Bản án số 11/2024/DS-PT ngày 09/12/2024 của TAND tỉnh Sơn La về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 11/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 11/2024/DS-PT ngày 09/12/2024 của TAND tỉnh Sơn La về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Sơn La
Số hiệu: 11/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa NĐ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SƠN LA
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 11/2024/DS-PT
Ngày: 09/12/2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất.
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
Tại điểm cầu trung tâm: Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Sơn La
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đỗ Tuấn Long.
Các thẩm phán: Điêu Thị Kim Liên, bà Tòng Thị Hiền.
- Thư phiên tòa: Thị Yến Nhi - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Sơn La.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La tham gia phiên tòa: Ông
Phạm Quốc Đức - Kiểm sát viên.
Tại điểm cầu thành phần: Trụ sToà án nhân dân huyện Mai Sơn,
tỉnh Sơn La
- Các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hải D, sinh năm 1952; Nguyễn Thị B,
sinh năm 1959. Địa chỉ: Tiểu khu A, thị trấn H, huyện M, tỉnh Sơn La (có mặt
tại phiên tòa).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Hải D
Nguyễn Thị B: Luật Đỗ Văn T - Luật thuộc Văn phòng L, Đoàn luật
tỉnh S. Địa chỉ: Số nhà F, ngõ A, đường L, tổ A, phường Q, thành phố S, tỉnh
Sơn La (có mặt tại phiên tòa).
2. Bị đơn: Anh Văn T1, sinh năm 1981. Địa chỉ: Thôn T, H, huyện
M, tỉnh Sơn La (vắng mặt tại phiên tòa).
3. Người quyền lợi, nghĩa v liên quan u cầu độc lập: Anh
Nguyễn Thành T2, sinh năm 1984. Địa chỉ: Bản T, H, huyện M, tỉnh Sơn La
(vắng mặt tại phiên tòa).
Người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Thành T2: Chị Nguyễn
Thị Thùy N, sinh năm 1983. Địa chỉ: Tiểu khu H, thị trấn H, huyện M, tỉnh Sơn
La (Theo văn bản ủy quyền ngày 28/02/2022, 08/7/2022 15/5/2024) (có mặt
tại phiên tòa).
2
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Chị Lò Thị N1, sinh năm 1988, địa chỉ: Bản T, xã H, huyện M, tỉnh Sơn
La (vắng mặt tại phiên tòa).
Người đại diện theo y quyền của chị Thị N1: Chị Nguyễn Thị Thùy
N, sinh năm 1983. Địa chỉ: Tiểu khu H, thị trấn H, huyện M, tỉnh Sơn La (theo
văn bản ủy quyền ngày 15/5/2024) (có mặt tại phiên tòa).
- ChLê Thị T3, sinh năm 1982. Địa chỉ: Thôn T, H, huyện M, tỉnh
Sơn La (vắng mặt tại phiên tòa).
- Văn phòng C Địa chỉ: Số nhà A, tổ A, phường Q, thành phố S, tỉnh Sơn
La. Người đại diện theo pháp luật: Ông Hải X, Trưởng văn phòng (có đơn
xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa).
5. Cán bộ Tòa án: Bùi Thị D1 - Thư Tòa án nhân dân huyện Mai
Sơn, tỉnh Sơn La.
Ngày 09 tháng 12 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Sơn La và điểm cầu thành phần trụ sở Toà án nhân dân huyện Mai Sơn,
tỉnh Sơn La. Xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 20/2024/TLPT-
DS ngày 01 tháng 11 năm 2024 vviệc: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Do bản án dân sự thẩm số: 07/2024/DS-ST ngày
16/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La bị kháng cáo. Theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 19/2024/QĐ-PT ngày 18 tháng 11
năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hải D, sinh năm 1952, Nguyễn Thị B,
sinh năm 1959. Địa chỉ: Tiểu khu A, thị trấn H, huyện M, tỉnh Sơn La.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Hải D
Nguyễn Thị B: Luật sư Đỗ Văn T Luật thuộc Văn phòng L, Đoàn luật
tỉnh S. Địa chỉ: Số nhà F, ngõ A, đường L, tổ A, phường Q, thành phố S, tỉnh
Sơn La.
2. Bị đơn: Anh Văn T1, sinh năm 1981. Địa chỉ: Thôn T, H, huyện
M, tỉnh Sơn La.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập: Anh
Nguyễn Thành T2, sinh năm 1984. Địa chỉ: Bản T, xã H, huyện M, tỉnh Sơn La.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Thành T2: Nguyễn Thị
Thùy N, sinh năm 1983. Địa chỉ: Tiểu khu H, thị trấn H, huyện M, tỉnh Sơn La
(Theo văn bản ủy quyền ngày 28/02/2022, 08/7/2022 và 15/5/2024).
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Chị Lò Thị N1, sinh năm 1988, địa chỉ: Bản T, xã H, huyện M, tỉnh Sơn
La.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Lò Thị N1: Chị Nguyễn Thị Thùy
N, sinh năm 1983. Địa chỉ: Tiểu khu H, thị trấn H, huyện M, tỉnh Sơn La (theo
văn bản ủy quyền ngày 15/5/2024).
3
- ChLê Thị T3, sinh năm 1982. Địa chỉ: Thôn T, H, huyện M, tỉnh
Sơn La.
- Văn phòng C Địa chỉ: Số nhà A, tổ A, phường Q, thành phố S, tỉnh Sơn
La. Người đại diện theo pháp luật: Ông Hải X, Trưởng văn phòng.
5. Người kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Thùy N, người đại diện theo u
quyền của người quyền lợi, nghĩa vliên quan - chị Thị N1 người đại
diện theo uỷ quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc
lập - anh Nguyễn Thành T2.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai các tài liệu trong hồ vụ án,
nguyên đơn ông Nguyễn Hải D, Nguyễn Thị B, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nguyên đơn trình bày như sau:
Ngày 19/11/2019 ông Nguyễn Hải D, bà Nguyễn Thị B Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho anh Văn T1 (trú tại thôn T, H,
huyện M, tỉnh Sơn La) với nội dung ông D, B chuyển nhượng nhà ở hai tầng,
công trình phụ liền kề được xây dựng trên diện tích đất thổ là 90m
2
. Đất đã
được UBND tỉnh S cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn
Hải D vào năm 1999, địa chỉ thửa đất tại tiểu khu A, thị trấn H, huyện M, tỉnh
Sơn La. Giá trị chuyển nhượng 1.220.000.000VNĐ, công chứng số 2882 do
Văn phòng C1 thực hiện.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nguyên đơn đã thực hiện đúng các
điều khoản đã cam kết, đã bàn giao giấy chứng nhận quyền sử đụng đất cho anh
T1. Theo nội dung thỏa thuận giá đất và nhà là 1.220.000.000VNĐ, anh Lò Văn
T1 đã thanh toán số tiền 120.000.000VNĐ ngay sau khi xác lập hợp đồng ngày
19/11/2019, số tiền còn lại anh T1 viết giấy cam kết sẽ thanh toán cho vợ chồng
ông D ngày 10/12/2019. Tuy nhiên, anh Văn T1 không thực hiện đúng cam
kết, mặc dù ông D đã yêu cầu anh T1 trả tiền nhiều lần, cụ thể: Ngày 16/01/2020
anh T1 viết giấy cam kết sẽ thanh toán tiền vào ngày 21/01/2020, tuy nhiên
anh T1 không trả. Ngày 21/02/2020 sau khi đã quá hạn 01 tháng, anh T1 thanh
toán tiếp 200.000.000VNĐ, còn 900.000.000V anh T1 hẹn đến ngày
30/02/2020 sẽ trả thể hiện bằng các giấy biên nhận, giấy cam kết do nguyên đơn
cung cấp. Ngày 29/02/2020, anh T1 trả tiếp cho ông D 100.000.000VNĐ. Tổng
số tiền anh Văn T1 đã thanh toán cho vợ chồng ông D 420.000.000VNĐ.
Số tiền còn còn chưa thanh toán 800.000.000VNĐ, anh T1 tiếp tục viết giấy
cam kết hẹn nếu đến ngày 28/03/2020 nếu không trả hết nợ sẽ chịu phạt 200%
trên số tiền nợ còn lại và vợ chồng ông D quyền khởi kiện đến tòa án để hủy
bỏ hợp đồng. Như vậy bị đơn Văn T1 đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền
giữa hai bên theo hợp đồng.
Tại Văn bản ngày 17/3/2022 của Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn H, huyện
M thể hiện, ngày 07/01/2020 anh Lò Văn T1 thế chấp bảo lãnh để vay tiền tại
quỹ tín dụng cho người htên Nguyễn Anh D2 trong đó 01 giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Hải D, ngày 01/9/2020 đã thanh toán
4
xong và quỹ tín dụng đã trả lại giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất.
Đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/11/2019 có
nội dung ghi với giá chuyển nhượng 100.000.000VNĐ, số công chứng 2883
tại Văn phòng C1 thực hiện do Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện M
cung cấp cho Toà án: Ông D, bà B không nhớ có ký hợp đồng này hay không do
cũng không để ý các giấy tờ do anh T1 đưa cho ký. Tuy nhiên thực tế các bên
thỏa thuận giao kết hợp đồng mua bán với giá 1.220.000.000VNĐ. Việc ghi
giá trị chuyển nhượng 100.000.000VNĐ dấu hiệu trốn tránh nghĩa vụ tài
chính đối với Nhà nước nên thuộc trường hợp vi phạm điều cấm của pháp luật,
do đó cần tuyên bố vô hiệu.
Việc xác lập hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 09/9/2020 giữa anh
Nguyễn Thành T2, chị Thị N1 Văn T1, Thị T3 đối với thửa đất
tài sản theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0932642 mang tên Nguyễn
Hải D do Ủy ban nhân dân tỉnh S cấp ngày 03/6/1999, hình thức của hợp đồng
phù hợp, đã được công chứng theo quy định. Tuy nhiên, tại thời điểm chuyển
nhượng anh Văn T1 chưa thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán tiền cho ông
Nguyễn Hải D theo Hợp đồng đã ngày 19/11/2019, các bên đang tranh
chấp về thực hiện quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng chuyển nhượng. Hợp đồng này
vi phạm quy định của pháp luật, do bên chuyển nhượng Văn T1 hành vi
lừa dối theo quy định tại Điều 127 Bộ luật dân sự, chưa đủ điều kiện vquyền
của người sử dụng đất quy định tại Điều 188 Luật đất đai. Do đó hợp đồng
hiệu, anh T2 không đủ điều kiện để đòi lại tài sản nhà và đất của ông D.
Nguyên đơn yêu cầu:
- Tuyên bố hợp đồng kinh tế về mua bán quyền sử dụng đất số D0932642
mang tên Nguyễn Hải D giữa ông D, bà B anh T1 giá chuyển nhượng
1.220.000.000VNĐ có số công chứng 2882 ngày 19/11/2019 là vô hiệu;
- Tuyên bố hợp đồng kinh tế về mua bán quyền sử dụng đất số D0932642
mang tên Nguyễn Hải D giữa ông D, bà B anh T1 giá chuyển nhượng
100.000.000 VNĐ có số công chứng 2883 ngày 19/11/2019 là vô hiệu;
- Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người liên quan có yêu cầu độc lập.
- Rút yêu cầu phạt cọc và phạt vi phạm đối với anh Lò Văn T1.
- Đề nghị hủy bỏ c n bản do Chi nhánh văn phòng đăng đất đai
huyện M, UBND huyện M đã đăng biến động đất đai cho anh Văn T1 tại
thửa đất số 03, diện tích 90m
2
tại tiểu khu A, thị trấn H, huyện M theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Hải D do UBND huyện M
cấp năm 1999 buộc Văn T1 phải trả lại Giấy chứng nhận quyền sdụng
đất mang tên Nguyễn Hải D.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Văn T1, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Thị T3 cố ý giấu địa chỉ, nơi trú, không mặt theo
thông báo của Tòa án, không đưa ra quan điểm về yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
5
Tại đơn đề nghị ngày 20/10/2021 trong quá trình giải quyết vụ án,
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập anh Nguyễn Thành
T2 và người đại diện theo ủy quyền Nguyễn Thị Thùy N trình bày:
Ngày 07/09/2020, anh Nguyễn Thành T2 mua 01 thửa đất tài sản
gắn liền với đất là ngôi nhà hai tầng mang tên Văn T1, Thị T3 địa chỉ
tại tiểu khu A, thị trấn H, huyện M. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang
tên chính chủ ông Văn T1 bà Thị T3 được Chi nhánh văn phòng đăng
ký đất đai huyện M chỉnh lý tại mặt bốn của giấy chứng nhận vào ngày
03/12/2019 với giá chuyển nhượng là 1.300.000.000VNĐ, đã thanh toán một lần
cho gia đình ông Lò Văn T1.
Tại thời điểm anh T2 mua đất nhà của gia đình anh Văn T1 thì a
đỏ đang được thế chấp tại Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn H từ ngày 21/01/2020
anh T2 đã trực tiếp nộp tiền vào Quỹ đlấy bìa đỏ thực hiện để làm thủ tục
xóa thế chấp thực hiện lập hợp đồng chuyển nhượng theo quy định tại phòng
C2. Tại buổi làm việc đó ông Văn T1 đã dùng 03 giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất để thế chấp cho 01 khoản vay, ngày hôm đó anh T2 thanh toán
1.700.000.000VNĐ hoặc 2.100.000.000VNĐ thì không nhớ chính xác, hôm đó
chị N đi cùng anh T2. Khi mua bán hai bên đã bàn giao tài sản nhà đất,
trên căn nhà còn có biển đề tên Hợp tác xã của ông T1, ngoài ra không có người
khác đang sinh sống ở đó.
Do chưa nhu cầu sử dụng ngôi nhà nên anh T2 không thường xuyên
kiểm tra nhà, tuy nhiên đến đầu năm 2021 tanh T2 thấy người đang sử
dụng ngôi nhà này là ông Nguyễn Hải D, chủ nhà cũ. Việc gia đình ông D và gia
đình ông T1 vướng mắc với nhau vtiền bạc hay nợ nần nhau thì anh T2
không biết.
Anh đề nghị Tòa án nhân dân huyện Mcăn cứ vào quy định của pháp luật
bảo vệ quyền lợi của anh với cách người thứ ba ngay tình: Buộc ông
Nguyễn Hải D, bà Nguyễn Thị B bàn giao thửa đất số 03, diện tích 90m
2
tại tiểu
khu A, thị trấn H, huyện M, tỉnh Sơn La ngôi nhà đúng hiện trạng ranh giới,
mốc giới thửa đất và tài sản trên đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã
cấp công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Nguyễn
Thành T2 và Lò Văn T1.
Tại phiên toà ngày 12/8/2024, người đại diện theo uỷ quyền của anh
Nguyễn Thành T2 yêu cầu bổ sung buộc ông D, B phải bồi thường thiệt hại
về việc chiếm giữ nhà trái phép với số tiền 300.000.000 VNĐ (là khoản tiền
lãi của số tiền 1.300.000.000đ kể từ khi anh T2 nhận chuyển nhượng Quyền sử
dụng đất từ anh T1).
Quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - chị
Thị N1 (vợ anh Nguyễn Thành T2) không mặt, không ý kiến về việc giải
quyết vụ án. Tuy nhiên người đại diện theo ủy quyền của chị N1 Nguyễn
Thị Thùy N nhất trí với ý kiến của anh T2.
Tại văn bản trình bày ý kiến của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan -
6
ông Lê Hải X - Trưởng văn phòng C1 trình bày :
Ngày 19/11/2019, Văn phòng C1 thụ lý hai hồ của ông Nguyễn Hải D,
Nguyễn Thị B ông Văn T1 về hợp đồng kinh tế chuyển nhượng quyền
sử dụng đất số công chứng 2882 và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
số 2883 Quyển số 02/TP-CC-SCC/HĐGD. Quan điểm của phòng công chứng
như sau: Hai hợp đồng này mang tính chất hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình giao
dịch và thanh toán của hai bên, có hợp đồng đặt cọc thì phải có hợp đồng chuyển
nhượng trong hợp đồng đặt cọc đã nêu mục đích của đặt cọc nhằm mục đích
giao dịch và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Thủ tục công chứng các Hợp đồng trên được thực hiện theo Điều 40, Điều
41 Luật công chứng năm 2014. Qua điểm của Văn phòng C1 về đề nghị của
nguyên đơn ông Nguyễn Hải D Nguyễn Thị B tuyên văn bản công
chứng hiệu do vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền. Do đó, đề nghị Tòa án căn
cứ vào quy định của pháp luật cả hai văn bản công chứng đều thực hiện đúng
trình tự thủ tục quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành các biện pháp thu thập
chứng cứ để giải quyết vụ án như: Xác minh địa chỉ của bị đơn để xác định hiện
Văn T1 Thị T3 vẫn hộ khẩu thường trú và nơi trú tại thôn T,
H, huyện M, tỉnh Sơn La trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn cố ý giấu địa
chỉ gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
Ngày 15/5/2024, Tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ định
giá tài sản đối với thửa đất số 03, diện tích 90m
2
, địa chỉ: Tiểu khu A, thị trấn H,
huyện M theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn n D3
(Nguyễn Hải D) do UBND huyện M cấp ngày 03/6/1999, kết quả: Tổng diện
tích đất được đo đạc thực tế tại buổi xem xét, thẩm định tại chỗ 141,3m
2
.
Toàn bộ thửa đất được xây dựng công trình trên đất có ranh giới rõ ràng với các
hộ liền kề, không có tranh chấp về giáp ranh.
Trong đó:
- Diện ch đất trong hành lang giao thông 21,1m
2
gồm sân rào sắt
bao quanh có diện tích 18,6m
2
, phần bán mái tôn cửa xếp sắt có diện tích 2,5m
2
.
- Diện ch đất nằm ngoài hành lang giao thông: Phần bán mái tôn 7,1m
2
;
Nhà chính 68,7m
2
, nhà hai tầng xây kiên cố, tường, rầm, sàn khung tông
cốt thép chịu lực; Nhà vệ sinh 7m
2
, đổ trần tông; Bể nước 5,7m
2
; Phần đất
trống phía sau 22,9m
2
;
Tứ cạnh tiếp giáp: Phía Tây Bắc giáp đường QL6: 5m; Phía Đông Bắc
giáp hộ ông B, Á: Phía Tây Nam giáp đất hộ ông B1, T4; Phía Đông Nam
giáp đất nhà văn hóa Tiểu khu A, thị trấn H.
Vị trí, hình thể thửa đất được thể hiện trong đồ trích đo địa chính thửa
đất do Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Sơn La thực hiện theo hợp đồng đo đạc
với Tòa án.
Trong đó, phần diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
7
đất tính từ chỉ giới theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sâu vào đất 18m:
90m
2
, diện tích đất còn lại phía sau chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
Kết quả định giá của Hội đồng định giá tài sản đối với đất tài sản trên
đất là 1.230.000.000VNĐ.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 25A/2022/DS-ST ngày 12/9/2022 của Tòa
án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xét xử và Quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hải D, Nguyễn Thị B về
việc:
- Tuyên bố hợp đồng vô hiệu:
+ Hợp đồng kinh tế về Mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối
với thửa đất số 3, tổng diện tích 90m
2
tài sản gắn liền với đất Nhà xây II
tầng và các công trình trên đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D
0932642 mang tên Nguyễn Hải D do Ủy ban nhân dân tỉnh S cấp ngày
03/6/1999 giữa ông Nguyễn Hải D, Nguyễn Thị B anh Văn T1 giá
chuyển chuyển nhượng 1.220.000.000VNĐ được công chứng số 2882 tại Văn
phòng C1 ngày 19/11/2019 là vô hiệu.
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 3, tổng
diện tích 90m
2
tài sản gắn liền với đất Nhà xây II tầng các công trình
trên đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0932642 mang tên
Nguyễn Hải D do Ủy ban nhân dân tỉnh S cấp ngày 03/6/1999 giữa ông Nguyễn
Hải D, bà Nguyễn Thị B anh Văn T1, chị Thị T3 giá chuyển chuyển
nhượng 100.000.000V được công chứng số 2883 tại Văn phòng C1 ngày
19/11/2019 là vô hiệu.
- Về giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu giải quyết yêu cầu phạt
cọc, phạt vi phạm:
+ Ông Nguyễn Hải D, Nguyễn Thị B được tiếp tục sử dụng quyền s
dụng đất đối với thửa đất s3, tổng diện tích 90m
2
tài sản gắn liền với đất
Nhà xây II tầng và các công trình trên đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số D 0932642 mang tên Nguyễn Hải D do Ủy ban nhân dân tỉnh S cấp ngày
03/6/1999 (có sơ đồ kèm theo).
+ Ông Nguyễn Hải D, Nguyễn Thị B phải trả lại cho bị đơn Lò Văn
T1, Lê Thị T3 toàn bộ số tiền đã nhận là 420.000.000đ (Bốn trăm hai mươi triệu
đồng).
+ Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hải D, bà Nguyễn Thị B về
yêu cầu phạt cọc, phạt vi phạm đối với bị đơn.
+ Khi bản án hiệu lực pháp luật, ông D, B quyền thực hiện thủ
tục đăng biến động lại tại Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện M
trên sở bản án hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc xin cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mới theo quy định của Luật đất đai và các văn bản pháp
luật liên quan. Anh Nguyễn Thành T2 trách nhiệm nộp lại bản gốc giấy
8
chứng chứng quyền sử dụng đất số D 0932642 mang tên Nguyễn Hải D do Ủy
ban nhân dân tỉnh S cấp ngày 03/6/1999 cho ông D, bà B.
- Về yêu cầu độc lập: Bác yêu cầu đòi tài sản của người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập anh Nguyễn Thành T2, chị Thị N1 về
việc buộc ông Nguyễn Hải D, Nguyễn Thị B phải trả lại tài sản theo thửa đất
số 3, tổng diện tích 90m
2
và tài sản gắn liền với đất nhà xây II tầng các
công trình trên đất tại tiểu khu A, thtrấn H theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số D 0932642 mang tên Nguyễn Hải D do Ủy ban nhân dân tỉnh S cấp
ngày 03/6/1999.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng khác quyền kháng
cáo cho các đương sự.
Tại bản án dân sgiám đốc thẩm số: 73/2023/DS-GĐT ngày 22/11/2023
của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử và Quyết định:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 337, Điều 342; khoản 3 Điều 343 Bộ luật Tố
tụng dân sự.
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số: 15/2023/KN- DS
của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
2. Hủy toàn bộ Bản án dân sự thẩm số: 25A/2022/DS-ST ngày
12/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
3. Giao hồ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La để
xét xử sơ thẩm lại theo theo đúng quy định của pháp luật.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 07/2024/DS-ST ngày 16/8/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xét xử và Quyết định:
Căn cứ Điều 168, Điều 188 Luật đất đai năm 2013; Điều 122, Điều 123,
Điều 124, Điều 131, Điều 502, Điều 503 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 5,
Điều 40, Điều 46; Điều 52 Luật công chứng năm 2014; Điều 147, Điều 158,
Điều 165, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 26, khoản 3 Điều 27 Ngh quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hải D, Nguyễn Thị B về
việc:
- Tuyên bố hợp đồng vô hiệu:
+ Hợp đồng kinh tế về Mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối
với thửa đất số 3, tổng diện tích 90m
2
tài sản gắn liền với đất Nhà xây II
tầng và các công trình trên đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D
0932642 mang tên Nguyễn Hải D do Ủy ban nhân dân tỉnh S cấp ngày
03/6/1999 giữa ông Nguyễn Hải D, Nguyễn Thị B anh Văn T1 giá
chuyển chuyển nhượng 1.220.000.000VNĐ được công chứng số 2882 tại Văn
phòng C1 ngày 19/11/2019 là vô hiệu.
9
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 3, tổng
diện tích 90m
2
tài sản gắn liền với đất Nhà xây II tầng các công trình
trên đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0932642 mang tên
Nguyễn Hải D do Ủy ban nhân dân tỉnh S cấp ngày 03/6/1999 giữa ông Nguyễn
Hải D, bà Nguyễn Thị B anh Văn T1, chị Thị T3 giá chuyển chuyển
nhượng 100.000.000V được công chứng số 2883 tại Văn phòng C1 ngày
19/11/2019 là vô hiệu.
- Về giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu giải quyết yêu cầu phạt
cọc, phạt vi phạm:
+ Ông Nguyễn Hải D, Nguyễn Thị B được tiếp tục sử dụng quyền s
dụng đất đối với thửa đất s3, tổng diện tích 90m
2
tài sản gắn liền với đất
Nhà xây II tầng và các công trình trên đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số D 0932642 mang tên Nguyễn Hải D do Ủy ban nhân dân tỉnh S cấp ngày
03/6/1999 (có sơ đồ kèm theo).
+ Ông Nguyễn Hải D, Nguyễn Thị B phải trả lại cho bị đơn Văn
T1, Lê Thị T3 toàn bộ số tiền đã nhận là 420.000.000đ (Bốn trăm hai mươi triệu
đồng).
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi nh án cho
đến khi thi hành xong tất cả khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian
chưa thi hành án.
+ Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hải D, bà Nguyễn Thị B về
yêu cầu phạt cọc, phạt vi phạm đối với bị đơn.
+ Khi bản án hiệu lực pháp luật, ông D, bà B quyền thực hiện thủ
tục đăng biến động lại tại Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện M
trên sở bản án hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc xin cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mới theo quy định của Luật đất đai và các văn bản pháp
luật liên quan. Anh Nguyễn Thành T2 trách nhiệm nộp lại bản gốc giấy
chứng chứng quyền sử dụng đất số D 0932642 mang tên Nguyễn Hải D do Ủy
ban nhân dân tỉnh S cấp ngày 03/6/1999 cho ông Nguyễn Hải D, bà Nguyễn Thị
B.
2. Không chấp nhận yêu cầu đòi tài sản của người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan yêu cầu độc lập anh Nguyễn Thành T2 về việc buộc ông Nguyễn
Hải D, Nguyễn Thị B phải trả lại i sản theo thửa đất số 3, tổng diện tích
90m
2
tài sản gắn liền với đất nhà xây II tầng và các công trình trên đất tại
tiểu khu A, thị trấn H theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sD 0932642
mang tên Nguyễn Hải D do Ủy ban nhân dân tỉnh S cấp ngày 03/6/1999.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng khác quyền kháng
cáo cho các đương sự.
10
Do không nhất t với Bản án dân sự sơ thẩm, ngày 12/09/2024 chị
Nguyễn Thị Thùy N làm đơn kháng toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số:
07/2024/DS-ST ngày 16/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn
La. Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm huỷ kết quả xét xử do vi phạm nghiêm trọng
đến quyền, nghĩa vụ hợp pháp của anh Nguyễn Thành T2 chThị N1
người thứ ba ngay tình.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ý kiến tranh luận của chị Nguyễn Thị Thùy N người đại diện theo uỷ
quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Thị N1 người đại
diện theo uỷ quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc
lập anh Nguyễn Thành T2: Giữ nguyên nội dung kháng toàn bộ bản án dân sự sơ
thẩm; Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm hu bản án dân sự thẩm số:
07/2024/DS-ST ngày 16/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn
La, do vi phạm nghiêm trọng đến quyền, nghĩa vụ hợp pháp của anh Nguyễn
Thành T2 và chị Lò Thị N1 là người thứ ba ngay tình.
Ý kiến tranh luận của nguyên đơn ông Nguyễn Hải D bà nguyễn Thị B,
người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Đề nghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị Thùy N là người đại diện theo
uỷ quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị N1 và người đại
diện theo uỷ quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc
lập anh Nguyễn Thành T2. Đề nghị gi nguyên Bản án dân sự thẩm số:
07/2024/DS-ST ngày 16/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn
La.
Kiểm sát viên phát biểu việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán,
Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa những người tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án, đã chấp hành thực hiện đúng các quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự.
Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên đề nghị: Căn cứ khoản 1
Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số:
07/2024/DS-ST ngày 16/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn
La.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án; ý kiến
trình bày của các đương sự; n cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; quan
điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về xác định quan hpháp luật: Nguyên đơn ông Nguyễn Hải D,
Nguyễn Thị B khởi kiện về việc: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất đề nghị hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
nguyên đơn đối với bị đơn anh Văn T1. Người quyền lợi nghĩa vụ
liên quan yêu cầu độc lập anh Nguyễn Thành T2 đề nghị Tòa án xem xét
11
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được ký kết giữa anh
Văn T1 anh Nguyễn Thành T2. Đối tượng của các hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất là thửa đất số 3 diện tích 90m
2
tại tiểu khu A, thị trấn
H, huyện M, tỉnh Sơn La đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: D
0932642 mang tên Nguyễn Hải D do UBND tỉnh S cấp ngày 03/6/1999. Quyền
sử dụng đất đã được đăng ký biến động đất đai sang tên anh Văn T1, chị
Thị T3 vào ngày 03/12/2019. Căn cứ quy định tại khoản 3, khoản 9 Điều 26,
điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Điều 203 Luật đất đai
năm 2013. Tòa án cấp thẩm thụ vụ án xác định quan hệ pháp luật
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền s dụng đất hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu là có căn cứ, đúng quy định của pháp
luật.
[1.2] Về thời hạn kháng cáo: Tại Bản án án dân sự thẩm số:
07/2024/DS-ST ngày 16/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn
La đã tuyên quyền kháng cáo, kháng nghị theo quy định. Đến ngày 10/9/2024
Toà án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La nhận được đơn kháng cáo của chị
Nguyễn Thị Thùy N. Đơn kháng cáo quá hạn đã được Tòa án nhân tỉnh Sơn La
chấp nhận kháng cáo quá hạn của chị Nguyễn Thị Thùy N. Xét thấy chị N kháng
cáo trong thời hạn luật định, thực hiện đầy đủ quyền nghĩa vụ của người
kháng cáo theo quy định tại Điều 271, Điều 272, Điều 273, Điều 276 Bộ luật Tố
tụng dân sự. Vụ án được giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[1.3] Về sự vắng mặt của các đương sự:
Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, nguyên đơn, người bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của nguyên đơn đều mặt; anh Nguyễn Thành T2, chị Thị N1
vắng mặt nhưng người đại diện theo uỷ quyền của anh Nguyễn Thành T2
chị Thị N1 mặt tại Tòa án, đã chấp hành đúng quy định. Người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C1 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Bị đơn anh Văn T1, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Thị
T3 không mặt trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp thẩm phúc thẩm.
Xét nguyên đơn đã ghi đúng địa chỉ của bị đơn. Quá trình giải quyết vụ án, Toà
án đã tiến hành xác minh nơi cư trú của bị đơn tại Công an xã H và Ban Q, xã H,
huyện M xác định anh T1, chị T3 hiện vẫn đang hộ khẩu thường trú tại thôn
T, H, chưa cắt chuyển khẩu và chưa đăng tạm trú tại địa chỉ khác. Toà
án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng của Toà án thực hiện thtục
thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc thụ giải
quyết vụ án theo yêu cầu của nguyên đơn. Tuy nhiên bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan chị Thị T3 cố ý giấu địa chỉ, không có mặt để tham gia tố
tụng cũng không cung cấp cho Toà án địa chnơi trú hiện tại. Sau khi ban
hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án cấp phúc thẩm đã tiếp tục tiến hành
niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đương sự tới tham gia
phiên toà tại nơi trú cuối cùng của anh T1, chị T3 tại thôn T, H, Ủy ban
nhân dân xã H và tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La nhưng
anh T1, chị T3 vắng mặt không do. Căn cứ Điều 227, Điều 228, Điều 296
12
của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bđơn Văn
T1, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lê Thị T3, Văn phòng C
[2] Về nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Về nguồn gốc diện tích đất đang tranh chấp: Diện tích đất 90m
2
đã
chuyển nhượng trong hợp đồng đang tranh chấp nguồn gốc đất của ông
Nguyễn Hải D Nguyễn Thị B. Gia đình ông đã được Ủy ban nhân dân
tỉnh S cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: D 0932642 mang tên Nguyễn
Hải D cấp ngày 03/6/1999. Địa chỉ thửa đất tại Tiểu khu A, thị trấn H, huyện M,
tỉnh Sơn La.
[2.2] Về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn
ông Nguyễn Hải D, bà Nguyễn Thị B với bị đơn anh Lò Văn T1:
Ngày 19/11/2019, Văn phòng C1 đã lập 02 hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Hải D và bà Nguyễn Thị
B, bên nhận chuyển nhượng là anh Văn T1. Diện tích đất được chuyển
nhượng là thửa đất số 03, tổng diện tích 90m
2
tài sản gắn liền với đất nhà
xây 02 tầng các công trình trên đất tại tiểu khu A, thị trấn H, huyện M, tỉnh
Sơn La. Cả hai hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đều được Văn
phòng C1 công chứng vào ngày 19/11/2019.
Cả 02 hợp đồng đều hình thức giống nhau, tuy nhiên khác về chủ thể
tham gia kết hợp đồng. Hợp đồng đã được công chứng số 2882 được kết
giữa nguyên đơn ông Dũng B2 và bị đơn anh T1. Hợp đồng đã được công
chứng số 2883 thêm bên nhận chuyển nhượng chị Thị T3 vợ bị đơn
Lò Văn T1. Thời điểm ký kết hợp đồng hai bên đều có đủ năng lực, trách nhiệm
hành vi dân sự theo Điều 69 Bộ luật Tố tụng dân sự.
1. Xét hợp đồng thứ nhất - Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
đã được công chứng số 2882 ngày 19/01/2019:
Hợp đồng có nội dung: Bên chuyển nhượng ông Nguyễn Hải D,
Nguyễn Thị B - Bên nhận chuyển nhượng anh Văn T1 quyền sử dụng đất
và nhà ở đã nói trên với giá chuyển nhượng là 1.220.000.000 đồng, phương thức
thanh toán bằng tiền mặt. Anh Văn T1 đã thanh toán cho ông D, B
120.000.000 đồng tại ngày giao kết hợp đồng. Tại Điều 3 trong Hợp đồng có
ghi: Việc thanh toán số tiền 1.100.000.000VNĐ sẽ được bên B thanh toán cho
bên A vào ngày 10/12/2019. Việc thanh toán số tiền nêu tại Điều 2 của hợp đồng
này do hai bên thực hiện phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công chứng số 2882 giá trị chuyển
nhượng 1.220.000.000 đồng phù hợp với giá trị thực tế của tài sản được
xác định hợp đồng thực tế được xem xét để xem xét quyền nghĩa vụ của
các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Bị đơn anh Văn T1 đã trả trước
cho nguyên đơn số tiền 120.000.000 đồng tại thời điểm lập hợp đồng. Stiền
1.100.000.000 đồng còn lại anh T1 thoả thuận sẽ thanh toán đủ cho ông D, B
vào ngày 10/12/2019. Ngoài ra còn giấy cam kết của anh T1 về việc sẽ thanh
toán số tiền 1.100.000.000 đồng theo Hợp đồng cho vợ chồng ông D vào ngày
13
10/12/2019; Giấy cam kết ngày 16/01/2020 anh T1 cam kết sẽ thanh toán tiền
vào ngày 21/01/2020; Giấy biên nhận ngày 21/02/2020 anh T1 thanh toán
200.000.000 đồng cho bà B, còn 900.000.000 đồng anh T1 hẹn đến ngày
30/02/2020; Ngày 27/02/2020, anh T1 trả tiếp cho bà B 100.000.000 đồng. Tổng
cộng số tiền anh Văn T1 đã thanh toán cho vợ chồng ông Dũng B2
420.000.000 đồng. Số tiền còn còn chưa thanh toán là 800.000.000 đồng, anh
Văn T1 tiếp tục viết giấy cam kết với nội dung: Hẹn đến ngày 28/03/2020 nếu
không trả hết nợ schịu phạt 200% trên số tiền nợ còn lại vợ chồng ông
Nguyễn Hải D quyền khởi kiện đến Tòa án để hủy bỏ hợp đồng.
Xét thấy bđơn anh Văn T1 đã vi phạm hợp đồng, xác định anh
Văn T1 đã cố ý lừa dối ông D, bà B2 để xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 19/11/2019. Sau khi nhận được sự tin tưởng của người chuyển
nhượng, anh Văn T1 thực hiện các giao dịch chuyển nhượng khác để thu lợi,
không thanh toán tiền đầy đủ cho bên chuyển nhượng ông Nguyễn Hải D
Nguyễn Thị B theo như nội dung ghi trong hợp đồng. Tòa án cấp thẩm xác
định lỗi dẫn tới hợp đồng hiệu do bên bị đơn anh Văn T1 không thanh
toán đầy đủ sở. Do đó việc nguyên đơn ông D, B yêu cầu tuyên hủy
hợp đồng ngày 19/11/2019 vô hiệu là có căn cứ, nguyên đơn có quyền đòi lại tài
sản theo Điều 332 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Xét hợp đồng thứ hai - Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã
được công chứng số 2883, ngày 19/11/2019:
Hợp đồng số 2883 có giá trị chuyển nhượng đất 100.000.000 đồng, bên
anh T1 chị T3 nghĩa vụ đăng quyền sử dụng đất nộp các loại thuế,
phí liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hợp đồng. Xét
thấy việc thỏa thuận, lập hợp đồng với giá chuyển nhượng 100.000.000 đồng
do các đương sự thoả thuận, ghi giá thấp hơn giá trị thực tế để chịu thuế thấp
hơn, nhằm trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế, lệ pđối với Nhà nước để che dấu
giá trị thực của hợp đồng 2882. Ngoài ra đến ngày 03/12/2019 khi chưa thanh
toán thì bị đơn anh T1 đã đi đăng ký biến động đất đai bằng một hợp đồng khác.
Do đó hợp đồng 2883 hợp đồng hiệu do giả tạo, căn cứ Điều 124 Bộ luật
dân sự 2015.
Xét thấy hai hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 2882 và 2883
hiệu, phía nguyên đơn được tiếp tục sử dụng thửa đất số 03, diện tích
90m2 và tài sản gắn liền với đất là nhà xây II tầng và các công trình trên đất theo
giấy chứng nhận quyền sdụng đất số D 0932642 mang tên Nguyễn Hải D do
Ủy ban nhân dân tỉnh S cấp ngày 03/6/1999 và giải quyết hậu quả của hợp đồng
hiệu, nguyên đơn phải trả lại cho bị đơn số tiền 420.000.000 đồng đã thanh
toán là đúng theo quy định của pháp luật, căn cứ Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015.
Sau khi Toà án thẩm thụ lại vụ án vào ngày 17/01/2024, quá trình
giải quyết vụ án tại phiên toà ông D, B tnguyện rút yêu cầu phạt cọc,
phạt vi phạm đối với anh Lò Văn T1, Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết yêu
cầu của nguyên đơn là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.
14
[2.3] Về hợp đồng chuyển nhượng giữa anh Văn T1, chị Thị T3
anh Nguyễn Thành T2 chị Thị N1 ý kiến cho rằng anh Nguyễn Thành T2
là người thứ ba ngay tình:
Ngày 09/9/2020 giữa anh Nguyễn Thành T2, chị Thị N1 anh
Văn T1, chị Thị T3 xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyển sử dụng đất
đối với thửa đất số 3, tổng diện tích 90m
2
và tài sản gắn liền với đất là nhà xây II
tầng và các công trình trên đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D
0932642 mang tên Nguyễn Hải D do Ủy ban nhân dân tỉnh S cấp ngày
03/6/1999. Quyền sdụng đất đã được đăng biến động đất đai sang tên anh
Văn T1, chThị T3 vào ngày 03/12/2019 thể hiện tại trang 4 giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Giá chuyển nhượng hai bên thống nhất
1.300.000.000 đồng. Số tiền thoả thuận đã được anh T2 trả thẳng vào Quỹ tín
dụng thị trấn H để xoá thế chấp đối với khoản vay của anh Văn T1 nhận
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rồi lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền s
dụng đất và công chứng theo quy định.
Người đại diện theo uỷ quyền của anh Nguyễn Thành T2 - chị Nguyễn
Thị Thùy N cho rằng: Anh T2 người thứ ba ngay tình khi nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất từ anh Lò Văn T1, tài sản đã được đăng ký biến động
sang tên anh Lò Văn T1.
Tuy nhiên hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Nguyễn Hải D và bà
Nguyễn Thị B anh Văn T1 hiệu do anh T1 không thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng. Thực tế từ khi hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với anh Văn T1 từ ngày 19/11/2019 ông D, B vẫn
người quản lý, sử dụng tài sản từ đó cho đến nay, anh Lò Văn T1 chưa thực hiện
nghĩa vụ thanh toán số tiền chuyển nhượng còn lại theo thoả thuận trong hợp
đồng nên hợp đồng vẫn chưa hoàn thành. Tất cả các tố tụng đối với anh T1, chị
T3 đều đã được Toà án cấp thẩm thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự, các tài liệu do nguyên đơn cung cấp, anh T1, chị T3 không có ý
kiến phản đối nên được Toà án cấp sơ thẩm sử dụng là tài liệu, chứng cứ để xem
xét giải quyết vụ án. Giấy cam kết ngày 29/02/2019 có nội dung anh T1 cam kết
ngày 28/03/2020 sẽ trả nốt số tiền còn lại là 800.000.000 đồng nếu không trả hết
nợ sẽ chịu phạt 200% trên số tiền nợ còn lại vợ chồng ông D quyền khởi
kiện đến tòa án để hủy bỏ hợp đồng. Trên thực tế ông bà Dũng B2 chưa bàn giao
đất và tài sản là nhà đất cho anh Lò Văn T1 và anh Lò Văn T1 chưa bàn giao đất
tài sản trên đất theo thực địa cho anh Nguyễn Thành T2. Ngoài ra hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất được anh T1 sử dụng để thực hiện thủ tục
đăng biến động đất đai tại Chi nhánh văn phòng đăng đất đai huyện M
việc nộp thuế để làm thủ tục sang tên anh Văn T1 giá trị chuyển nhượng
hợp đồng 100.000.000 đồng hợp đồng hiệu do giả tạo, mặt khác việc
chuyển nhượng quyền sdụng đất anh Nguyễn Thành T2 chưa đăng tại
quan nnước thẩm quyền theo khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai. Do đó anh
Nguyễn Thành T2 không thuộc trường hợp người thứ ba ngay tình căn cứ theo
khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự 2015 và để đảm bảo quyền lợi của anh Nguyễn
15
Thành T2, anh T2 quyền khởi kiện anh Văn T1 bằng vụ án dân skhác
khi có yêu cầu.
[4] Đối với yêu cầu ông Nguyễn Hải D, Nguyễn Thị B phải bồi thường
tiền chiếm giữ ntrái phép là 300.000.000 đồng (là khoản tiền lãi của số tiền
1.300.000.000 đồng kể từ khi anh T2 nhận chuyển nhượng Quyền sdụng đất
của anh T1). Quá trình giải quyết vụ án trước khi Toà án cấp thẩm mở phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ hoà giải anh T2, chị
N1 không ý kiến đề nghị về khoản tiền, tại phiên tòa người đại diện theo ủy
quyền của anh T2, chị N1 ý kiến yêu cầu ông D, bà B phải bồi thường số tiền
300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) vượt quá yêu cầu độc lập, Tòa án cấp
thẩm không xem xét giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật
Tố tụng dân sự là có căn cứ đúng pháp luật.
[5] Đối với yêu cầu huỷ đăng biến động đất đai sang tên quyền sử
dụng đất cho anh Văn T1, chị Thị T3 đã thực hiện vào ngày 03/12/2019.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được anh T1 sử dụng để thực hiện
thủ tục đăng biến động đất đai tại Chi nhánh văn phòng đăng đất đai
huyện M là hợp đồng vô hiệu do giả tạo. Yêu cầu huỷ đăng ký biến động đất đai
của ông D, B căn cứ cần được chấp nhận. Luật đất đai năm 2013 chỉ
quy định các trường hợp hủy, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
không quy định hủy phần đính chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trường hợp này sau khi có bản án, quyết định có hiệu lực của pháp luật. Ông D,
B quyền thực hiện thủ tục đăng ký biến động lại tại Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai huyện M trên sở Bản án hiệu lực pháp luật của Tòa án
hoặc xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới theo quy định của Luật
đất đai và các văn bản pháp luật có liên quan.
Từ những phân tích nêu trên không chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn
Thị Thùy N, người đại diện theo uỷ quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan chị ThN1 người đại diện theo uỷ quyền của người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập anh Nguyễn Thành T2, giữ nguyên
bản án dân sự sơ thẩm.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận chị
Nguyễn Thị Thùy N phải chịu án phí dân sự phúc theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự,
2. Không chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị Thùy N, người đại
diện theo uỷ quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Thị N1
người đại diện theo uỷ quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu
cầu độc lập anh Nguyễn Thành T2.
Giữ nguyên bản án dân sự thẩm số: 07/2024/DS-ST ngày 16/8/2024
của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
16
3. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Chị Nguyễn Thị Thùy N phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được khấu
trừ vào số tiền 300.000 đồng án phí phúc thẩm do chị Nguyễn Thị Thùy N đã
nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001390 ngày 09/10/2024
tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án (ngày
09/12/2024).
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi
hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30
Luật Thi hành án”./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Sơn La;
- TAND huyện M;
- Chi cục THADS huyện M;
- VKSND huyện M;
- Các đương sự;
- Phòng KTNV và THA;
- Tổ hành chính tư pháp;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Tuấn Long
17
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT X
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Tuấn Long
Tải về
Bản án số 11/2024/DS-PT Bản án số 11/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 11/2024/DS-PT Bản án số 11/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất