Bản án số 357/2024/DS-PT ngày 24/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 357/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 357/2024/DS-PT ngày 24/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 357/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông Trần Văn C yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn Đ (T) và bà Hà Thị Bích V vô hiệu đối với lô đất có diện tích 1.143,8m2, thửa đất số 230, tờ bản đồ 35 (cũ số 02), địa chỉ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 357/2024/DS-PT
Ngày 24 - 12 - 2024
V/v “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị My My.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Ngọc Sâm.
Bà Đinh Thị Tuyết.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Mai Loan, Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa:
Ông Ngụ Văn Minh - Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 12 năm 2024, tại trụ sTán nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 235/2024/TLPT-DS ngày
07/10/2024 về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự thẩm số: 19/2024/DS-ST ngày 28/6/2024 của Tòa án nhân
dân thị xã Buôn Hồ bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 324/2024/QĐ-PT ngày
06/11/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Trần Văn C Sinh năm: 1960 (Có mặt).
Địa chỉ: Tổ dân phố E, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện ủy quyền của nguyên đơn: Ông Hoàng Minh C1 Sinh
năm: 1962 (Có mặt).
Địa chỉ: Tổ dân phố C, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.
2. Bị đơn:Hà Thị Bích V Sinh năm: 1979 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Số D T, tổ dân phố D, phường Đ, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện ủy quyền của bị đơn: Ông Tô Tiến D - Sinh năm: 1975 (Có
mặt).
Địa chỉ: Số E, đường M, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Trần Văn Đ (T) Sinh năm 1927 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Số F, đường H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
2
- Ông Trần Việt H Sinh năm: 1976 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Số A, đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện ủy quyền của ông Trần Đ và ông Trần Việt H:
Ông Nguyễn Đức D1 Sinh năm: 1992 (Có mặt).
Trịnh Thị L Sinh năm: 1992 (Vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Số A, đường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
- Bà Nguyễn Thị H1 Sinh năm: 1949 (Vắng mặt).
- Bà Nguyễn Thị H2 Sinh năm: 1952 (Vắng mặt).
- Bà Trần Thị T Sinh năm: 1952 (Vắng mặt).
- Ông Trần Văn T1 Sinh năm: 1960 (Vắng mặt).
- Ông Trần Văn P Sinh năm: 1966 (Vắng mặt).
- Bà Trần Thị H3 Sinh năm: 1968 (Vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Phường Đ, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền của H1, H2, T, ông T1, ông P,
H3: Ông Hoàng Minh C1 Sinh năm: 1962 (Có mặt).
Địa chỉ: Tổ dân phố C, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.
4. Người kháng cáo: Bị đơn Thị Bích V; người đại diện ủy quyền
của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Đ ông Nguyễn Đức D1
và bà Trịnh Thị L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện quá trình giải quyết, nguyên đơn ông Trần Văn
C có đại diện ủy quyền là ông Hoàng Minh C1 trình bày:
Năm 1963 cha mẹ ông Trần Văn Công Trần H4 và bà Phan Thị S (Đều
đã chết) khai hoang đất rẫy để trồng trọt rộng khoảng 04 mẫu. Diện tích đất
trên đã được chế độ công nhận vào ngày 29/11/1965. Sau ngày giải phóng,
cha mẹ ông C hiến một phần đất cho đoàn 352, còn lại khoảng 6.000m
2
.
Cha mẹ và gia đình ông C canh tác ổn định từ thời điểm đó cho đến nay.
Năm 1991 mẹ ông C tuổi cao sức yếu đã bàn giao lại thửa đất rẫy trên cho
các anh em ông C tiếp tục canh tác. Năm 1995 mẹ ông C được Ủy ban nhân dân
huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất liền kề thuộc
thửa đất số 190, tờ bản đồ số 2, diện tích 2.960m
2
. Do điều kiện kinh tế gia đình
ông C thời điểm đó còn nhiều khó khăn chưa đủ điều kiện làm thủ tục xin cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 216, 230 còn lại. Năm 2009 m
ông C lập Hợp đồng tặng cho thửa đất s190, tờ bản đồ số 2, diện tích 2.960m
2
đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất nói trên cho em trai ông C
Trần Văn P. Hai thửa còn lại thửa 216, 230 anh chị em ông C giao cho ông P
tiếp tục canh tác, quản sử dụng (vì các anh chị em đi làm ăn xa). Từ khi cha
mẹ ông C sử dụng sau khi bàn giao cho các anh em tgia đình ông C vẫn
3
hoàn thành nghĩa vụ thuế hàng năm. Đến năm 2020 gia đình làm hcấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì mới phát hiện thửa đất số 230, tờ bản đồ số
02, diện tích 1.143,8m
2
tại phường Đ, thị xã B của gia đình ông C đã bị ông Trần
Văn Đ (T) chuyển nhượng cho bà Hà Thị Bích V.
Việc chuyển nhượng giữa ông Trần Văn Đ (Trần Đ) V từ thời điểm
nào gia đình ông C không biết, phần đất này gia đình ông C quản lý, sử dụng
ổn định từ xưa tới nay. Tài sản trên đất gia đình ông C vẫn trồng bắp, thả cá dưới
ao hằng năm, các hộ xung quanh vẫn tưới nước ao nhà ông C vào mùa khô (gồm
có hộ ông: Hoàng Ngọc S1, Châu Thị B, Nguyễn Văn N, Lê Thị T2).
Việc Thị Bích V cho rằng đây phần đất mua từ ông Trần Đ
không căn cứ gia đình ông C các hộ dân xung quanh chưa bao giờ thấy
V tới phần đất này canh tác. Tài sản trên đất do gia đình ông C trồng trọt và
thu hoạch không hề ai cản trở hay phá hoại tài sản trên đất. Cho đến khi gia
đình nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mới biết sự việc
trên. Việc mua bán đất giữa ông Đ với bà V chỉ lập giấy viết tay, không hợp
đồng công chứng theo quy định của pháp luật.
Nay ông Trần Văn C yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần n Đ (T) Thị Bích V
hiệu đối với đất diện tích 1.143,8m
2
, thửa đất số 230, tờ bản đồ 35 (cũ số
02), địa chỉ: Phường Đ, thị B, đất tcận: Phía Đông giáp đường tông;
phía Tây giáp đất ông T3; phía Nam giáp đất gia đình đang canh tác; phía
Bắc giáp đất nhà máy T7. Đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Hiện trạng của thửa đất trên: Đất sình, hàng năm trồng bắp và cây hàng năm,
không trồng được cây lâu năm.
Bị đơn Thị Bích V người đại diện theo ủy quyền ông
Tiến D trình bày:
Ngày 03/3/2006, V nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Trần
Văn Đ (Trần Đ), sinh năm 1927 Nguyễn Thị H5 sinh năm 1929 đất thổ
căn nhà cấp 4, với giá 1.550.000.000 đồng (Một t năm trăm năm mươi triệu
đồng). V đã trả đủ tiền gia đình ông Đ đã bàn giao đất trên cho V quản
từ đó cho đến nay, không ai tranh chấp. Trong đó phần diện tích phía trước
mặt Quốc lộ A đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; còn phần diện
tích phía sau chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích khoảng
2000m
2
nguồn gốc mua của ông Biện X. đất tứ cận: Phía Đông giáp
đường đi 2; phía Tây giáp đất ông Đ bán cho V đã bìa đỏ; phía Nam
giáp bà Nguyễn Thị H1; phía Bắc giáp đất bà C2.
Phần đất phía sau khoảng 2000m
2
trên nguồn gốc ông Trần n Đ
(Trần Đ) mua lại của ông Biện X, Nguyễn Thị L1 vào năm 1976 đã được
Ban nhân dân cách mạng thôn 1 xác nhận vào ngày 02/3/1976 được Ủy ban
4
nhân dân cách mạng Đ xác nhận ngày 05/3/1976. Như vậy, việc V mua
đất trên hoàn toàn giấy thợp pháp của các chủ trước đó đã được chính
quyền địa phương chứng nhận. Do đó yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn C
không có căn cứ để chấp nhận với các lý do:
Thứ nhất: đất trên không phải của gia đình ông C. Ông C cho rằng bố
ông được chế độ cấp cho 04 ha và diện tích tranh chấp thuộc 04 ha này
hoàn toàn không căn cứ ông không bất kỳ giấy tờ hợp pháp nào chứng
minh diện tích đất này là của ông, hơn nữa các cơ quan đất đai, các cơ quản lý, tổ
chức của nhà nước ta không ai thừa nhận đất này của ông cả.
Thứ hai: Ông C cho rằng những người làm chứng thừa nhận đất trên do
gia đình ông quản lý sử dụng, vậy họ căn cứ vào đâu, họ có mặt từ khi nào và họ
biết các quan nhà nước có thẩm quyền nhà nước ta không ai thừa nhận đất
này của gia đình ông C hay không. Việc họ cho rằng gia đình ông C canh
tác trộm trên đất của V là việc của họ tự đồng loã thừa nhận nhằm chiếm đất
của bà V.
Thứ ba: Ông C cho rằng diện tích đất trên gia đình ông đóng thuế cho Nhà
nước. Vậy đóng từ khi nào, đóng bao nhiêu, đóng loại thuế cho thửa nào,
diện tích bao nhiêu.
Từ nội dung trên, bà V có yêu cầu Toà án nhân thị xã Buôn Hồ giải quyết:
+ Yêu cầu Toà án bác tất cả yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bởi lẽ đất
trên không phải của ông C ông không bất cứ chứng cứ hay căn cứ nào
chứng minh đó là đất của ông.
+ Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản trên
đất xác lập ngày 03/3/2006 giữa bà Hà Thị Bích V với vợ chồng ông Trần Văn Đ
(Trần Đ), sinh năm 1927 Nguyễn Thị H5 sinh năm 1929, đối với diện tích
khoảng 2000m
2
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất, địa chỉ tại
phường Đ, thị B, tỉnh Đắk Lắk; đất tứ cận: Phía Đông giáp đường đi 2
(nay tông); phía y giáp phần đất ông Đ bán cho V đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; phía Nam giáp đất Nguyễn Thị H1; phía Bắc
giáp đất C2. V đã trả đủ tiền mua đất, gia đình ông Đ đã bàn giao đất trên
cho V quản từ đó cho đến nay không ai tranh chấp và đất này đã được Ban
nhân dân cách mạng thôn 1 xác nhận vào ngày 02/8/1976 Uỷ ban nhân dân
cảnh mạng xã Đoàn kết xác nhận ngày 05/3/1976.
Người quyền nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn Đ (T) đại diện
theo ủy quyền là ông Nguyễn Đức D1 trình bày:
Ông Trần Văn Đ (T) chủ sở hữu hợp pháp đối với quyền sử dụng đất có
diện tích khoảng 2000m
2
, tọa lạc tại phường Đ, thị B, tỉnh Đắk Lắk. Vị trí tứ
cận: Phía Đông giáp đường đi 2, phía Tây giáp đất ông Đ, phía Nam giáp đất
Nguyễn Thị H1, phía Bắc giáp đất bà C2, bà H6.
5
Nguồn gốc đất: Năm 1976 ông Đ nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông
Biện X, Nguyễn Thị L1 được B1 nhân dân thôn 1 cùng y ban nhân dân
Đ chứng thực việc mua bán vào ngày 02/3/1976 theo quy định. Sau khi nhận
chuyển nhượng phần đất trên, gia đình ông Đ sử dụng liên tục ổn định, không
tranh chấp với ai. Phía trước là nhà, đất ông Đ đang sử dụng phần đất khoảng
2000m
2
mua thêm của ông Biện X, phía sau canh tác nông nghiệp thuộc toàn bộ
khuôn viên đất của ông Đ được nối dài từ phía Tây là giáp mặt đường quốc lộ 14
ra đến phía đông là giáp với đường lô 2, tổng diện tích khoảng 4.500m
2
.
Năm 2006 do không nhu cầu sử dụng nên ông Đ đã chuyển nhượng
toàn bộ diện tích đất trên cho Thị ch V vào ngày 03/3/2006 (bao gồm
phần diện tích nhà, đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phần đất
phía sau khoảng 2000m
2
do nhận chuyển nhượng của ông Biện X vào năm 1976)
với số tiền 1.550.000.000 đồng, việc mua bán đã thực hiện xong vào năm
2006. Theo đó, V đã thanh toán đầy đủ số tiền chuyển nhượng cho ông Đ
ông Đ đã bàn giao nhà, đất ngoài thực địa cho V quản lý, sử dụng ổn định từ
năm 2006 đến nay, bao gồm cả phần diện tích đất khoảng 2000m
2
phía sau tiếp
giáp mặt đường lô 2.
Ông C cho rằng quyền sử dụng đất trên là của mẹ ông Phan Thị S để
lại nhưng không cung cấp được chứng cứ hợp pháp nào để chứng minh nguồn
gốc quyền sử dụng đất chỉ dựa vào giấy tờ bản photo của chế độ lời
làm chứng của những người xung quanh không khách quan không chính
xác. Bởi pháp luật hiện hành không công nhận các giấy tờ về quyền sử dụng đất
của chế độ cũ, đồng thời lời khai của người làm chứng không căn cứ
không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thể hiện trong hồ sơ vụ án.
Nay ông Trần n C yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần n Đ (T) Thị Bích V
hiệu đối với đất diện tích 1.143,8m
2
, tại thửa đất số 230 tờ bản đồ 35 (cũ 02),
địa chỉ phường Đ, thị B, đất tứ cận: Đông giáp đường tông; Tây giáp
đất T3; Nam giáp đất gia đình đang canh tác Bắc giáp đất nhà máy T7,
không đúng pháp luật và ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của ông Đ, bà V.
Nay ông Đ yêu cầu Tòa án giải quyết ng nhận hiệu lực của hp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 03/3/2006 được viết dưới hình thức
“Giấy sang nhượng đất thổ nhà ở” giữa bên chuyển nhượng ông Trần
Văn Đ (T), bà Nguyễn Thị H5 với bên nhận chuyển nhượng là bà Hà Thị Bích V
đối với diện tích đất khoảng 2000m
2
, tọa lạc tại phường Đ, thị xã B, Đắk Lắk. Vị
trí tcận: Phía Đông giáp đường đi 2, phía Tây giáp đất ông Đ (Nay nhà
hàng T8), phía Nam giáp đất Nguyễn Thị H1 (là con đầu của ông H4, bà S),
phía Bắc giáp đất bà C2, bà H6 (Nay là nhà máy T7).
6
Người quyền nghĩa vụ liên quan ông Trần Việt H người đại
diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Đức D1 trình bày:
Ông Trần Việt H là con trai ruột của ông Trần Văn Đ và Nguyễn Thị
H5 (đã chết). Ông H đồng ý với nội dung yêu cầu độc lập của ông Đ và không có
yêu cầu gì khác.
Những người làm chứng ông Mai Ngọc H7, Huỳnh Thị T4, Nguyễn
Đình D2, Nguyễn Đình N1, Hoàng Thị H8, Nguyễn Thị N2, Huỳnh Thị T4,
Thị T2 trình bày: Chúng tôi được biết gia đình ông Trần H9 và Phạm Thị S2
(hiện tại đã chết) 01 thửa đất tại Tổ dân phố C, phường Đ, thị B, tỉnh Đắk
Lắk, người dân đây gọi sình H9, tứ cận như sau: Phía Đông giáp
đường tông thôn m hiện nay (con đường mới làm sau này); Phía Tây giáp
đất ông Đ, N3; Phía Nam giáp đất Nguyễn Thị N2; Phía Bắc giáp đất
Châu Thị B. Trên đất có một cái giếng, một hồ nước và hoa màu do gia đình ông
H9, bà S2 tạo lập từ lâu. Người dân ở đây thường sử dụng nước từ hồ của ông
H9 để trồng cây công nghiệp. Sau khi ông H9, S2 qua đời chúng tôi thấy vợ
chồng ông Trần P Huỳnh Thị T5 con trai ruột và con dâu ông H9, S2
hiện đang trú tại Tổ dân phố C, phường Đ, thị B canh tác trên thửa đất đó,
ngoài ra không có ai khác canh tác trên thửa đất đó. Chúng tôi được biết thửa đất
trên do ông H9, S2 tạo lập nên, sau đó con ruột con dâu của ông H9,
S2 là ông P, bà T5 quản lý sử dụng đến nay.
Người làm chứng ông Hoàng Ngọc S1 trình bày: Tôi vào Đắk Lắk làm
ăn kinh tế tnăm 1967 tại phường Đ. Từ đó đến nay tôi được nghe người dân
bản địa gốc gọi địa danh đối với thửa đất gọi là Sình bà U, mà hiện nay con bà U
ông Trần n C đang sử dụng. Hàng năm dân chúng tôi đã sử dụng nguồn
nước tưới cà phê hoa màu từ ao hồ của ông Trần Văn C.
Người làm chứng ông Nguyễn Văn H10 trình bày: Tôi người địa
phương gần đó xác nhận năm 1958 di dân về Đạt H11, đến năm 1965 gia đình
ông Trần H4 và S2 đào hồ canh tác để nước tưới phê. Trong thời gian
canh tác tôi không biết diện tích bao nhiêu, nhưng biết chắc chắn đất đó
do ông H4, S2 khai hoang năm 1965. Năm 1993 hợp tác xã làm bìa đỏ cho
xã, nhưng riêng cái sình đó hợp tác xã không làm bìa. Sau một thời gian 2 ông bà
qua đời giao cái sình cho con ủy quyền cho Trần Văn C sử dụng, quản lý. Từ
trước đến nay các hộ dân Đ đã đặt tên cho cái sình đó sình H4. Tôi xác
nhận đất đang tranh chấp giữa ông C với V nguồn gốc nguyên thủy của
ông H4 và bà S2.
Người làm chứng Châu Thị B trình bày: Tôi người gốc tại đây
(Đ) từ năm 1960. Tôi được biết thửa đất này được gọi tên là sình U là mẹ ông
Trần Văn C. Tôi người sát ranh đất của U từ năm đó đến nay. Mảnh đất đó
7
U ông Trần Văn C sử dụng làm hoa màu, tỉa bắp, đậu đào ao hồ lấy
nguồn nước sử dụng tưới cây nông nghiệp, cà phê cho bà con xung quanh.
Người làm chứng ông Nguyễn Văn N4 trình bày: Tôi vào đây từ năm
1989, năm đó cái sình của U ao hồ giếng tưới nước nên chúng tôi đã tưới
thuê cái giếng đó. Còn về sau bán cho ai thì chúng tôi không biết.
Người làm chứng ông Nguyễn Quang T6 trình bày: Trước đây ông T6 là
cán bộ địa chính phường Đ, thị B, Đắk Lắk. Quá trình sinh sống làm việc
tại địa phương thì ông được biết lô đất trên là của ông Trần H9 Phan Thị S
(Bố mẹ của ông Trần Văn C) khai hoang trước năm 1975 người trực tiếp sử
dụng là ông Trần Văn P.
Đối với đơn xin xác nhận của ông Trần Văn C với nội dung đã nộp giấy
xin trưng đất bản gốc cho UBND phường Đ, nay tôi xin trình bày lại do thời gian
lâu quá tôi không nhớ chính xác đối với nội dung này.
Tại Bản án dân sự thẩm số: 19/2024/DS-ST ngày 28/6/2024 của Tòa
án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147, 155, 156, 157, 158, 161, 162, 163, Điều 164, Điều 165, Điều 166
Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 121, 131, 164, 688, 689, 697 Bộ luật dân sự
năm 2005; Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 50, 127, 136 Luật Đất
đai năm 2003; khoản 3 Điều 27 Ngh quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn C:
Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn Đ
(T) Thị Bích V lập ngày 03/3/2006 hiệu đối với đất diện tích
1.143,8m
2
, thửa đất số 230, tờ bản đồ 35 (cũ số 02), địa chỉ: Phường Đ, thị B,
đất tứ cận: Phía Đông giáp đường tông; phía Tây giáp đất T3; phía
Nam giáp đất gia đình ông Trần Văn C đang canh tác; phía Bắc giáp đất nhà máy
T7. Đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Về giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu: Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn Đ (T) Thị Bích V đối với đất
diện tích 1.143,8m
2
, thửa đất số 230, tờ bản đồ 35 (cũ số 02), là do nhầm lẫn, các
bên không giao nhận trên thực tế nên không hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
2. Không chấp nhận yêu cầu của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
ông Trần Văn Đ (T) yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất lập ngày 03/3/2006 giữa bên chuyển nhượng ông Trần Đ,
Nguyễn Thị H5 với bên nhận chuyển nhượng Thị Bích V đối với phần
đất theo đo đạc thực tế có diện tích 1.626,88m
2
.
8
Về giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu: Ông Đ, V không yêu cầu
nên không đặt ra giải quyết.
3. Về chi phí tố tụng:
Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ định giá tài sản 4.000.000 đồng.
Bị đơn bà Thị Bích V ông Trần Đ mỗi người phải chịu 2.000.000 đồng
tiền chi phí xem xét thẩm định và định giá tài sản. Ông Đ được khấu trừ
1.500.000 đồng tạm ứng chi phí đã nộp, ông Đ còn phải nộp 500.000 đồng chi
phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.
Hoàn trả cho ông Trần Văn C 2.500.000 đồng chi phí xem xét thẩm định,
định giá sau khi thu được của bà Hà Thị Bích V và ông Trần Đổng .
4. Về án phí:
Hà Thị Bích V phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Trần Đ được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho ông Trần Văn C 3.750.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp
theo Biên lai thu số AA/2021/0018484 ngày 07/4/2023 tại Chi cục thi hành án
dân sự thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo quyền yêu cầu
thi hành án cho các đương sự theo quy định.
Ngày 10/7/2024, người đại diện y quyền của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ông Trần Đ là ông Nguyễn Đức D1 và bà Trịnh Thị L đơn kháng
cáo bản án dân sự sơ thẩm, nội dung: Đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm
theo hướng chấp nhận đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Trần Đ: Công nhận hiệu lực pháp luật của Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 03/3/2006 giữa bên chuyển nhượng ông Trần Đ,
Nguyễn Thị H5 với bên nhận chuyển nhượng bà Hà Thị Bích V.
Ngày 11/7/2024, bị đơn bà Hà Thị Bích V có đơn kháng cáo bản án dân sự
thẩm với nội dung: Đề nghị cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn C; đề nghị công nhận hiệu lực pháp luật
của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 03/3/2006 giữa bên
chuyển nhượng ông Trần Đ, bà Nguyễn Thị H5 với bên nhận chuyển nhượng bà
Hà Thị Bích V; yêu cầu ông Trần Văn C trả lại đất cho bà Hà Thị Bích V.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn ông Trần Văn C giữ nguyên nội
dung đơn khởi kiện; bị đơn bà Hà Thị Bích V và người đại diện ủy quyền của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Đ là ông Nguyễn Đức D1, bà
Trịnh Thị L giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu:
- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng
các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã tuân thủ đầy đvà
thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
9
- Về nội dung: Qua phân tích đánh giá các chứng cứ, tài liệu được thu thập
trong hồ vụ án, kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề
nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự: Không
chấp nhận kháng cáo của bị đơn Thị Bích V người đại diện ủy quyền
của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Đ là ông Nguyễn Đức D1,
Trịnh Thị L Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 19/2024/DS-ST ngày
28/6/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hvụ án đã
được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bđơn Thị Bích V người đại
diện ủy quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Đ ông
Nguyễn Đức D1, Trịnh Thị L làm trong hạn luật định; V đã nộp tạm ứng
án phí phúc thẩm, ông Đ được miễn nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên được
xem xét, giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng cáo của bị đơn bà Hà Thị Bích V và người đại diện
ủy quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Đ ông Nguyễn
Đức D1, Trịnh Thị L yêu cầu công nhận hiệu lực pháp luật của Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 03/3/2006 giữa bên chuyển nhượng ông
Trần Đ, bà Nguyễn Thị H5 với bên nhận chuyển nhượng bà Hà Thị Bích V; bà V
yêu cầu ông Trần Văn C trả lại đất cho bà V. Hội đồng xét xử, xét thấy:
Về nguồn gốc đất: Tại Biên bản xác minh ngày 08/4/2024, Ủy ban nhân
dân phường Đ xác định 02 thửa đất số 216 và số 230, tờ bản đồ số 35 (Trước đây
thuộc thửa đất số 183, tờ bản đồ số 02) trong sổ mục thể hiện đất của Hợp
tác Đ1. Tại Công văn số 117/CV-TN&MT ngày 29/5/2024 của Phòng Tài
nguyên Môi trường thị B xác định sau khi Hợp tác Đ1 giải thể không
giao phần đất này cho địa phương quản lý, sử dụng và hiện các đất trên không
nằm trong quỹ đất công không nằm trong phương án sử dụng đất của của Ủy
ban nhân dân thị B theo Phương án s04/PA-UBND ngày 14/4/2023 của Ủy
ban nhân dân thị xã B. Mặt khác, tại Giấy xin trưng đất ngày 28/11/1965 của ông
Trần H4 nội dung xin chế độ quận B diện tích 04 mẫu đất tại Đạt H, tuy
hiện tại bản gốc đã thất lạc không còn lưu trữ nhưng Ủy ban nhân dân phường Đ
và các hộ dân tại khu vực xung quanh đất tranh chấp đều xác định nguồn gốc đất
này do bố mẹ của ông C là ông Trần H4, bà Phan Thị S quản lý, sử dụng từ trước
giải phóng đến nay. Từ trước đến nay gia đình ông H4, S hiện nay gia
đình ông C vẫn thực hiện nghĩa vụ đóng thuế đất canh tác trồng hoa màu trên
đất hàng năm.
10
Ông Đ cho rằng ông mua diện tích đất này của ông Biện X, bà Nguyễn Thị
L1 theo giấy sang nhượng đất viết tay ngày 28/02/1976 được Ủy ban nhân
dân Cách mạng Đ xác nhận ngày 05/3/1976 nhưng trong giấy sang nhượng
này không thể hiện diện tích ông Đ nhận chuyển nhượng bao nhiêu, ông Đ
không chỉ được vị trí đất, ranh mốc giới diện tích đất đã mua của ông Biện X, bà
Nguyễn Thị L1 không chứng minh được ông Đ quá trình sử dụng đất trên
thực tế.
Như vậy, căn cứ xác định ông Trần Đ Thị ch V không trực
tiếp quản lý, sử dụng trên thực tế đối với diện tích 1.143,8m
2
, thửa đất số 230, tờ
bản đồ 35 tại phường Đ, thị B, chỉ giao dịch chuyển nhượng quyền sử
dụng đất trên giấy tờ.
Xét Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 03/3/2006 giữa bên
chuyển nhượng ông Trần Đ, bà Nguyễn Thị H5 với bên nhận chuyển nhượng bà
Thị Bích V. Hợp đồng giấy viết tay, không xác nhận của chính quyền
địa phương, không được công chứng, chứng thực theo quy định pháp luật nên vi
phạm về hình thức của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Sau khi
chuyển nhượng, ông Đ không bàn giao đất cho V, người trực tiếp quản lý, sử
dụng đất không phải là V ông Đ mà ông Trần Văn C. Quá trình giải
quyết vụ án, ông Đ V không chỉ được vị trí đất, không xác định được ranh
mốc giới đất mà hai bên đã chuyển nhượng. Theo báo cáo số 59/BC-CNBH ngày
26/6/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thị B thì do V không
xác định được ranh giới đất sdụng theo hiện trạng đối với thửa số 230 nên
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã B không thực hiện được việc đo đạc
theo yêu cầu của V để thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Do đó, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất ngày 03/3/2006 giữa
bên chuyển nhượng ông Trần Đ, bà Nguyễn Thị H5 với bên nhận chuyển
nhượng Thị Bích V vi phạm quy định tại Điều 122, Điều 124, Điều 127
Bộ luật dân sự năm 2005 nên bị hiệu cả về mặt nội dung lẫn hình thức hợp
đồng. Bản án thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông C; Bác yêu
cầu của bị đơn V và người liên quan ông Đ để tuyên hủy Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 03/3/2006 nói trên có có căn cứ, đúng pháp luật.
Khoản 2 Điều 137 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về hậu quả của hợp
đồng hiệu các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng
tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo
quy định của pháp luật. Bên lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”. Trường hợp
này ông Đ không bàn giao đất trên thực tế cho V mà ông C vẫn đang là người
quản lý, sdụng đất, nên V không phải trả đất lại cho ông Đ, ông C tiếp
tục được quyền quản lý, sử dụng đất. V ông Đ không yêu cầu giải quyết
11
hậu qucủa Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hiệu nên Tòa án
cấp thẩm không xem xét giải quyết sở. Do đó, bà V kháng cáo yêu
cầu ông C trả lại diện tích đất tại thửa số 230 nói trên cho V không căn
cứ để chấp nhận.
Từ những phân tích, nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không
sở để chấp nhận kháng cáo của V ông Đ cần giữ nguyên bản án
sơ thẩm là phù hợp.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
Thị Bích Vông Trần Văn Đ phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.
Tuy nhiên, ông Đ sinh năm 1927 người cao tuổi đơn xin miễn tiền án
phí nên được miễn nộp tiền án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại điểm đ
khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Không chấp nhận kháng cáo của bđơn Thị Bích V người đại
diện ủy quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Đ ông
Nguyễn Đức D1, bà Trịnh Thị L.
- Giữ nguyên Bản án dân sthẩm số 19/2024/DS-ST ngày 28/6/2024
của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147, 155, 156, 157, 158, 161, 162, 163, Điều 164, Điều 165, Điều 166
Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 121, 131, 164, 688, 689, 697 Bộ luật dân sự
năm 2005; Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 50, 127, 136 Luật Đất
đai năm 2003; khoản 3 Điều 27 Ngh quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[2.1] Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn
C:
Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn Đ
(T) Thị Bích V lập ngày 03/3/2006 hiệu đối với đất diện tích
1.143,8m
2
, thửa đất số 230, tờ bản đồ 35 (cũ số 02), địa chỉ: Phường Đ, thị B,
tỉnh Đắk Lắk, đất tứ cận: Phía Đông giáp đường tông; phía Tây giáp đất
T3; phía Nam giáp đất gia đình ông Trần Văn C đang canh tác; phía Bắc
giáp đất nhà máy T7. Đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
12
Về giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Ông Trần Văn Đ (Trần Đ)
Hà Thị Bích V không giao nhận tài sản trên thực tế đối với diện tích
1.143,8m
2
, thửa đất số 230, tờ bản đồ 35 (cũ số 02), địa chỉ: Phường Đ, thị B,
nên không hoàn trả cho nhau những đã nhận. Ông Trần Văn C vẫn tiếp tục
quản lý, sử dụng diện tích đất này.
[2.2] Không chấp nhận yêu cầu của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
ông Trần Văn Đ (T) yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất lập ngày 03/3/2006 giữa bên chuyển nhượng là ông Trần Văn Đ (T),
Nguyễn Thị H5 với bên nhận chuyển nhượng Thị ch V đối với
phần đất theo đo đạc thực tế có diện tích 1.626,88m
2
.
Về giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Ông Trần Văn Đ (Trần Đ)
Thị Bích V không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.
[2.3] Về chi phí tố tụng:
Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ định giá tài sản 4.000.000 đồng.
Bị đơn Thị Bích V ông Trần Văn Đ mỗi người phải chịu 2.000.000
đồng tiền chi phí xem xét thẩm định định giá tài sản. Ông Trần Văn Đ được
khấu trừ 1.500.000 đồng tạm ứng chi phí xem xét thẩm định định giá tài sản
đã nộp, ông Đ n phải nộp 500.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và
định giá tài sản.
Hoàn trả cho ông Trần Văn C 2.500.000 đồng chi phí xem xét thẩm định,
định giá sau khi thu được của bà Hà Thị Bích V và ông Trần Văn Đ.
[2.4] Về án phí:
[2.4.1] Án phí dân sự sơ thẩm:
Hà Thị Bích V phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Trần Văn Đ được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho ông Trần Văn C 3.750.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp
theo Biên lai thu số AA/2021/0018484 ngày 07/4/2023 tại Chi cục Thi hành án
dân sự thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
[2.4.2] Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Trần Văn Đ được miễn tiền án phí dân sự phúc thẩm.
Thị Bích V phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sphúc thẩm,
được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo
biên lai thu số AA/2023/0001634 ngày 19/7/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự
thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7,
13
Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND thị xã B;
- Chi cục THADS thị xã B; (Đã ký)
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ. Nguyễn Thị My My
14
Tải về
Bản án số 357/2024/DS-PT Bản án số 357/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 357/2024/DS-PT Bản án số 357/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất