
2.680.000.000 đồng (trong đó có số tiền 01 tỷ đồng là của khoản vay trước đó và
1.680.000.000 đồng vay mới để trả tiền cho ông Đ, ông Tuấn A G) thỏa
thuận với lãi suất 5%/tháng trong vòng hai tháng H sẽ trả số tiền trên cho ông
Nguyễn Mạnh H1. Sau khi viết xong Giấy vay tiền trên H yêu cầu ông
H1 đưa số tiền vay 1.680.000.000 đồng thì ông H1 bảo để lấy hồ ủy quyền
từ bộ phận trả kết quả của Văn phòng Công chứng T thì ông H1 đưa tiền cho
H. Tuy nhiên, sau khi xong Giấy vay tiền, một mình ông Nguyễn Mạnh H1
liên hệ bộ phận trả kết quả của Văn phòng Công chứng T lấy toàn bộ 03 bản Hợp
đồng ủy quyền trên và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản chính rồi chạy ra
xe ô của ông H1 đang đậu trước Văn phòng Công chứng. H thấy vậy thì vụt
chạy theo ông H1 ra xe giựt lấy 01 chìa khóa xe ô của ông H1, còn anh rể
của H tên Nguyễn Văn H3 cũng chạy theo và giật lại được toàn bộ hồ sơ trên
đã đưa lại cho ông Đ toàn bộ hợp đồng ủy quyền bản chính Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất bản gốc. Thời điểm ông H1 lấy hồ bỏ chạy ra xe thì
cả ông Đ, G, ông Tuấn A, anh rH Nguyễn Văn H3 công chứng
viên tên H4 của Văn phòng Công chứng T đều chứng kiến sự việc trên. Vì những
sự việc phát sinh như vậy nên mặc nhận chuyển nhượng đất của ông Đ nhưng
H chưa có tiền để thanh toán cho ông Đ, ông Tuấn A và bà G. Vì vậy, hai bên
liên hệ với Văn phòng Công chứng T để hủy hợp đồng ủy quyền trên nhưng Văn
phòng Công chứng không tự hủy được. H đã nhiều lần liên hệ ông H1 để ra
văn phòng công chứng hủy hợp đồng ủy quyền nêu trên nhưng ông H1 không chịu
thực hiện. Do đó, đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tuyên bố Hợp
đồng ủy quyền số công chứng 6754, quyển 11/2023/TP/CC/HĐGD ngày
29/11/2023 Hợp đồng ủy quyền số công chứng 6757, quyển số 11/2023TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 29/11/2023 được giao kết giữa ông Lữ Hiếu Đ, ông Nguyễn
Tuấn A, bà Đinh Thị Trà G Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Mạnh H1 tại Văn
phòng Công chứng T hiệu thì H đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Bị đơn ông Nguyễn Mạnh H1:
Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án cấp sơ thẩm Tòa án nhân dân thành
phố D đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo tố tụng quy định của bộ Luật tố tụng
dân sự để bị đơn tham gia giải quyết vụ án nhưng ông Nguyễn Mạnh H1 vắng mặt
không lý do. Đồng thời Tòa án đã yêu cầu ông Nguyễn Mạnh H1 ý kiến về yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn cung cấp tài liệu chứng cứ về hợp đồng ủy quyền
nhưng ông H1 không cung cấp và cũng không có yêu cầu độc lập gì trong vụ án.
vậy Tòa án không thu thập được ý kiến của bị đơn ông Nguyễn Mạnh H1. Việc
giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được xem xét trên sở chứng cứ
5
do nguyên đơn, bị đơn H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cung cấp và
do Tòa án thu thập.
Tại văn bản trình bày ý kiến số 30/VPCC ngày 12/3/2024 người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng Công chứng T, người đại diện theo ủy quyền
là bà Trương Lê Nguyên T1 trình bày:
Ngày 29 tháng 11 năm 2023, ông Lữ Hiếu Đ, ông Nguyễn Tuấn A
Đinh Thị Trà G với bà Nguyễn Thị H yêu cầu công chứng viên Văn phòng Công
chứng T chứng nhận hợp đồng ủy quyền thực hiện các công việc đối với thửa đất
diện tích: 524,7m
2
tọa lạc tại địa chỉ: T, huyện P, tỉnh Bình Dương; thuộc
thửa đất số: 206; tờ bản đồ số: 20 căn cứ theo các Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số: DĐ286887 số:
DĐ286888 (cùng số vào sổ cấp GCN: CS05973) do Sở Tài nguyên Môi trường
tỉnh B cấp ngày 18/3/2022. Vào cùng ngày, Nguyễn Thị H (đại diện theo ủy
quyền của chủ sử dụng đất) ông Nguyễn Mạnh H1 yêu cầu công chứng viên
Văn phòng Công chứng T chứng nhận hợp đồng ủy quyền lại cho bên thứ ba đối
với thửa đất nêu trên. Thửa đất của bên ủy quyền - ông Lữ Hiếu Đ, ông Nguyễn
Tuấn A, bà Đinh Thị Trà G không có thông tin tranh chấp. Các bên tham gia giao
kết cam đoan: Thông tin cung cấp đúng sự thật; Chịu trách nhiệm trước pháp
luật về tính chính xác, tính hợp pháp của những thông tin đã cung cấp, đã ghi nhận
và các giấy tờ đã cung cấp liên quan đến việc giao kết hợp đồng ủy quyền; Thực
hiện đúng và đầy đủ tất cả các thỏả thuận đã ghi trong hợp đồng ủy quyền; Việc
giao kết hợp đồng ủy quyền trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận theo
luật, không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép. Tại thời điểm công chứng, Công
chứng viên của n phòng Công chứng T đã kiểm tra, tra cứu không có thông tin
ngăn chặn trên phần mềm CSDL công chứng tỉnh Bình Dương, không nhận được
đơn thư thưa kiện của đương sự, không nhận được thông báo thụ vụ án của Tòa
án nhận thấy các bên tham gia ký kết hợp đồng năng lực nh vi dân sự phù
hợp theo quy định của pháp luật, đã tự nguyện thỏa thuận giao kết hợp đồng, nội
dung thỏa thuận của các bên trong hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức hội. Các bên đã đọc lại hợp đồng đã đồng ý toàn bộ
nội dung ghi trong hợp đồng đã vào hợp đồng trước sự mặt của công
chứng viên. Công chứng viên đã chứng nhận hợp đồng ủy quyền theo yêu cầu và
theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Văn phòng Công chứng T không có ý kiến
khác liên quan đến việc giải quyết vụ án nêu trên, đề nghị Tòa án giải quyết
theo quy định của pháp luật.
Tại bản tự khai ngày 04/01/2024 người làm chứng ông Nguyễn Văn H3
trình bày:
Ông Nguyễn Văn H3 có quen biết ông H5, thông qua ông H5 mới biết ông
H1. Do bà H là em của ông H3 nhu cầu vay tiền để cần đáo hạn ngân hàng nên
ông H3 giới thiệu ông H1 cho bà H vay tiền. Sau đó bà H nhận chuyển nhượng
của ông Đ, ông A, bà G diện tích đất thuộc thửa đất số 206; tờ bản đồ số: 20 căn
cứ theo các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất số: DĐ286887 và số: DĐ286888 (cùng số vào sổ cấp GCN:
6
CS05973) do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp ngày 18/3/2022 với giá
1.680.000.000 đồng. Hai bên thỏa thuận ký hợp đồng ủy quyền cho bà H và bà H
lại hợp đồng ủy quyền cho ông H1 rồi mới thanh toán cho ông Đ. Sau khi
H hợp đồng ủy quyền cho ông H1 xong thì ông H1 không chuyển tiền
không hợp tác. Ông H1 còn bắt H giấy nợ 2.680.000.000 đồng. Trước đó
H nợ ông H1 1.000.000.000 đồng ông H1 hứa nếu hợp đồng ủy quyền xong
ông H1 đưa tiếp 1.680.000.000 đồng nhưng sau đó ông H1 không đưa thêm một
đồng nào nữa cho đến nay.
Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản:
- Quyền sử dụng đất thửa số 206, tờ bản đồ số 20 tọa lạc tại T, huyện P,
tỉnh Bình Dương theo các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà
tài sản khác gắn liền với đất số: DĐ286887 số: DĐ286888 (cùng số vào
sổ cấp GCN: CS05973) do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp ngày
18/3/2022, đất thuộc vị trí 1, khu vực 2 tứ cận: Bắc giáp đường T, BTXM, Nam
giáp thửa đất 78, Đông giáp đường T 24 sỏi đỏ; Tây giáp thửa 79. Trên thửa đất
206, tờ bản đồ số 20 không có tài sản gì.
- Kết quả định giá: Đất ở tại nông thôn 150m
2
thuộc vị trí 1, khu vực 2
giá 468.000 đồng/m
2
, thành tiền: 70.200.000 đồng; đất trồng cây lâu m 374,7m
2
thuộc vị trí 1, khu vực 2 có giá 126.000 đồng/m
2
, thành tiền: 47.212.200 đồng.
Tại Bản án dân sự thẩm số 320/2024/DS-ST ngày 27/9/2024, Tòa án
nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lữ Hiếu Đ, ông Nguyễn
Tuấn A và bà Đinh Thị Trà G với bị đơn bà Nguyễn Thị H ông Nguyễn Mạnh
H1 về việc “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền”.
- Tuyên bố Hợp đồng ủy quyền số công chứng 6754, quyển số
11/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 29/11/2023 tại Văn phòng Công chứng T được
kết giữa ông Lữ Hiếu Đ, ông Nguyễn Tuấn A Đinh Thị Trà G với
Nguyễn Thị H vô hiệu.
- Tuyên bố Hợp đồng ủy quyền số công chứng 6757, quyển số
11/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 29/11/2023 tại Văn phòng C1 được kết giữa
Nguyễn Thị H với ông Nguyễn Mạnh H1 vô hiệu.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, trách nhiệm thi hành
án và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Sau khibản án sơ thẩm, ngày 10/10/2024, bị đơn ông Nguyễn Mạnh H1
kháng cáo toàn bộ Bản án thẩm số 320/2024/DS-ST ngày 27/9/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy
bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện;
bị đơn ông Nguyễn Mạnh H1 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; các đương sự
không không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
7
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:
Về tố tụng: Những người tiến hành ttụng tham gia tố tụng đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án phúc thẩm cho rằng Tòa cấp
phúc thẩm đưa ra phán quyết không khách quan làm ảnh hưởng quyền và lợi ích
hợp pháp của mình nhưng tại cấp phúc thẩm, bị đơn không cung cấp thêm chứng
cứ mới làm thay đổi nội dung vụ án nên bản án thẩm không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện là căn cứ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308
của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn và giữ nguyên
bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên toà, kết quả tranh tụng của các đương sự tại phiên tòa, ý kiến đại diện
Viện kiểm sát,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Mạnh H1 trong thời hạn luật
định. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.
[1.2] Qtrình tố tụng tại cấp thẩm, Tòa án cấp thẩm đã tiến hành các
thủ tục theo quy định của Bộ luật Ttụng dân sự. Bị đơn ông Nguyễn Mạnh H1
không tham gia giải quyết vụ án, vắng mặt không ý kiến về khởi kiện của
nguyên đơn cũng như không cung cấp tài liệu, chứng cứ cũng không yêu
cầu phản tố. Do đó, Tòa án cấp thẩm căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
ý kiến của bà Nguyễn Thị H chứng cứ do Tòa án thu thập để giải quyết vụ án
là có căn cứ.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về nguồn gốc thửa đất liên quan đến giao dịch giữa các bên, trước
đây, quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 524,7m
2
thuộc thửa số 206, tờ bản đồ
số 20 tại T huyện P, tỉnh Bình Dương là tài sản của vợ chồng ông Lại Mạnh C
Trần Thị Huyền T2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất số CY 053430 do Sở Tài nguyên Môi
trường tỉnh B (Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai huyện P thừa ủy quyền) cấp
ngày 17/12/2020. Sau đó, theo Hợp đồng ủy quyền đề ngày 15/02/2022 giữa ông
C và bà T2 (bút lục 118-120) và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đề
ngày 22/02/2022 giữa ông C và bà T2 (bên chuyển nhượng) với bà Đinh Thị Trà
G, ông Lữ Hiếu Đ (bên nhận chuyển nhượng) (bút lục 121-126), quyền sử dụng
đất đối với thửa 206 nêu trên được chuyển nhượng cho ông Đ và bà G.
Sau đó, Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B đã cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số 286888, số vào sổ cấp GCN: CS05973 ngày 18/03/2022 cho
ông Lữ Hiếu Đ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 286887, số vào sổ
cấp GCN: CS05973 ngày 18/03/2022 cho Đinh Thị Trà G. Các giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất này ghi nhận Đinh Thị Trà G và ông Lữ Hiếu Đ mỗi
8
người được quyền sử dụng 50% quyền sử dụng đất đối với thửa số 206, tờ bản đồ
số 20 tại T huyện P, tỉnh Bình Dương. Do đó, ông Lữ Hiếu Đ, bà Đinh Thị Trà
G ông Nguyễn Tuấn A (chồng hợp pháp của G) chủ sử dụng hợp pháp
đối với thửa đất nêu trên.
[2.2] Về hiệu lực của các hợp đồng:
[2.2.1] Đối với Hợp đồng ủy quyền số công chứng 6754, quyển
11/2023/TP/CC/HĐGD ngày 29/11/2023 được kết giữa ông Lữ Hiếu Đ, ông
Nguyễn Tuấn A và bà Đinh Thị Trà G với bà Nguyễn Thị H:
Tại cấp thẩm, theo Biên bản lấy lời khai ngày 22/8/2024 (bút lục 173)
ông Đ H trình y rằng việc kết Hợp đồng ủy quyền trong khi thực tế
các bên thoả thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất do H yêu cầu, nếu
không Hợp đồng ủy quyền thì H không đồng ý mua đất nữa. Đồng thời, sau
khi ký Hợp đồng ủy quyền thì bà H hứa sẽ trả toàn bộ tiền chuyển nhượng quyền
sử dụng đất là 1.680.000.000 (Một tỷ sáu trăm tám mươi triệu) đồng. Tuy nhiên,
H chưa thanh toán bất kỳ khoản tiền nào cho ông Đ G. Theo Biên bản
lấy lời khai ngày 04/01/2024 ngày 07/3/2024 (bút lục 52-53), H xác nhận
việc Hợp đồng ủy quyền ngày 29/11/2023 với ông Đ, G để thoả thuận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích đất 524,7m
2
thửa 206, tờ bản đồ 20
tại T, huyện P, tỉnh Bình Dương với giá 1.680.000.000 (Một tỷ sáu trăm tám
mươi triệu) đồng. Tuy nhiên, giảm tiền thuế nên các bên thoả thuận Hợp
đồng ủy quyền. Sự thừa nhận giữa các bên là sự kiện, tình tiết không phải chứng
minh theo Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Như vậy, thực tế các
bên đã thừa nhận rằng quan hệ được xác lập giữa các bên không phải quan hệ
ủy quyền mà là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 124 của Bộ luật Dân sự năm 2015, “Khi các bên
xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch n sự
khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn
hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này
hoặc luật khác liên quan”. Xét thấy, Hợp đồng ủy quyền ngày 29/11/2023 giữa
các bên giao dịch dân sự giả tạo nhằm che giấu giao dịch chuyển nhượng quyền
sử dụng đất. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên vô hiệu Hợp đồng ủy quyền này là có căn
cứ. Do Hợp đồng ủy quyền nêu trên hiệu từ thời điểm kết, các bên chưa
thực hiện các nội dung trong Hợp đồng ủy quyền nêu trên không phát sinh hiệu
lực.
Về giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đ, ông A, G
với H, các bên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xkhông
xem xét. Trường hợp các bên tranh chấp thì được quyền khởi kiện bằng một
vụ án khác.
[2.2.2] Đối với Hợp đồng ủy quyền số công chứng 6757, quyển số
11/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 29/11/2023 được ký kết giữa bà Nguyễn Thị H
với ông Nguyễn Mạnh H1:
9
Theo Biên bản lấy lời khai ngày 04/01/2024, H trình bày rằng giữa
và ông Nguyễn Mạnh H1 không có quan hệ họ hàng, thông qua môi giới nên ông
H1 người chuyên cho vay để đáo hạn ngân hàng. Trước thời điểm nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thì thoả thuận với ông H1 sau khi hợp đồng
uỷ quyền với ông Đ, bà G, ông A thì sẽ làm thủ tục ủy quyền sang cho ông H1.
Tuy nhiên, sau khi hợp đồng thì ông H1 không đưa cho H số tiền vay
1.680.000.000 (Một tỷ sáu trăm tám mươi triệu) đồng tự ý lấy Hợp đồng ủy
quyền cùng bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chạy ra xe. Xét
thấy, theo lời khai của các đương sự cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ
sơ, Hợp đồng ủy quyền số 6757 này được cùng ngày với Hợp đồng ủy quyền
số 6754. Quá trình tố tụng tại cấp thẩm, lời khai của ông Nguyễn Văn H3
(người làm chứng) cho thấy giữa bà H ông H1 quan hệ vay tiền, tuy nhiên
sau khi H ủy quyền cho ông H1 thì ông H1 không đưa tiền. Ông Đ, bà G
ông A cũng xác nhận có sự việc ông H1 lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
sau đó H lấy lại đưa cho phía nguyên đơn. Như vậy, sở cho thấy
Hợp đồng ủy quyền số 6757 này là nhằm che giấu quan hệ vay tiền giữa bà H
ông H1. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên vô hiệu Hợp đồng ủy quyền này theo khoản 1
Điều 124 của Bộ luật Dân sự năm 2015 là có căn cứ. Do Hợp đồng ủy quyền nêu
trên hiệu từ thời điểm ký kết, các bên chưa thực hiện các nội dung trong Hợp
đồng ủy quyền nêu trên không phát sinh hiệu lực.
Đối với giao dịch vay tiền giữa Nguyễn Thị H với ông Nguyễn Mạnh
H1, bà H cho rằng việc ký Hợp đồng ủy quyền là làm tin để ông H1 cho H vay
tiền. Tuy nhiên, ông H1 không cung cấp tài liệu, chứng cứ cũng như không yêu
cầu phản tố nên a án không xem xét giải quyết hợp đồng vay giữa bà H với ông
H1 trường hợp các bên tranh chấp thì được quyền khởi kiện bằng một vụ án
khác.
[3] Tòa án cấp thẩm đã xem xét đánh giá toàn diện các chứng cứ trong
hồ sơ vụ án, đảm bảo quyền và lợi ích các bên, xét xử phù hợp với quy định pháp
luật. Bị đơn kháng cáo nhưng tại Tòa án cấp phúc thẩm không cung cấp được tài
liệu, chứng cứ nào khác làm thay đổi nội dung vụ án nên không căn cứ chấp
nhận kháng cáo của bị đơn.
[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn ông Nguyễn Mạnh H1 phải chịu
theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 148; khoản 1 Điều 308, Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 463, 466, 468 và 469 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án;
10
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Mạnh H1.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 320/2024/DS-ST ngày 27/9/2024
của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Mạnh H1 phải chịu 300.000
đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm
nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm tại Biên lai số 0001771 ngày 18/10/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D, tỉnh Bình Dương.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố D;
- TAND thành phố D;
- Các đương sự;
- Tổ hành chính tư pháp;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Trung Dũng
Tải về
Bản án số 135/2025/DS-PT Bản án số 135/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 135/2025/DS-PT Bản án số 135/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất