Bản án số 528/2024/DS-PT ngày 30/12/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 528/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 528/2024/DS-PT ngày 30/12/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cà Mau
Số hiệu: 528/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Do đó, bà L yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông N1 và bà T3 với ông T1 và bà P, giữa ông T1 và bà P với ông L1 và bà S là vô hiệu; Buộc ông Nguyễn Văn L1 và bà Ca Thị S di dời nhà trả lại diện tích khoảng 5.508 m2 cho bà L, đất tọa lạc tại ấp V, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 528/2024/DS-PT
Ngày 30 12 2024
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Lập
Các Thẩm phán: Ông Đặng Minh Trung
Ông Ninh Quang Thế
- Thư ký phiên tòa: Bà Hứa Như Nguyện - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên toà: Ông
Bùi Trung Biển Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 12 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 420/2024/TLPT-DS ngày 21 tháng 10
năm 2024 về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sự thẩm số: 158/2024/DS-ST ngày 29 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 325/2024/QĐ-PT ngày04
tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Bà Phạm Chí L, sinh năm 1973 (Có mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp V, xã P, huyện P, tỉnh C.
Người đại diện hợp pháp theo ủy của Phạm Chí L: Ông Nguyễn Thế H,
sinh năm 1989; địa chỉ trú: Thôn A, E, huyện M'Đrắk, tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ
liên lạc: Số I, đường B, khu phố B, phường T, thành phố T, Thành phố H.
2. Bà Phạm Xuân E, sinh năm 1973;
Địa chỉ cư trú: Ấp L, xã P, huyện P, tỉnh C.
3. Ông Phạm Minh K, sinh năm 1960 ;
Địa chỉ cư trú: Ấp G, xã K, huyện U, tỉnh C.
4. Bà Phạm Thị N, sinh năm 1964;
Địa chỉ cư trú: p M, xã P, huyện T, tỉnh C.
5. Bà Phạm Thị Minh T, sinh năm 1956;
Địa chỉ cư trú: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh T.
6. Ông Phạm Chí N1, sinh năm 1969;
Địa chỉ cư trú: Ấp H, xã H, huyện V, tỉnh V.
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của ông Phạm Chí N1, ông Phạm
Minh K, Phạm Thị N, Phạm Xuân E, Phạm Thị Minh T : Phạm Chí L
(là nguyên đơn trong vụ án) ( có mặt).
- Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Văn L1, sinh năm 1948;
2. Bà Ca Thị S, sinh năm 1952
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp V, xã P, huyện P, tỉnh C.
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn L1 Ca
Thị S: Ông Hồ Văn K1, sinh năm 1983; địa chỉ trú: Khóm H, thị trấn C, huyện
P, tỉnh Cà Mau (Có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Phạm Chí N1, sinh năm 1969 (Vắng mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp H, xã H, huyện V, tỉnh V.
2. Ông Nguyễn Văn H1 (Vắng mặt);
3. Ông Trương Thị L2 (Vắng mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp V, xã P, huyện P, tỉnh C.
4. Ông Nguyễn Minh T1 (Vắng mặt);
5. Ông Nguyễn Thị P (Vắng mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: Tổ I, khu phố B, thị trấn L, huyện B, tỉnh B.
6. Bà Dương Thị T2, sinh năm 1968 (vắng mặt).
Địa chỉ cư trú: Ấp V, xã P, huyện P, tỉnh C.
- Người kháng cáo: Phạm Chí L, là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo bà Phạm Chí L trình bày:
Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông Phạm Hoàng L3 (là cha bà L) được cha
mẹ tặng cho, năm 1993 ông L3 được cấp quyền sử dụng đất. Sau đó, ông L3 tặng
cho Phạm Chí L diện tích 10.500 m
2
, tặng cho ông Phạm Chí N1 diện tích
10.500 m
2
, diện ch đất còn lại của ông L3 được cấp quyền sử dụng 20.500 m
2
.
Trước năm 1993, thì tổng diện tích đất này ông L3 cho ông N1 mượn canh tác, sau
khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì vẫn cho ông N1 mượn đất
canh tác. L ông N1 thỏa thuận đổi vị trí đất với nhau nhưng không làm thủ
tục đổi đất.Năm 2018, L phát hiện phần đất của của ông L3, ông Nguyễn
Minh T1 đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn L1 Ca Thị S diện tích
khoảng 5.508 m
2
. Phần đất này L cho ông N1 mượn để cố cho ông T1, nhưng
ông T1 lại chuyển nhượng cho ông L1, ông L1 đã cất nhà trên phần đất tranh chấp.
Do đó, bà L yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông N1 T3 với ông T1 và P, giữa ông T1 bà P với ông
L1 S là hiệu; Buộc ông Nguyễn Văn L1 Ca Thị S di dời nhà trả lại
diện tích khoảng 5.508 m
2
cho L, đất tọa lạc tại ấp V, P, huyện P, tỉnh
Mau.
- Theo ông Hồ Văn K1 trình bày:
Ngày 25/4/1996, ông Phạm Chí N1 Dương Thị T3 chuyển nhượng
cho ông Nguyễn Minh T1 Nguyễn Thị P phần đất diện tích 04 công tầm lớn,
với giá 16 chỉ vàng 24k, ông T1 bà P đã giao đủ 16 chỉ vàng 24k cho ông N1.
Khi chuyển nhượng làm hợp đồng bằng văn bản, phần đất này do ông L3 đứng
tên quyền sử dụng đất, nhưng ông L3 đã tặng cho ông N1, ông N1 chuyển nhượng
cho ông T1 được sđồng ý của ông L3, ông L3 ký tên giấy sang nhượng đất;
ông N1, T3 tên, đại diện chính quyền ấp ông Nghê Minh H2 tên
và có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã P.
Đến ngày 11/8/1998 âm lịch, ông Nguyễn Minh T1 Nguyễn Thị P
chuyển nhượng lại phần đất này cho ông Nguyễn Văn L1 và Ca Thị S, theo đo
đạc 4 công 01 gốc tư, với giá 25 chỉ vàng 24k, ông L1 S đã giao đủ vàng
cho ông T1 P1. Việc chuyển nhượng lập thành văn bản xác nhận
của ông Đặng Hoàng S1 phó ban nhân dân ấp người chứng kiến. Sau khi
sang nhượng đất, ông L1 S trực tiếp canh tác phần đất nhận chuyển nhượng,
ông L1 đưa giới vào san lắp, trồng cây lâu năm cất nhà ổn định không
tranh chấp. Việc chuyển nhượng đất đúng quy định của pháp luật nên không
đồng ý di dời nhà trả lại diện tích theo đo đạc thực tế 4.284,7m
2
, đất tọa lạc tại ấp
V, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau theo yêu cầu của nguyên đơn.
- Theo ông Phạm Chí N1 trình bày:
Ông N1 thừa nhận ngày 25/4/1996 ông N1 lập hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Minh T1 và Nguyễn Thị P phần đất diện
tích 04 công tầm lớn, với số vàng 16 chỉ vàng 24k; ông T1 và P đã giao đ16
chỉ vàng 24k cho ông N1. Ông N1, ông L3, bà T3 tên vào giấy sang nhượng
và có giao cho ông T1 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Phạm Chí
N1, nhưng thực tế cấm cố sau y cho chuộc lại, do ông T1 kêu làm giấy sang
nhượng nên ông N1 cũng đồng ý làm giấy sang nhượng. Ông T1 sang đất lại cho
ông L1, ông N1 không hay biết.
Tại bản án dân sự thẩm số: 158/2024/DS-ST ngày 29 tháng 7 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Phú Tân quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Phạm Chí L, ông Phạm Chí N1,
ông Phạm Minh K, bà Phạm Thị N, Phạm Xuân E, bà Phạm Thị Minh T về việc
yêu cầu Tòa án tuyên hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa
ông N1 T3 với ông T1 P, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông T1 P với ông L1 S; buộc ông Nguyễn Văn L1, bà Ca Thị S,
ông Nguyễn Văn H1, Trương Thị L2 dỡ di dời nhà, công trình, cây trồng, hoa
màu trên đất để trả lại diện tích đất theo đo đạc thực tế 4.284,7m
2
tọa lạc tại ấp V,
xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau.
Ngoài ra, án thẩm còn tuyên về chi ptố tụng, án phí quyền kháng
cáo của đương sự.
Ngày 08/08/2024, bà Phạm Chí L đơn kháng cáo, yêu cầu cấp phúc thẩm
huỷ bản án thẩm; đề nghị Toà án nhân dân cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của bà L.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của Phạm Chí L yêu
cầu huỷ bản án sơ thẩm.
Phần tranh luận tại phiên toà:
Ông Nguyễn Thế H phát biểu: Hiện nay ông L4 chồng L đang quản
sử dụng đất với bà L, nhưng cấp sơ thẩm không đưa ông L4 tham gia tố tụng trong
vụ án; ông N1 lấy phần đất ông L3 đứng tên chuyển nhượng cho người khác là
không đúng. Trong phần đất ông L3 đứng tên phần di sản thừa kế của mẹ L
nhưng chưa được xem xét. Việc ông T1 và bà P chuyển nhượng đất cho ông L1, bà
S chưa đcăn cứ; ông T1 bà P chưa trả đủ số vàng chuyển nhượng đất cho
ông N1, nên hợp đồng chuyển nhượng chưa hoàn thành; những người tên làm
chứng trong giấy chuyển nhượng là giả mạo, khi chuyển nhượng không có ông L3.
Do đó, yêu cầu Hội đồng xét xử huỷ bản án thẩm, giao hồ sơ về cho Toà án cấp
sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
L phát biểu: Ông N1 có đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông
T1 giữ, ông T1 đưa lại cho ông L1, ông L1 đưa cho ông T4 để ông Trung C tên
cho người khác.
Ông Hn K1 phát biểu: Ông L4 (chồng L) không có liên quan đến
phần đất tranh chấp, nên cấp thẩm không đưa ông L4 tham gia tố tụng trong vụ
án căn cứ. Đất do ông L3 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giả
sử phần đất tài sản chung của vchồng ông L3 thì ông L3 cũng quyền định
đoạt ½ tài sản thuộc quyền tài sản của ông L3. Khi ông N1 chuyển nhượng đất cho
ông T1 bà P thì những người thừa kế của ông L3 không ai ý kiến gì; ông T1
P đã trả đủ số vàng chuyển nhượng đất cho ông N1. Sau đó ông T1 P
chuyển nhượng lại cho ông L1 bà S; ông L1 S đã nhận đất quản sử
dụng, đầu cải tạo, xay cất nhà, trồng cây lâu năm trên đất nhưng phía nguyên
đơn cũng không ý kiến gì. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-
HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì hợp
đồng chuyển nhượng được công nhận. Do đó, yêu cầu Hội đồng xét xử không chấp
nhận kháng cáo của bà L, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
không chấp nhận kháng cáo của Phạm Chí L, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Xét kháng cáo của bà Phạm Chí L, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Nguồn gốc đất tranh chấp đất của ông Phạm Hoàng L3 (là cha của
L). Năm 1993, ông L3 tặng cho L phần đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thuộc thửa số 69, diện tích 10.500 m
2
; ông L3 tặng cho ông Phạm Chí N1
phần đất thuộc thửa số 70 diện tích 10.500 m
2
; diện tích đất còn lại của ông L3
thuộc thửa số 71 diện tích 20.500 m
2
. Đến ngày 25/4/1996, ông Phạm Chí N1
Dương Thị T3 chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Minh T1
Nguyễn Thị P. Theo giấy sang nhượng đất ngày 25/4/1996 âm lịch, thể hiện ông
Phạm Chí N1, Dương Thị T3 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Minh T1,
Nguyễn Thị P phần đất diện tích 04 công (tầm 03 mét), chcủa ông L3,
nội dung thể hiện ông L3 đồng ý cho ông Phạm Chí N1 bán 04 công (tầm 03 mét),
xác nhận của Ủy ban nhân dân P. Đến ngày 11/8/1998 âm lịch, ông Nguyễn
Minh T1, Nguyễn Thị P chuyển nhượng lại phần đất của ông Nguyễn Minh T1,
Nguyễn Thị P nhận chuyển nhượng đất từ ông Phạm Chí N1, Dương Thị T3
cho Nguyễn Văn L1, bà Ca Thị S có làm giấy sang nhượng và có xác nhận của ông
Đặng Hoàng S1, Phó ban nhân dân ấp người chứng kiến. Sau khi nhận
chuyển nhượng đất ông L1, S đã canh tác ổn định cho đến năm 2018 thì mới
phát sinh tranh chấp với bà Phạm Chí L.
[2] Xét thấy, phần đất tranh chấp theo đo đạc thể hiện một phần thuộc quyền
sử dụng đất của ông N1, một phần thuộc quyền sử dụng đất của ông L3; L cho
rằng đã đổi đất với ông N1 đất của ông L3 đã y quyền lại cho bà, ông N1
chuyển nhượng đất cho ông T1 ông L3 không biết và không tên. Tuy
nhiên, việc đổi đất giữa L ông N1 do trình bày không lập văn bản, chưa
thực hiện việc làm thủ tục theo quy định nên việc ông N1 chuyển nhượng đất của
ông N1 do ông N1 đứng tên phù hợp với quy định, ông N1 cũng đã nhận tiền
chuyển nhượng giao đất cho ông T1, P; mặc hợp đồng vi phạm về hình
thức nhưng vẫn đủ điều kiện để công nhận hợp đồng theo quy định. Đối với phần
đất của ông L3, ông N1 chuyển nhượng cho ông T1 theo giấy sang nhượng đất
ngày 25/4/1996 (âm lịch) thể hiện ông Phạm Chí N1, Dương Thị T3 chuyển
nhượng cho ông Nguyễn Minh T1, bà Nguyễn Thị P phần đất diện tích 04 công
(tầm 03 mét), chữ của ông Phạm Hoàng L3 nội dung thể hiện ông Phạm
Hoàng L3 đồng ý cho ông Phạm Chí N1 bán 04 công (tầm 03 mét) có xác nhận của
Ủy ban nhân dân xã P như vậy ông L3 đã đồng ý cho ông N1 chuyển nhượng đất
cho ông T1. Mặc khác tại phiên tòa L xác định năm 2018 bà có yêu cầu ban N2
yêu cầu ông L1 trả lại 1 góc 4 đất (bà lanh cho rằng diện tích thừa so với diện tích
chuyển nhượng 04 công) nhưng ông L1 không đồng ý. Như vậy bà L biết việc ông
N1 chuyển nhượng đất nêu trên nhưng không tranh chấp với ông L1 phần đất ông
N1 đã chuyển nhượng. Tại biên bản phiên toà thẩm ngày 26/7/2024, L cũng
trình bày khi ông N1 chuyển nhượng đất cho ông T1, bà L biết.
[3] Mặt khác, ông N1 T3 chuyển nhượng đất cho ông T1 P
ngày 25/4/1996; ông T1 P chuyển nhượng lại phần đất cho ông L1 S
ngày 11/8/1998; còn ông L3 uỷ quyền cho L quản sử dụng phần đất của ông
L3 ngày 15/8/1998, tức sau khi ông N1 T3 chuyển nhượng cho ông T1
và bà P, ông T1 và bà P chuyển nhượng lại cho ông L1 và bà S.
[4] Ông L1 bà S đã quản đất từ năm 1998, quá trình canh tác ông L1,
S đã đầu cải tạo đất, trồng cây lâu m, xây cất nhà trên phần đất nhưng khi
ông L3 còn sống đến khi chết năm 2014 ông L3 không có ý kiến phản đối; bà L và
các anh chị em của bà L cũng không ý kiến gì. Mặc dù, hợp đồng chuyển
nhượng giữa ông Phạm Chí N1, Dương Thị T3 với ông Nguyễn Minh T1,
Nguyễn Thị P; giữa ông Nguyễn Minh T1, Nguyễn Thị P với ông Nguyễn Văn
L1, bà Ca Thị S có vi phạm về hình thức của hợp đồng, nhưng đối chiếu với hướng
dẫn của Nghị quyết số 02/2024/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Toà án nhân dân
tối cao thì hợp đồng được công nhận.
[5] Từ nhận định nêu trên, xét thấy bản án thẩm xét xử không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn căn cứ. Đối với ý kiến tranh luận của
ngời đại diện của L yêu cầu huỷ bản án thẩm không sở chấp nhận.
Do đó, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo Phạm Chí L, giữ nguyên bản
án sơ thẩm là phù hợp.
[6] Án phí dân sự phúc thẩm L phải chịu 300.000 đồng, đã dự nộp được
chuyển thu.
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt
ra xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của B luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của Phạm Chí L.
Giữ nguyên bản án dân sự thẩm số: 158/2024/DS-ST ngày 29 tháng 7
năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
Tuyên xử:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Chí L, ông Phạm Chí N1,
ông Phạm Minh K, bà Phạm Thị N, Phạm Xuân E, bà Phạm Thị Minh T về việc
yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Phạm Chí
N1, bà Dương Thị T3 với ông Nguyễn Minh T1, Nguyễn Thị P; hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Minh T1, bà Nguyễn Thị P
với ông Nguyễn Văn L1, Ca Thị S hiệu buộc ông Nguyễn Văn L1, Ca
Thị S, ông Nguyễn Văn H1, bà Trương Thị L2 dỡ di dời nhà, công trình, cây trồng,
hoa màu trên đất đtrả lại diện tích đất theo đo đạc thực tế 4.284,7m
2
, đất tọa lạc
tại ấp V, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau.
- Về chi phí tố tụng: Bà Phạm Chí L, ông Phạm Chí N1, ông Phạm Minh K,
Phạm Thị N, Phạm Xuân E, Phạm Thị Minh T phải chịu chi phí đo đạc,
định giá số tiền 24.513.100 đồng (đã nộp xong).
- Về án phí dân sự thẩm: Phạm Chí L, ông Phạm Chí N1, ông Phạm
Minh K, Phạm Thị N, Phạm Xuân E, bà Phạm Thị Minh T phải chịu
14.996.450 đồng. Phạm Chí L đã dự nộp 3.443.000 đồng tại biên lai thu số
00117602 ngày 18/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân, đối trừ
còn phải nộp tiếp 11.553.450 đồng. Ông L1, bà S không phải chịu án phí.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Phạm Chí L phải chịu 300.000 đồng.
Ngày 08/8/2024, Phạm Chí L đã d nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số
0003783 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân được chuyển thu.
Các quyết định khác của bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện Phú Tân;
- Chi cục THADS huyện Phú Tân;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thành Lập
Tải về
Bản án số 528/2024/DS-PT Bản án số 528/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 528/2024/DS-PT Bản án số 528/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất