Bản án số 376/2024/DS-PT ngày 30/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 376/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 376/2024/DS-PT ngày 30/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 376/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: bà Châu Thi P khởi kiện buộc bà Vũ Thị Phương H1 có trách nhiệm trả cho tôi số tiền nợ gốc là 253.500.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày nộp đơn khởi kiện (Ngày 06/3/2024) cho đến nay theo mức lãi suất là 10%/năm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 376/2024/DS-PT
Ngày: 30 - 12 - 2024
“V/v: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Thị Tuyết;
Các Thẩm phán: 1. Ông Nguyễn Ngọc Sâm;
2. Ông Nguyễn Duy Thuấn.
- Thư phiên toà: Nguyễn Thị Duyên - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa:
Lương Thị Diệu Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử
phúc thẩm ng khai ván dân sự phúc thẩm thụ số: 269/2024/TLPT-DS ngày
15/10/2024, về việc: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Do Bản án dân sự thẩm
số 133/2024/DS-ST ngày 26/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột,
tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét x phúc thẩm số 367/2024/QĐ-PT ngày
21/11/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Châu Thị P, sinh năm 1983; địa chỉ: Số E Y, phường T, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Võ Thị Thu H , sinh năm
1983; địa chỉ: Số E Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk Có mặt.
2. Bị đơn: Vũ Thị Phương H1, sinh năm 1984; địa chỉ: Số E H, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk Có mặt.
3. Người kháng cáo: Bị đơn bà Vũ Thị Phương H1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
*/ Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Châu Thị
Phúc trình B có nội dung như sau:
2
và Thị Phương H1 là đồng nghiệp với nhau. Do tin tưởng nên bà đã
cho bà H1 mượn tiền nhiều lần như sau:
Ngày 08/10/2022: Bà H1 mượn của bà số tiền 120.000.000 đồng.
Ngày 10/10/2022: Bà H1 mượn của bà số tiền 20.000.000 đồng.
Ngày 19/10/2022: Bà H1 mượn của bà số tiền 50.000.000 đồng.
Ngày 21/10/2022: Bà H1 mượn của bà số tiền 50.000.000 đồng.
Ngày 05/3/2023: H1 ợn của số tiền 50.000.000 đồng; H1 mượn
thêm 13.500.000 đồng.
Tổng cộng đến ngày 16/5/2023, bà H1 đã mượn của bà 303.500.000 đồng.
Tuy trong giấy mượn tiền thì H1 không hẹn ngày trả nợ, nhưng H1
nhắn tin qua Zalo cho bà là hẹn đến cuối tháng 12 năm 2023 sẽ trả nợ cho bà.
Khi vay tiền thì bà Vũ Thị Phương H1 không thế chấp cho bà tài sản nào cả.
Từ ngày mượn tiền đến nay, bà H1 đã trả được cho bà số tiền 50.000.000 đồng
vào ngày 31/01/2024.Bà H1 còn nợ lại của bà số tiền 253.500.000 đồng.
Bên yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Thị Phương H1 trách nhiệm
trả cho tôi stiền nợ gốc 253.500.000 đồng tiền lãi tính từ ngày nộp đơn khởi
kiện (Ngày 06/3/2024) cho đến nay theo mức lãi suất 10%/năm: Tạm nh từ ngày
06/3/2024 đến ngày 26/7/2024 là 9.931.644 đồng.
*/ Quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm bị đơn Thị Phương H1
trình bày có nội dung như sau:
Châu Thị P quen nhau do làm cùng quan, P nói nếu cần
vay tiền làm ăn thì Nguyễn Thị Thanh L (là hàng xóm của P) cho vay tiền,
sau đó bà có dẫn ông Trương N đến nhà bà L vay để đáo hạn Ngân hàng, cụ thể:
- Ngày 08/10/2022 ông N vay 120.000.000 đồng hẹn 10 ngày trả lãi suất
5.000đ/1.000.000đ/ngày;
- Ngày 10/10/2022 ông N nhờ hỏi vay thêm của L 20.000.000đ, hẹn 08
ngày trả và lãi suất 5.000đ/1.000.000đ/ngày;
Hai lần vay trên đều không sự chứng kiến của P nhưng P nói nếu
không có bà P ký bảo lãnh thì bà L không cho vay.
Vì chưa có tiền trả nên vào ngày 21/10/2022 bà có đi cùng ông N đến gặp L
để thỏa thuận để trả lãi cho bà L, L tính lại lãi suất 3.000đ/1.000.000đ/ngày cho
nên khoản tiền lãi của khoản vay 120.000.000 đồng là 3.600.000 đồng, khoản tiền lãi
của khoản vay 20.000.000 đồng là 480.000 đồng, tổng cả 02 khoản lãi trên là
4.080.000 đồng. Do tiền cầm đi không đủ nên trả cho L số tiền 3.400.000 đồng
tiền mặt chuyển khoản 600.000 đồng. Khoản vay này hàng tháng ông N nhờ
3
chuyển tiền lãi cho L vào ngày 19 hàng tháng, cụ thể đã trả cho bà L từ tháng
11/2022 đến 03/2023 tổng số tiền trả là 76.000.000 đồng. (Tại biên bản làm việc ngày
19/11/2024, bà xác định bà vay mượn của bà L tổng số tiền 190.000.000 đồng).
- Ngày 19/10/2022, bà có hỏi vay của bà P số tiền 50.000.000 đồng nhưng bà P
không tiền nên đi vay dùm Trần Thị Mai H2, thỏa thuận lãi suất
3.000đ/1.000.000đ/ngày. Khoản vay này trả lãi vào ngày 24 hàng tháng, đã trả
03 lần tiền i tổng số tiền 13.500.000 đồng (trong đó 02 lần chuyển khoản 01 lần
trả tiền mặt qua bà P).
- Ngày 21/10/2022, vay của bà P số tiền 50.000.000 đồng, lãi suất
1.500đ/1.000.000đ/ngày. Khoản vay này phải trả lãi vào ngày 24 hàng tháng,
đã trả 03 lần tiền lãi tổng cộng 6.000.000 đồng 50.000.000 đồng tiền gốc bằng
hình thức chuyển khoản.
- Ngày 05/3/2023 vay P số tiền 50.000.000 đồng (khoản vay này
đứng ra vay dùm cho ông Trương N), lãi suất 3.000đ/1.000.000đ/ngày; sau đó
mượn thêm 13.500.000 đồng.
Đến tháng 4/2023 sau khi L nói với P về vấn đề ông N không còn khả
năng trả nợ nên bà P nói lại với bà là P đã trả nợ cho bà L và bà Hoàng K vay trên
nên P yêu cầu bà viết lại giấy để không tính lãi suất nữa, tin tưởng nên mới
viết lại giấy vay cho bà P. Sau đó, có yêu cầu P trả lại c giấy vay giữa với
L, H2 thì P không trả nói rằng đã xé các tờ giấy đó đi rồi, việc P tự ý
thỏa thuận trả nợ với L và bà H2 thì bà không được biết.
Tại Bản án dân sự thẩm số 133/2024/DS-ST ngày 26/7/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các
Điều 147, 161, 227, 228, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Áp dụng các Điều 463, 465, 466, 468 Điều 470 của Bộ luật dân sự năm
2015; Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm,
thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn bà Châu Thị P;
Buộc Vũ Thị Phương H1 phải trả cho Châu Thị P số tiền vay tổng cộng
là: 263.431.644đ (Hai trăm sáu mươi ba triệu bốn trăm ba mươi mốt nghìn sáu trăm
bốn mươi bốn đồng).
Trong đó: Tiền vay gốc 253.500.000đ (Hai trăm năm mươi ba triệu năm
trăm nghìn đồng); Tiền lãi 9.931.644đ (Chín triệu chín trăm ba mươi mốt nghìn
sáu trăm bốn mươi bốn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
4
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân
sự năm 2015.
2. Về chi phí giám định chữ ký, chữ viết: Vũ Thị Phương H1 phải chịu chi
phí giám định chữ ký, chữ viết 4.860.000đ (Bốn triệu tám trăm sáu mươi nghìn
đồng), Châu Thị P không phải chịu chi phí giám định chữ ký, chữ viết được
nhận lại số tiền 4.860.000đ (Bốn triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng) tạm ứng chi
phí đã nộp sau khi thu được của bà Vũ Thị Phương H1.
3. Về án phí:
Bị đơn Thị Phương H1 phải nộp 13.171.582đ (Mười ba triệu một trăm
bảy mươi mốt nghìn năm trăm tám mươi hai đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn Châu Thị P được nhận lại số tiền 8.227.000đ (Tám triệu hai
trăm hai mươi bảy nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số
AA/2023/0009645 ngày 19/3/2024 (Bà H Lan Adơng nộp thay) tại Chi cục Thi hành
án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành
án dân sự cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa thẩm bị đơn vắng mặt nên ngày 13/8/2024 bị đơn Thị
Phương H1 đơn kháng cáo, với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải
quyết theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn giữ
nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa ý kiến
như sau:
- Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử,
Thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố
tụng dân sự: Giữ nguyên bản án dân s thẩm số: số 133/2024/DS-ST ngày
26/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa
và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Đối với nội dung kháng cáo của bị đơn bà Vũ Thị Phương H1, xét thấy:
[1] Về số tiền vay gốc: Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Châu
Thị P và bà Vũ Thị Phương H1 đều xác định chứng cứ giấy viết tay thể hiện thời gian
mượn tiền chữ viết, chữ ký của bà H1, các bên cũng xác định các khoản vay
số tiền vay cụ thể: Ngày 08/10/2022: Mượn số tiền 120.000.000 đồng; Ngày
10/10/2022: Mượn số tiền 20.000.000 đồng; Ngày 19/10/2022: Mượn số tiền
50.000.000 đồng; Ngày 21/10/2022: Mượn số tiền 50.000.000 đồng; Ngày
5
05/3/2023: Mượn số tiền 50.000.000 đồng, sau đó mượn thêm 13.500.000 đồng. Tuy
nhiên, bị đơn H1 chỉ thừa nhận vay của P tất cả số tiền 63.500.000 đồng của
khoản vay ngày 21/10/2022 và mượn thêm 13.500.000 đồng. Hiện đã trả nợ cho bà P,
50.000.000 đồng đối với các khoản vay còn lại thì H1 cho rằng khoản vay ngày
08/10/2022, ngày 10/10/2022 ông Trương N vay của Nguyễn Thị Thanh L;
ngày 19/10/2022 vay của Trần Thị Mai H2 thông qua P; ngày 05/3/2023
vay của bà P tổng số tiền 63.500.000 đồng (tất cả khoản vay này bà đứng ra vay dùm
cho ông Trương N). Ngoài ra H1 cho rằng đã trả lãi cho P vào ngày
22/11/2022 và trả lãi cho H2 bằng hình thức chuyển khoản cho P vào ngày
20/11/2022 để nhờ bà P trả dùm.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn P
không thừa nhận ý kiến trình bày của bị đơn bà H1, đồng thời tại giấy viết tay
nguyên đơn xác định giấy vay tiền thì thể hiện nội dung “Tổng cộng đến ngày
16/5/2023 mượn của chị P 303.500.000 đồng”. Các bên đều thừa nhận xác lập
giấy viết tay nêu trên; như vậy đủ sở xác định các bên đã chốt nợ vào ngày
16/5/2023, sau khi hai bên chốt nợ thì không còn phát sinh khoản nợ nào khác; ngày
31/01/2024 bị đơn H1 chuyển tiền cho P 02 lần với tổng số tiền 50.000.000
đồng, số tiền này hai bên đều xác định đây số tiền để trả nợ tiền gốc. Ngoài ra, còn
các khoản tiền H1 chuyển khoản cho P để trả tiền lãi thì P không thừa
nhận. H1 cũng không tài liệu chứng cứ chứng minh các stiền chuyển khoản
chobà P tiền trả lãi. Do đó, không căn cứ đchấp nhận ý kiến trình bày của bị
đơn bà H1.
Mặt khác, H1 cho rằng đã trả tiền lãi cho Nguyễn Thị Thanh L
76.000.000 đồng H2 13.500.000 đồng thì H1 quyền khởi kiện vụ án dân
sự khác đối với bà Nguyễn Thị Thanh L và bà Trần Thị Mai H2.
[2] Về tiền lãi: Bà H1 cho rằng bà với P có thỏa thuận trả lãi tuy nhiên bà P
không thừa nhận. Hơn nữa, tại giấy vay mượn tiền giữa P với H1 thì không thể
hiện việc thỏa thuận lãi suất không thể hiện thời hạn trả nợ. Do đó cấp thẩm
tính lãi suất đối với số tiền nợ gốc 253.500.000 đồng từ ngày nộp đơn khởi kiện
(ngày 06/3/2024) đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 26/7/2024) là phù hợp.
Từ những phân tích nhận định trên, đủ sở khẳng định bản án thẩm
đã chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn Châu Thị P sở phù hợp
với quy định của pháp luật. Do vậy, kháng cáo của bị đơn Thị Phương H1
không có căn cứ chấp nhận.
[3]. Về chi phí giám định chữ ký, chữ viết: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn nên bị đơn Thị Phương H1 phải chịu chi phí giám định chữ
ký, chữ viết 4.860.000đ (Bốn triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng), Châu Thị P
được nhận lại số tiền 4.860.000đ (Bốn triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng) tạm ứng
chi phí đã nộp sau khi thu được của bà Thị Phương H1.
6
[4] Về án phí:
[4.1] Án phí dân sự thẩm: Thị Phương H1 phải chịu 13.171.582đ
(Mười ba triệu một trăm bảy mươi mốt nghìn năm trăm tám mươi hai đồng) tiền án
phí dân sự thẩm. Châu Thị P được nhận lại số tiền 8.227.000đ (Tám triệu hai
trăm hai mươi bảy nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[4.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
Vũ Thị Phương H1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn bà Vũ Thị Phương H1; Giữ
nguyên Bản án dân sự thẩm số 133/2024/DS-ST ngày 26/7/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Áp dụng các Điều 463, 465, 466, 468 Điều 470 của Bộ luật dân sự năm
2015; Điều 26 và Điều 29 của Nghị quyết s326/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 v
mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Châu Thị P;
Buộc Vũ Thị Phương H1 phải trả cho Châu Thị P số tiền vay tổng cộng
là: 263.431.644đ (Hai trăm sáu mươi ba triệu bốn trăm ba mươi mốt nghìn sáu trăm
bốn mươi bốn đồng); Trong đó: Tiền gốc 253.500.000 đồng, tiền lãi 9.931.644
đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân
sự năm 2015.
2. Về chi phí giám định chữ ký, chữ viết: Thị Phương H1 phải chịu chi
phí giám định chữ ký, chữ viết 4.860.000đ (Bốn triệu tám trăm sáu mươi nghìn
đồng), bà Châu Thị P được nhận lại số tiền 4.860.000đ (Bốn triệu tám trăm sáu mươi
nghìn đồng) khi thu được của bà Vũ Thị Phương H1.
3. Về án phí:
3.1. Án phí dân sự sơ thẩm:
Bị đơn bà Thị Phương H1 phải chịu 13.171.582đ (Mười ba triệu một trăm
bảy mươi mốt nghìn năm trăm tám mươi hai đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn Châu Thị P được nhận lại số tiền 8.227.00 (Tám triệu hai
trăm hai mươi bảy nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp biên lai số AA/2023/
0009645 ngày 19/3/2024 (Bà H Lan Adơng nộp thay) tại Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
7
3.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn bà Thị Phương H1 phải chịu 300.000
đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền
tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) mà Thị Phương H1 đã
nộp theo Biên lai thu số AA/2023/0013419 ngày 22/8/2024 tại Chi cục Thi hành án
dân sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự tngười được thi hành án, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 của Luật Thi
hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND Cấp cao tại Đà Nẵng; (đã ký)
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND Tp. Buôn Ma Thuột;
- Chi cục THADS Tp. Buôn Ma Thuột;
- Các đương sự;
- Công thông tin điện tử Tòa án;
- Lưu hồ sơ vụ án. Đinh Thị Tuyết
Tải về
Bản án số 376/2024/DS-PT Bản án số 376/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 376/2024/DS-PT Bản án số 376/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất