Bản án số 43/2025/DS-PT ngày 13/03/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 43/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 43/2025/DS-PT ngày 13/03/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 43/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Thị Lệ H tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Trương Quang T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 43/2025/DS-PT
Ngày: 13-3-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Bà Vũ Thị Nguyệt
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thành Tâm
Bà Huỳnh Nguyễn Thanh Trúc
- Thư ký phiên toà: Lê Thị Ngọc Huyền – Thư ký, Toà án nhân dân tỉnh
Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng: Nguyễn Thị Thu
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 13 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 277/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 11
năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 60/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024 ca
Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 501/2024/QĐ-PT ngày
03 tháng 12 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 288/2024/QĐ-
PT ngày 30 tháng 12 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số
12/2025/QĐ-PT ngày 16 tháng 01 năm 2025; Thông báo mở lại phiên tòa xét xử
phúc thẩm số 24/TB-TA ngày 07 tháng 02 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa
phúc thẩm số 32/2025/QĐ-PT ngày 25 tháng 02 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị Lệ H, sinh năm: 1969; trú tại số C, thôn A,
xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo y quyền: Phạm Thị O, sinh năm: 1977; trú
tại tổ C, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng (Văn bản ủy quyền 24/02/2025).
- Bị đơn:
2
+ Ông Trương Quang T, sinh năm: 1984; cư trú tại số A, đường L, tổ A, thị
trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo ủy quyền: Nguyễn Thị Thanh H1, sinh năm: 1985;
trú tại số A, đường L, tổ A, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng (Văn bản ủy
quyền 17/02/2025).
+ Nguyễn Thị Thùy D, sinh năm: 1991; trú tại thôn M, xã H, huyện L,
tỉnh Lâm Đồng.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Công Đ, sinh năm: 1972, Vi Thị Thu T1, sinh năm: 1975;
trú tại số A, thôn A, xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Vi Thị Thu T1, sinh năm: 1975; cư trú tại
số A, thôn A, L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng (Văn bản ủy quyền ngày 30/3/2024).
+ Trần Thị N, sinh năm: 1965; trú tại số A, Quốc lộ B, thị trấn L,
huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
+ Bà Nguyễn Thị Thanh H1, sinh năm: 1985;trú tại số A, đường L, tổ A,
thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
+ Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt; địa chỉ: số A, đường C,
Phường D, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quang K Chức vụ: Chi cục
trưởng.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Mai Hoài N1 Chấp hành viên (Văn
bản ủy quyền ngày 08/3/2024).
+ Phòng C tỉnh Lâm Đồng; địa chỉ: số C, đường T, Phường D, thành phố Đ,
tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Lệ D1 Trưởng phòng.
Người kháng cáo: Ông Trương Quang T, bà Nguyễn Thị Thùy D Bị đơn.
(Bà O, ông T, bà H1, bà N, bà T1 có mặt tại phiên tòa; bà D, đại diện Chi
cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt có đơn xin xét xử vắng mặt; các
đương sự còn lại vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai của nguyên đơn Nguyễn Thị Lệ H
các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án thì: Ngày 28/4/2022, ông Trương
Quang T cho Nguyễn Thị Lệ H vay số tiền 6.000.000.000đ, trong đó H
3
trả cho ông T 360.000.000đ tiền lãi của tháng 5/2022, ông T chỉ đưa cho bà H số
tiền là 5.640.000.000đ. Thời hạn vay 03 tháng kể tngày 28/4/2022. Theo thỏa
thuận H trách nhiệm trả lãi cho ông T mỗi tháng 360.000.000đ. Đến ngày
28/7/2022, tổng số tiền lãi và gốc phải trả cho ông T 6.720.000.000đ. Trường
hợp nếu sau 03 tháng không trđủ gốc và lãi thì ông T quyền sang tên thửa đất
số 80 tbản đồ 9 tọa lạc tại Phường G, thành phố Đ. Ông T yêu cầu H phải
thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất đề làm tin. Cùng
ngày 28/4/2022, H ông T đã lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng
đất tại Phòng công chứng số A tỉnh Lâm Đồng công chứng số 814, quyển số
04/TP/CC-SCC/HĐGD đối với diện tích đất 4.875m
2
thửa đất số 80, tờ bản đồ 9
tọa lạc tại Phường G, thành phố Đ. Giá trị chuyển nhượng ghi trong hợp đồng là
5.000.000.000đ. Tuy nhiên, trên thực tế không việc giao nhận tiền cũng
không bàn giao đất chỉ để làm tin cho việc vay số tiền 6.000.000.000đ. Hiện
nay, bà H không quản lý sử dụng đất, bà chỉ nghe là ông T nói ông T đã nhận đất
và có trồng cây nhưng không biết chính xác là trồng cây gì vì từ trước tới nay bà
H để đất trống, không canh tác.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng vay theo thỏa thuận ngày 28/4/2022 thì
H đã thanh toán cho ông Trương Quang T số tiền 140.000.000đ (không nhớ
chính xác thời gian cụ thể). Sau đó H không còn khả năng trả gốc lãi. Đến
ngày 16/8/2022, ông T bà D được cập nhật trang tư trong giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất trên mang tên ông Trương Quang T, bà Nguyễn Thị Thùy D. Do việc
mượn tiền là có xảy ra trong thực tế. Việc H và ông T, bà D thỏa thuận chuyển
nhượng diện tích đất trên chỉ hình thức đảm bảo cho khoản vay của H. Đã
nhiều lần H liên hệ với ông T, D yêu cầu chuộc lại thửa đất nhưng D,
ông T không đồng ý.
Nay H yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
được Phòng công chứng số A tỉnh Lâm Đồng công chứng số 814, quyển số
04/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 28/04/2022 đối với diện tích đất 4.875m
2
thuộc
thửa 80 tờ bản đồ số 9 tại Phường G, thành phố Đ, Lâm Đồng giữa người chuyển
nhượng bà Nguyễn Thị Lệ H với bên nhận chuyển nhượng bà Nguyễn Thị Thùy
D, ông Trương Quang T hiệu do giả tạo. Yêu cầu ông Trương Quang T,
Nguyễn Thị Thùy D trả lại cho H 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N
638053 do Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp ngày 03/3/1999.
Đối với yêu cầu độc lập của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt
về việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất kỳ ngày 28/4/2022 giữa
ông T, D do liên quan đến tài sản thi hành án thì H đồng ý. Đối với
yêu cầu phản tố của ông T, D yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển
4
nhượng ngày 28/4/2022, trường hợp không tiếp tục thực hiện hợp đồng thì buộc
phải trả cho ông T số tiền 11.000.000.000đ. không đồng ý, chỉ đồng ý
trả cho ông T, D số tiền 6.500.000.000đ. Trong đó, tiền gốc vay
6.000.000.000đ và 500.000.000đ tiền lãi.
Về chứng thư thẩm định giá: Theo chứng thư thẩm định giá ngày 17/5/2024
của Công ty cổ phần T4. Giá trị tài sản tranh chấp là 5.862.100.000đ, H không
đồng ý với giá trị tài sản này yêu cầu thẩm định giá lại. Tuy nhiên, tại phiên
toà thẩm, H đồng ý với giá trị tài sản 5.862.100.00không yêu cầu
thẩm định giá lại. Đồng thời, thống nhất hiện trạng tài sản theo hoạ đồ đo đạc
ngày 06/12/2022 của Chi nhánh định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 288/2024/QĐ-
PT ngày 30 tháng 12 năm 2024 Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ.
- Theo đơn yêu cầu phản tố, bản tự khai, lời trình bày của người đại diện
theo uỷ quyền của bị đơn ông Trương Quang T và bà Nguyễn Thị Thùy D và các
tài liệu trong hồ vụ án thì: Ngày 28/4/2022, ông T, D H kết Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 80, tờ bản đồ số 09,
diện tích 4.875m
2
tại Phường G, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, số công chứng 814,
quyển sổ 04/2022TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C1 tỉnh Lâm Đồng. Hai bên
thỏa thuận giá chuyển nhượng là 5.000.000.000đ. Ông T, bà D sẽ có trách nhiệm
nộp thuế, phí, lệ phí liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất
trên. Ông T không cho bà H vay số tiền 6.000.000.000đ như H trình bày. Ngày
28/4/2022, ông T đã chuyển khoản cho bà H 6.000.000.000đ, trong đó
5.240.000.00tiền chuyển khoản còn 760.000.000đ tiền mặt. Ông T chuyển
số tiền này để chuyển nhượng thửa đất thửa đất số 80, tờ bản đồ số 09, diện tích
4.875m
2
tại Phường G, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Thửa đất đã được UBND
thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số N 638053 ngày 03/3/1999
đã được cập nhật tại trang 4 đứng tên người sử dụng bà Nguyễn Thị Lệ H. Tuy
nhiên, sau đó H đề nghị ông T, bà D cho bà H chuộc lại thửa đất nói trên bằng
hình thức nhận chuyển nhượng lại vì bà H không nhu cầu chuyển nhượng nữa.
H sẽ trả cho ông T, bà D số tiền 6.720.000.000đ. Do có mối quan hệ quen biết
nên ông T, bà D đồng ý.
Cùng ngày 28/4/2022, hai bên có lập một giấy thỏa thuận viết tay có chữ ký
của ông T, bà H và người làm chứng bà Nguyễn Thị V. Với nội dung trong vòng
03 tháng kể từ ngày giấy thỏa thuận H s thanh toán đủ số tiền
6.720.000.00 cho ông T, D để lấy lại thửa đất trên. Trong đó vào ngày
28/6/2022, H sẽ trả số tiền 360.000.000đ ngày 28/7/2022 strả số tiền
360.000.000đ, số tiền 6.000.000.000đ H sẽ trả trong thời hạn còn lại. khoảng
thời gian 03 tháng chờ H thanh toán tiền để lấy lại thửa đất trên sự chêch
5
lệch về giá chuyển nhượng thửa đất trên nên ông T, D đồng ý thỏa thuận lại
giá chuyển nhượng 6.000.000.000đ trả thêm cho H 1.000.000.000đ. Tổng
số tiền đã chuyển khoản cho H 5.240.000.000đ. Số tiền 760.000.000đ còn
lại ông T, bà D giao tiền mặt cho bà H.
Quá thời hạn như đã thỏa thuận bà H không thanh toán số tiền trên cho ông
T và bà D dù ông T, bà D đã yêu cầu rất nhiều lần. Do đó, đến tháng 9/2022 ông
T, bà D đã tiếp quản thửa đất trên và rào đất, cắm mốc để xác định ranh giới trên
thực địa. Ngày 12/10/2022 ông T, bà D ng Văn phòng thừa phát lại thành phố
Đ lập Vi bằng số 2044/2022/VB-TPL để ghi nhận lại việc cắm mốc và ranh giới
thửa đất. Sau đó ông T, bà D đã nộp hồ sơ để cập nhật tên người sử dụng thửa đất
trên tại Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Đ. Hiện tại giấy chng
nhận quyền sử dụng đất số N 638053 đã được cập nhật tại trang 4 đăng biến
động sang tên người sử dụng đất là ông Trương Quang TNguyễn Thị Thùy
D. Tại thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng thì ông T, bà D không biết tài sản
này của bà H đang bị biên để thi hành án, khi bà H khởi kiện thì ông T, D
mới biết. Số tiền ông T chuyển trả cho H thông qua tài khoản của
Nguyễn Thị Thanh H1 (ông T, bà D nhờ bà H1 chuyển).
Nguyễn Thị Lệ H khởi kiện yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất được Văn phòng C2 tỉnh Lâm Đồng công chng số 814, quyển
số 04/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 28/4/2022, thửa 80, tờ bản đồ số 09, với diện
tích đất 4.875m
2
tại Phường G, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng với ông Trương
Quang T, bà Nguyễn Thị Thùy D là vô hiệu do giả tạo và yêu cầu ông T và bà D
trả lại cho bà H 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 6380563 do UBND
thành phố Đ cấp ngày 03/3/1999. Ông T, D không đồng ý giữ nguyên yêu
cầu phản tố yêu cầu bà H phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng ngày
28/4/2022. Trường hợp Toà án tuyên hợp đồng hiệu thì ông T, D giữ nguyên
yêu cầu buộc H phải thanh toán số tiền chuyển nhượng 6.000.000.000đ
bồi thường thiệt hại số tiền 5.000.000.000đ.
Đối với yêu cầu độc lập của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt
yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 28/4/2022 giữa
H ông T, D do liên quan đến tài sản thi hành án thì ông T, D không
đồng ý tại thời điểm chuyển nhượng ông T, bà D không biết được tài sản này
đang phải thi hành án.
Về chứng thư thẩm định giá: Theo chứng thư thẩm định giá ngày 17/5/2024
của Công ty cổ phần T4. Giá trị tài sản tranh chấp là 5.862.100.000đ ông T, bà D
đồng ý. Đồng thời, ông T, D thống nhất theo hoạ đồ đo đạc hiện trạng tài sản
ngày 06/12/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ.
6
- Theo đơn yêu cầu độc lập, lời khai của ông Mai Vũ Hoài N1 Chấp hành
viên người đại diện theo uỷ quyền của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt và các tài liệu, chứng cứ có trong
hồ sơ vụ án thì: Theo Bản án dân sự số 32/2020/DS-ST ngày 14/9/2020 của Toà
án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, bà H phải có nghĩa vụ trả cho bà
Trần Thị N số tiền 2.160.000.000đ lãi phát sinh; Bản án số 46/2020/DS-ST
ngày 03/8/2020 của Toà án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; Bản án
số 140/2020/DS-PT ngày 30/9/2020 của Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, H
nghĩa vụ trả cho ông Công Đ, Vi Thị Thu T1 số tiền 12.500.000.000đ
và lãi phát sinh. Ngoài ra, bà H còn phải nộp 135.150.000đ tiền án phí. Theo kết
quả xác minh điều kiện thi hành án của Nguyễn Thị Lệ H tại Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai thành phố Đ ngày 16/11/2022, được biết Nguyễn Thị
Lệ H nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có diện tích 4.875m
2
đất thuộc thửa
80, tờ bản đồ số 9 địa chỉ tại Phường G, thành phố Đ đất LN, thời hạn sử dụng đất
đến năm 2043 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 638053 do Ủy ban
nhân dân thành phố Đ cấp ngày 03/03/1999 đứng tên hông Trần Đ1, chuyển
nhượng cho ông Phan Tấn L, Nguyễn Thị Lệ T2. Đến ngày 16/8/2022,
Nguyễn Thị Lệ H chuyển nhượng cho Nguyễn Thị Thùy D, ông Trương Quang
T. Tại thời điểm giao dịch chuyển nhượng thì bản án của Toà án đã hiệu lực
pháp luật, bà H đã hoàn thành việc chuyển nhượng nhưng không ng khoản tiền
từ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thi hành án. Do đó, căn cứ khoản 2
Điều 75 luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014); Điểm a
khoản 1 Điều 24 Nghị định 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ sửa
đổi, bsung một số điều của Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn luật Thi hành án dân sự. Đề nghị Toà
án tuyên bố giao dịch dân sự giữa bà Nguyễn Thị Lệ H với bà Nguyễn Thị Thùy
D và ông Trương Quang T là vô hiệu.
- Theo văn bản trình bày ý kiến của bà Nguyễn Thị Lệ D1 là người đại diện
theo pháp luật của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phòng công chứng số
A tỉnh Lâm Đồng thì: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng
814 quyển số 04/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 28/4/2022 (sau đây gọi tắt hợp đồng
814) của Phòng công chứng số 01 tỉnh Lâm Đồng giữa bà Nguyễn Thị Lệ H với
ông Trương Quang T và bà Nguyễn Thị Thùy D nêu trên là đúng trình tự, thủ tục
theo quy định của pháp luật. Bên chuyển nhượng Nguyễn Thị Lệ H yêu cầu
công chứng đối với giao dịch này và việc giao kết hợp đồng này là hoàn toàn tự
nguyện, không bị lừa dối, không bị ép buộc, đề nghị Toà án xem xét theo quy định
của pháp luật.
7
- Theo bản tự khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hà Công
Đ, Vi Thị Thu T1 thì: Nguyễn Th Lệ H nợ ông, số tiền
12.500.000.000đ đã được giải quyết tại Bản án số 46/2020/DS-ST ngày 03/8/2020
của Tán nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; Bản án số 140/2020/DS-
PT ngày 30/9/2020 của Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng. Ông, bà đã làm đơn yêu
cầu thi hành án theo quy định. Theo quyết định số 19A/QĐ-CCTHADS ngày
30/10/2020 của Chi cục Trưởng Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt; Căn cứ
quyết định thi hành án theo yêu cầu số 87/QĐ-CCTHADS ngày 22/4/2021 của
Chi cục Trưởng Thi hành án dân sự thành phố Đ, ông bà yêu cầu Toà án tuyên bố
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 814 quyển số 04/TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 28/4/2022 đối với diện tích đất 4.875m
2
thửa 80 tờ bản đồ số
9, tại Phường G, thành phố Đ giữa người chuyển nhượng Nguyễn Thị Lệ H
với bên nhận chuyển nhượng ông Trương Quang T, Nguyễn Thị Thùy D
hiệu.
Về chứng thư thẩm định giá: Theo chứng thư thẩm định giá ngày 17/5/2024
của Công ty cổ phần T4. Giá trị tài sản tranh chấp 5.862.100.000đ. Đồng thời
thống nhất theo hoạ đồ đo đạc hiện trạng tài sản ngày 06/12/2022 của Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
- Theo bản tự khai của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thị
N thì: Nguyễn Thị Lệ H nợ số tiền 2.150.000.000đ đã được giải quyết
tại bản án số 32/2020/DS-ST ngày 14/9/2019 của Toà án nhân dân thành phố Đà
Lạt, tỉnh Lâm Đồng. đã làm đơn yêu cầu thi hành án đã quyết định thi
hành án theo yêu cầu của Chi cục thi hành án dân sthành phố Đà Lạt, buộc
H phải trả cho bà số tiền 2.160.000.000đ. Bà thống nhất với yêu cầu của bà H
Chi cục thi hành án dân sthành phố Đà Lạt về việc yêu cầu Toà án tuyên hiệu
đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 814 quyển số 04/TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 28/4/2022 đối với diện tích đất 4.875m
2
thửa 80 tờ bản đồ tại
phường G, thành phố Đ giữa người chuyển nhượng bà Nguyễn Thị Lệ H với bên
nhận chuyển nhượng ông Trương Quang T, bà Nguyễn Thị Thùy D.
Về chứng thư thẩm định giá: Theo chứng thư thẩm định giá ngày 17/5/2024
của Công ty cổ phần T4. Giá trị tài sản tranh chấp 5.862.100.00là thấp so với
giá thị trường. Tuy nhiên, cũng không ý kiến gì, không đề nghị thẩm định
giá lại. Đồng thời, thống nhất theo hoạ đồ đo đạc hiện trạng tài sản ngày
06/12/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Đ, tỉnh Lâm
Đồng.
- Theo bản tự khai của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn
Thị Thanh H1 thì: Ngày 28/4/2022, ông Trương Quang T là chồng ca bà có nhờ
8
chuyển tiền cho Nguyễn Thị Lệ H vào số tài khoản 234939017 tại Ngân
hàng V1. Bà chuyển cho bà H ba lần với tổng số tiền là 3.000.000.000đ. Toàn bộ
số tiền này tiền của ông T, D, không liên quan nên không tranh chấp
gì.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án dân sthẩm số 60/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt đã xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị Lệ H về việc
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đấtvới ông Trương Quang
T, Nguyễn Thị Thùy D. Chấp nhận yêu cầu độc lập của Chi cục thi hành án
dân sự thành phố Đà Lạt.
Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích đất 4.875m
2
,
thuộc thửa 80 tờ bản đồ số 9 tại Phường G, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng giữa bên
chuyển nhượng bà Nguyễn Thị Lệ H và bên nhận chuyển nhượng bà Nguyễn Thị
Thùy D, ông Trương Quang T được Phòng công chứng số A tỉnh Lâm Đồng công
chứng số 814, quyển số 04/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 28/04/2022 vô hiệu do
giả tạo .
Buộc ông Trương Quang T Nguyễn Thị Thùy D trả lại cho bà Nguyễn
Thị Lệ H một giấy chứng nhận quyền sdụng đất số N638053 do Ủy ban nhân
dân thành phố Đ cấp ngày 03/3/1999 đối với diện tích đất 4.875m
2
thuộc thửa 80
tờ bản đồ số 9 toạ lạc tại Phường G, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Trương Quang T, bà Nguyễn
Thị Thùy D.
Buộc Nguyễn Thị LH phải trách nhiệm trả cho ông Trương Quang
T, bà Nguyễn Thị Thùy D số tiền 6.000.000.000đ, tiền lãi 1.210.000.000đ. Tổng
cộng là 7.210.000.000đ.
Không chấp nhận yêu phản tố của ông Trương Quang T, Nguyễn Thị
Thùy D về việc buộc bà Nguyễn Thị Lệ H phải trả số tiền 5.000.000.000đ.
Không chấp nhận yêu phản tố của ông Trương Quang T, Nguyễn Thị
Thùy D về việc buộc bà Nguyễn Thị Lệ H tiếp tục thực hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất diện tích đất 4.875m
2
, thuộc thửa 80 tờ bản đồ số 9 tại
Phường G, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng được Phòng công chứng số A tỉnh Lâm
Đồng công chứng số 814, quyển số 04/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày
28/04/2022.
9
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo trách nhiệm thi
hành án của các bên đương sự.
Ngày 08/10/2024, ông Trương Quang T, bà Nguyễn Thị Thùy D kháng cáo
không đồng ý với bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa hôm nay: Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đồng ý trả
lãi cho bị đơn lãi suất của số tiền 6.000.000.000đ H vay của ông T, D
với mức lãi suất 20%/năm, thời gian tính lãi từ ngày 12/6/2022 đến ngày
13/3/2025 (ngày xét xử phúc thẩm).
Ông T rút kháng cáo đối với yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa bà H với ông, bà D; về tiền lãi, ông T đồng ý với ý kiến
của phía nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà T1, bà N thống nhất với trình bày
của nguyên đơn, bị đơn ngoài ra không có ý kiến gì.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân theo
pháp luật trong qtrình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử các
đương sự tại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp hành đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Đnghị Hội đồng xét xử đình
chỉ xét xử phúc thẩm đối với một phần kháng cáo của ông T; chấp nhận một phần
kháng cáo của ông T, bà D. Sửa bản án sơ thẩm, ghi nhận sự tự nguyện của phía
nguyên đơn về mức lãi suất 20%/năm thời gian tính lãi của số tiền nợ gốc
nguyên đơn vay của bị đơn 6.000.000.000đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan htranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp thẩm xác định
theo đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của ông Trương Quang T,
Nguyễn Thị Thùy D; người kháng cáo, thủ tục kháng cáo được thực hiện đúng
theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 Bộ luật Tố tụng dân snên đủ điều kiện
để Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của ông Trương Quang T, Nguyễn Thị Thùy D thì thấy
rằng:
Đối với kháng cáo của ông T: Tại phiên tòa hôm nay, ông T rút một phần
kháng cáo đối với yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 28/4/2022 giữa H với ông và D. Xét thấy, việc rút một phần kháng
cáo của ông T là hoàn toàn tự nguyện, đúng pháp luật. Do đó, đình chỉ xét xử
phúc thẩm đối với phần rút kháng cáo của ông T.
10
Xét kháng cáo của D thì thấy rằng: Theo hồ sơ thể hiện, nguồn gốc lô đất
diện tích đất 4.875m
2
thuộc thửa 80, tờ bản đồ số 09, toạ lạc tại Phường G, thành
phố Đ, tỉnh Lâm Đồng do Nguyễn Thị Lệ H nhận chuyển nhượng lại tông
Phan Tấn L, bà Nguyễn Thị Lệ T2 o năm 2022. Do thiếu tiền nên bà H vay của
ông T, D 6.000.000.000đ, vay của Nguyễn Thị Bạch T3 3.000.000.000đ
mua đất nói trên. Để làm tin, ngày 28/4/2022, H ông T, D lập giấy thỏa
thuận viết tay, có Nguyễn Thị V làm chứng. Các bên cam kết trong thời gian
03 tháng kể từ ngày giấy thỏa thuận, bà H thanh toán stiền 6.720.000.000đ
cho ông T, bà D để lấy lại thửa đất trên. Cùng ngày 28/4/2022 bà H và ông T, bà
D lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Phòng công chứng số A
tỉnh Lâm Đồng công chứng số 814, quyển số 04/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày
28/4/2022 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 6380563 do UBND
thành phố Đ cấp ngày 03/3/1999 giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng
5.000.000.000đ. Hết thời gian 03 tháng, H không có khả năng trả nợ nên ông
T, D đã tiến hành các thủ tục và đăng biến động sang tên cho ông T, bà D
ngày 16/8/2022
Xét thấy, ngày 28/4/2022 giữa bà H và ông T, bà D có ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nhưng thực tế không việc giao nhận tiền, giao nhận
đất. Tại phiên toà thẩm, các bên đều thừa nhận việc ký hợp đồng chuyển
nhượng đất để đảm bảo cho khoản vay 6.000.000.000đ của H. Đồng thời,
theo biên bản thoả thuận ngày 28/4/2022, nội dung thoả thuận gchuyển nhượng
6.720.000.000đ, sau 03 tháng H không trả lại 6.720.000.000đ thì ông T sẽ
sang tên giấy chứng theo hợp đồng chuyển nhượng. Trong đó các bên thoả thuận,
ngày 28/6/2022 ngày 28/7/2022 trả mỗi tháng 360.000.000đ, cộng số tiền
6.000.000.000đ nhận ngày 28/4/2022, có chữ ký của ông T, bà D; bà H ký với tư
cách là người vay, bà Nguyễn Thị V với cách là người làm chứng (BL 214).
Tại thời điểm các bên ký hợp đồng chuyển nhượng thì H đang phải thi hành án
theo Bản án số 32/2020/DS-ST ngày 14/9/2020 của Toà án nhân dân thành phố
Đà Lạt buộc H phải trả cho bà Trần Thị N số tiền 2.160.000.000đ; Bản án số
46/2020/DS-ST ngày 03/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng; Bản án
số 140/2020/DS-PT ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, buộc
H phải trả cho ông Hà Công Đ, bà Vi Thị Thu T1 số tiền 12.500.000.000đ. Ngày
30/10/2020, Chi cc thi hành án dân sthành phố Đà Lạt đã ban hành Quyết định
Thi hành án số 19A/QĐ-CCTHADS ngày 30/10/2020 và Quyết định Thi hành án
số 87/QĐ-CCTHADS ngày 22/4/2021. Ngoài ra, bà H còn phải thi hành khoản án
phí theo các Quyết định thi hành án chủ động số tiền 59.950.000đ. Do đó, Tòa án
cấp thẩm xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa H
ông T, D hợp đồng giả cách đnhằm che dấu một giao dịch khác trốn
11
tránh nghĩa vụ với người thứ ba nên giao dịch dân sự đã hiệu ngay tại thời điểm
giao kết là có căn cứ. Căn cứ Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015 khi giao dịch dân
sự vô hiệu thì các bên giao trả cho nhau những gì đã nhận.
Bị đơn yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nếu Toà án tuyên
hợp đồng vô hiệu thì yêu cầu bà H phải trả lại cho bị đơn số tiền 6.000.000.000đ
và bồi thường trượt giá số tiền 5.000.000.000đ. Như đã phân tích trên, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 28/4/2022 giữa H ông T, D.
Nguyên đơn, bị đơn đều thừa nhận việc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất chỉ hình thức để đảm bảo cho khoản vay 6.000.000.000đ của H,
thực tế các bên cũng chưa giao nhận đất. Vi bằng ghi nhận việc cắm mốc và ranh
giới thửa đất tranh chấp là từ một phía, không có sự thống nhất của bà H. Do đó,
giao dịch bị che giấu là giao dịch vay tài sản nên cấp sơ thẩm giải quyết buộc bà
H phải trách nhiệm trả cho ông T, D số tiền 6.000.000.000đ, tiền lãi
1.210.000.000đ, tổng cộng 7.210.000.000đ là có căn cứ nên kháng cáo của D
yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa H với bà,
ông T là không có căn cứ chấp nhận.
Tại phiên hôm tòa nay, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đồng ý thanh
toán cho bị đơn tiền lãi với mức lãi suất 20%/năm, thời gian tính lãi từ ngày
12/6/2022 đến ngày 13/3/2025. Xét thấy, nguyên đơn hoàn toàn tự nguyện, mức
lãi suất phù hợp với quy định của pháp luật nên ghi nhận stnguyện của nguyên
đơn.
Tiền i: {(6.000.000.000 x 20%/năm x 33 tháng (làm tròn)}
{140.000.000đ (tiền lãi nguyên đơn đã trả)} = 3.159.999.999đ.
Tổng cộng cả gốc lãi nguyên đơn phải trả cho bị đơn số tiền
6.000.000.000đ + 3.159.999.999đ = 9.159.999.999đ (Chín tỷ một trăm năm chín
triệu chín trăm chín chín ngàn chín trăm chín chín đồng).
Từ những phân tích trên, chấp nhận một phần kháng cáo của ông T, D,
ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn, sửa bản án sơ thẩm về tiền lãi.
[3] Về chi phí tố tụng: Do yêu cu khi kin ca bà H đưc chp nhn nên
ông T, bà D phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và thẩm định giá số tiền
36.400.000đ (ông T, bà D đã ứng chi và quyết toán xong).
[4] Về án phí: Buộc bà Nguyễn Thị Lệ H phải chịu án phí dân sự thẩm
đối với số tiền phải thanh toán cho ông T, bà D. Cụ thể 112.000.000đ +
(5.159.999.999đ x 0,1%) = 117.159.999đ.
Buộc ông Trương Quang T, Nguyễn Thị Thùy D mỗi người phải chịu
300.000đ án pdân sự sơ thẩm đối với yêu cầu công nhận hợp đồng không được
12
chấp nhận yêu cầu H thanh toán lại số tiền 5.000.000.000đ trượt giá đất
không được chấp nhận 112.000.000đ + (1.000.000.000đ x 0,1%). Tổng cộng
ông T, bà D phải chịu 113.600.000đ án phí dân sự thẩm. Ông T, bà D không
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với một phần kháng cáo của ông Trương
Quang T về yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
H với ông T, D ngày 28/4/2022. Chấp nhận một phần kháng cáo của ông
Trương Quang T, bà Nguyễn Thị Thùy D, sửa bản án sơ thẩm.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị Lệ H về việc
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đấtvới ông Trương Quang
T, Nguyễn Thị Thùy D. Chấp nhận yêu cầu độc lập của Chi cục thi hành án
dân sự thành phố Đà Lạt.
2.1. Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích đất
4.875m
2
, thuộc thửa 80 tờ bản đồ số 9 tại phường G, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng
giữa bên chuyển nhượng Nguyễn Thị Lệ H bên nhận chuyển nhượng
Nguyễn Thị Thùy D, ông Trương Quang T được Phòng công chứng số A tỉnh
Lâm Đồng công chứng số 814, quyển số 04/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày
28/04/2022 vô hiệu do giả tạo .
2.2. Buộc ông Trương Quang T Nguyễn Thị Thùy D trả lại cho bà
Nguyễn Thị Lệ H 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N638053 do Ủy ban
nhân dân thành phố Đ cấp ngày 03/3/1999 đối với diện tích đất 4.875m
2
thuộc
thửa 80 tờ bản đồ số 9 toạ lạc tại Phường G, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Đ căn cứ vào Bản án, của
Tòa án để giải quyết, điều chỉnh lại đăng biến động, sang tên từ ông T, D
cho bà H theo quy định.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Trương Quang T, Nguyễn
Thị Thùy D.
13
Ghi nhận sự tự nguyện của Nguyễn Thị Lệ H về thanh toán cho bị đơn
tiền lãi với mức lãi suất 20%/năm, thời gian tính lãi từ ngày 12/6/2022 đến ngày
13/3/2025.
Buộc Nguyễn Thị LH phải trách nhiệm trả cho ông Trương Quang
T, Nguyễn Thị Thùy D số tiền nợ gốc 6.000.000.000đ và tiền lãi
3.159.999.999đ. Tổng cộng 9.159.999.999đ (Chín tỷ một trăm năm chín triệu
chín trăm chín chín ngàn chín trăm chín chín đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án ối với
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành
án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm
2015.
4. Không chấp nhận yêu phản tố của ông Trương Quang T, Nguyễn Thị
Thùy D về việc buộc Nguyễn Thị Lệ H phải thanh toán trượt giá đất số tiền
5.000.000.00(Năm tỷ đồng).
5. Không chấp nhận yêu phản tố của ông Trương Quang T, Nguyễn Thị
Thùy D về việc buộc bà Nguyễn Thị Lệ H tiếp tục thực hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất diện tích đất 4.875m
2
, thuộc thửa 80 tờ bản đồ số 9 tại
Phường G, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng được Phòng công chứng số A tỉnh Lâm
Đồng công chứng số 814, quyển số 04/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày
28/04/2022.
6. Về án phí:
Buộc Nguyễn Thị Lệ H phải chịu 117.159.999đ án pdân sự thẩm
nhưng được trừ vào số tiền 600.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số
0008171 ngày 10/10/2022 của Chi cc Thi hành án dân sự huyện Đức Trọng, tỉnh
Lâm Đồng. Bà H còn phải nộp 116.559.999đ.
Buc ông Trương Quang T, bà Nguyn Th Thùy D phi chịu 113.600.000đ
án phí dân s thẩm nhưng được tr vào s tiền 59.500.000đ tạm ứng án phí đã
np theo Biên lai thu s 0000076 ngày 20/11/2023; s tiền 300.000đ theo Biên lai
thu s 0001236 và 300.000đ theo Biên lai thu số 0001237 cùng ngày 11/10/2024
ca Chi cc Thi hành án dân s thành ph Đà Lạt. Ông T, D còn phi np
53.500.000đ án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi
14
hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng TTr,KT&TTKT (01);
- TAND thành phố Đà Lạt (01);
- Chi cục THADS thành phố Đà Lạt
(01);
- Đương sự (08);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thị Nguyệt
Tải về
Bản án số 43/2025/DS-PT Bản án số 43/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 43/2025/DS-PT Bản án số 43/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất