Bản án số 144/2024/DS-PT ngày 09/12/2024 của TAND tỉnh Thanh Hóa về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 144/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 144/2024/DS-PT ngày 09/12/2024 của TAND tỉnh Thanh Hóa về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Thanh Hóa
Số hiệu: 144/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông V1 chuyển nhượng đất cho ông B, hai bên viết giấy tay, không thực hiện việc công chứng, hoặc chứng thực. Nay ông V1 chết, ông B khởi kiện yêu cầu vợ, con ông V1 phải thực hiện tiếp hợp đồng cho ông B.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THANH HÓA
Bản án số: 144/2024/DS-PT
Ngày: 09-12-2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, tranh
chấp hợp đồng vay tài sản.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Mai Nam Tiến
Các Thẩm phán: Ông Vũ Đại Long
Bà Lê Thị Tố Như
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Tài - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Thanh Hóa.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa tham gia phiên tòa:
Lữ Thị Phương Quý - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 05 09 tháng 12 năm 2024, tại trụ sTòa án nhân dân
tỉnh Thanh Hóa xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 82/2024/TLPT-DS
ny 01 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền
s dụng đất; tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 14 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thị xã N, tỉnh Thanh Hóa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm số 99/2024/QĐ-PT ngày
30/10/2024, Quyết định hoãn phiên tòa dân sự phúc thẩm số 101/2024/QĐ-PT
ngày 18/11/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Ngọc B, sinh năm 1958; địa chỉ: Thôn 19, E,
huyện C, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Anh Văn H, sinh năm
1982; địa chỉ: tổ dân phố T, phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn
L, sinh năm 1953; địa chỉ: Tiểu khu 5, phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; vắng
mặt.
2. Bị đơn:
2.1. Thị H1, sinh năm 1964; địa chỉ: tổ dân phố T, phường H, thị
N, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.
2
2.2. Chị Thị H2, sinh năm 1985; địa chỉ: Khu phố 3, phường T, thị
B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
2.3. Chị Thị H3, sinh năm 1986; địa chỉ: Khu phố 3, phường T, thị
B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
2.4. Anh Vũ Hoàng V, sinh năm 1992; địa chỉ: tổ dân phố T, phường H, thị
xã N, tỉnh Thanh Hóa; mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của H1, chị H2, chị H3: Anh Hoàng
V.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các bị đơn: Luật Hồ Minh
L1 - Công ty Luật TNHH L Việt Nam, thuộc Đoàn luật thành phố Nội;
mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Vũ Văn T, sinh năm 1963; địa chỉ: tổ dân phố T, phường H, thị xã
N, tỉnh Thanh Hóa; mặt.
3.2. Thị H4, sinh năm 1968; địa chỉ: thôn N, T, huyện Đ, tỉnh
Thanh Hóa; vắng mặt.
3.3. Bà Vũ Thị H5, sinh năm 1974; địa chỉ: tổ dân phố N, phường H, thị
N, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.
4. Người làm chứng:
4.1. Ông Nguyễn Thái P, sinh năm 1957; địa chỉ: tổ dân phố T, phường H,
thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.
4.2. Ông Văn H6, sinh năm 1969; địa chỉ: tổ dân phố T, phường H, thị
xã N, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.
5. Người kháng cáo: Bị đơn anh Hoàng V; người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ông Văn T, bà Vũ Thị H4, bà Vũ Thị H5.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cũng như trong quá trình giải quyết vụ
án, nguyên đơn ông Lê Ngọc B, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn và
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Vào năm 2002, vợ chồng bà Lê Thị H1, ông Văn V1 cần tiền để xây
nhà nên thoả thuận chuyển nhượng đất cho ông Ngọc B, khi đó ông B
đang làm ăn ở Đắk Lắk nên đã đồng ý mua đất để sau này già về quê có mảnh đất
làm nhà ở. Ông V1, H1 đã bán cho ông B 8m đất tính theo chiều ngang mặt
đường tại thôn T, xã H, huyện T (nay là TDP T, phường H, thịN), tỉnh Thanh
Hóa với giá 10.000.000đ (mười triệu đồng). Vị trí đất cụ thể: Chiều dài: Từ
đường trục đến hết bờ nhà ông P1; chiều rộng: Từ bờ nhà ông T1 đổ về
phía nhà N 8m”. Sau khi chuyển nhượng đất, hai bên làm giấy tờ viết
tay, ông V1 ông B cùng tên vào giấy nhượng đất. Ông B đã đưa đủ số tiền
10.000.000 đồng cho ông V1. Mặc H1 không vào giấy chuyển nhượng
đất nhưng ông B khẳng định việc chuyển nhượng đất thì H1 hoàn toàn biết, vì
3
H1 em gái ruột của ông B, hơn nữa khi đó ông B nghĩ đều anh em người
nhà nên chỉ cần ông V1 đủ. Sau khi nhận chuyển nhượng đất, hai bên đã ra
chỉ ranh giới vị trí, ông B đã xây một hàng gạch cốm để ngăn cách phần đất
chuyển nhượng với phần đất còn lại nhà ông V1 (hiện tại vẫn còn hàng gạch cốm
ngăn cách).
Do ông B nhận thấy giấy viết tay năm 2002 chưa ghi lắm nên đến năm
2007, ông B ông V1 đã làm thêm giấy chuyển nhượng quyền sdụng đất để
ghi cụ thể diện tích đất chuyển nhượng 200m
2
, ghi vị trí: phía Bắc giáp anh
M 8m, phía Nam giáp anh P1 8m, phía Đông giáp chị H7 25m, phía Tây giáp đất
anh V1 25m. Giá chuyển nhượng 10.000.000 đồng. Ông V1 ghi họ tên.
Sau đó hai bên đến báo cáo và xin xác nhận của trưởng thôn, trưởng thôn T là ông
Nguyễn Thái P đã ký và xác nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hai
bên vào ngày 10/7/2007.
Sau khi nhận chuyển nhượng đất, ông B đã nhiều lần yêu cầu ông V1 và bà
H1 sang tên sổ đỏ cho ông B nhưng ông V1 H1 nói rằng sổ đỏ đang thế
chấp ngân hàng để vay tiền, khi nào trả hết nợ ngân hàng thì mới lấy sổ đỏ về
sang tên được.
Năm 2019, ông V1 chết. Đến năm 2022, ông B đã đồng ý cho bà H1 vay số
tiền 50.000.000 đồng để trả nợ ngân hàng, lấy bản gốc giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (GCNQSDĐ) về để sang tên cho ông B. Việc vay nợ lập thành văn
bản là “Giấy cho vay tiền” ngày 05/8/2022. Tuy nhiên, sau khi bà H1 vay tiền của
ông B để trả nợ xong cho Ngân hàng, lấy bản gốc GCNQSDĐ về thì gia đình
H1 lấy do anh Hoàng V (con trai ông V1) không đồng ý bán đất nên gia
đình bà H1 không làm thủ tục sang tên 200m
2
đất cho ông B nữa.
Ông B làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa gia đình ông V1 ông B hợp pháp để ông
được quyền sử dụng đất đối với 200m
2
đất thổ cư nói trên, diện tích đất này thuộc
thửa 253 tờ bản đồ số 7, bản đồ địa chính 299, tại TDP T, phường H, thị N,
tỉnh Thanh Hóa.
Ngày 07/5/2024 ông B bổ sung yêu cầu khởi kiện: Trường hợp nếu Tòa án
tuyên hợp đồng chuyển nhượng đất trên hiệu thì ông B đề nghị Tòa án giải
quyết hậu quả buộc H1 các con của H1 là anh Hoàng V, chị Thị
H2, chị Thị H3 phải hoàn lại cho ông số tiền 10.000.000 đồng ông V1 đã
nhận khi bán đất và bồi thường cho ông số tiền tương ứng với giá trị thửa đất
900.000.000 đồng. Ngoài ra, ông còn yêu cầu Tòa án buộc bà H1 phải trả lại cho
ông số tiền 50.000.000 đồng H1 đã vay ngày 05/8/2022 với mục đích trả
nợ ngân hàng lấy GCNQSDĐ về làm sổ đỏ cho hai bên.
2. Bị đơn bà Lê Thị H1 trình bày như sau:
Bản tự khai ngày 21/11/2022 tại Tòa án nhân dân thị N, Thị H1
trình bày: Bà là vợ của ông Văn V1. Vào ngày 19/6/2002 chồng bà có chuyển
nhượng cho ông Ngọc B diện ch đất chiều dài: Từ đường trục đến hết bờ
nhà ông P1; chiều rộng: Từ bờ nhà ông T1 đổ về phía nhà N 8m với số
4
tiền là 10.000.000 đồng, hai bên giao nhận đủ tiền và có giấy viết tay nhượng đất,
chữ ký của ông V1 và ông B. Ngày 10/9/2019 ông V1 chết. Đến năm 2022 gia
đình ra Ủy ban nhân dân (UBND) phường H, thị N để làm thủ tục tách
sổ đỏ cho ông B nhưng con trai Hoàng V không không đồng ý
chuyển nhượng đất cho ông B nên không làm thủ tục được. Việc chuyển nhượng
đất giữa ông V1 và ông B là đúng, bà hoàn toàn đồng ý, đề nghị Tòa án giải quyết
theo quy định pháp luật.
Đến ngày 29/5/2023 Tòa án nhận được Bản ý kiến của Thị H1 gửi
qua đường bưu điện với nội dung: Trước đây do chỗ người thân tin tưởng
vào giấy nhượng đất viết tay mà ông Lê Ngọc B đưa cho xem nên bà đã xác nhận
việc mua bán đất của gia đình bà với ông B. Thực tế tại thời điểm ngày 19/6/2022
bà không biết, không chứng kiến việc chuyển nhượng đất giữa chồng bà và ông B
nên không rõ thực hư về giấy nhượng đất mà ông B cung cấp cho Tòa, bà xin bác
bỏ toàn bộ yêu cầu của ông B. Từ ngày 10/8/2023 ủy quyền toàn bộ việc giải
quyết vụ án cho anh Vũ Hoàng V nên các phiên hòa giải về sau H1 không đến
Tòa án tham gia hòa giải nữa.
3. Bị đơn chị Vũ Thị H2 trình bày như sau:
Bản tự khai ngày 21/11/2022 tại Tòa án nhân dân thị N, chị Thị H2
trình bày: Chị con gái của ông Văn V1 Thị H1. Vào ngày
19/6/2002 bố chị chuyển nhượng đất cho ông B diện tích đất chiều dài: Từ
đường trục đến hết bờ kè nhà ông P1; chiều rộng: Từ bờ kè nhà ông T1 đổ về phía
nhà bà N là 8m với số tiền là 10.000.000 đồng, hai bên giao nhận đủ tiền và có viết
giấy tờ viết tay. Năm 2019 ông V1 chết. Đến năm 2022 cả gia đình ch ra
UBND phường H, thị xã N để làm thủ tục tách sổ đỏ cho ông B nhưng em trai ch
Hoàng V không giấy cũng không đồng ý chuyển nhượng nên ông B
không làm được thủ tục sang tên.
Ngày 20/4/2023, chị H2 gửi qua đường bưu điện Bản ý kiến nội
dung: Trước đây do chthiếu hiểu biết pháp luật nên nghĩ rằng trên GCNQSDĐ
ghi tên bố chị thì đất của mình bố chị bố chị toàn quyền quyết định bán
cho người khác. Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu quy định của pháp luật thì chị mới
được biết, chị thành viên hộ gia đình sử dụng đất nên cũng quyền sử dụng
đất nêu trên như các thành viên khác của hộ gia đình. Ngoài ra, năm 2002 chị
đang học sinh nên không hiểu biết về việc chuyển nhượng đất cũng không
được hỏi ý kiến về việc này. Thực tế chị không chứng kiến việc chuyển nhượng
đất giữa bố chị ông B nên cũng không thực về Giấy nhượng đất ông
B cung cấp cho Tòa. Chị xin bác bỏ toàn bộ yêu cầu của ông B.
4. Bị đơn anh Vũ Hoàng V trình bày như sau:
Anh con đẻ của ông Hoàng V1. Nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp
của ông nội anh (ông Văn L2 Lê Thị L3) đã sinh sống từ lâu đời
(trước năm 1960), sau khi ông V1 lập gia đình sinh con thì cùng ông nội
trên thửa đất này. Anh cũng sinh ra lớn lên mảnh đất này. Năm 2000, nhà
nước cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Vũ Văn V1. Thời điểm này, hộ gia đình ông V1
5
gồm: Ông nội Văn L2, bố anh ông V1, mẹ anh H1, anh là
Hoàng V, chị gái là Vũ Thị H2 và Vũ Thị H3.
Tại đơn đề nghị ngày 22/11/2022, anh V trình bày “Bố tôi đã bán cho ông
Ngọc B (địa chỉ xóm 4 thôn 19 E, huyện C, tỉnh Đắc Lắc) số diện tích
200m
2
. Khi bố tôi bán nội bộ gia đình chưa thống nhất bố tôi đã ủy quyền cha chú
quyết đoán, bản thân người mua là ông Ngọc B không tìm hiểu kỹ lưỡng
cẩn thận trong giao dịch mua bán, đxảy ra tình trạng tranh chấp kéo dài. Tôi
con trai trưởng con trai duy nhất của ông Hoàng V1 không đồng ý,
UBND phường H giải quyết nhưng không giải quyết được”.
Tại phiên hòa giải ngày 09/5/2024 anh V cho rằng: Việc ông V1 thoả thuận
chuyển nhượng đất cho ông Ngọc B như thế nào thì anh không được biết.
Không ai hỏi ý kiến anh và các chị gái của anh. Mặc dù tại bản tự khai của H1
mẹ anh thừa nhận đã chuyển nhượng đất cho ông Ngọc B nhận đủ
10.000.000 đồng nhưng sau đó mẹ anh đã bản ý kiến khác, không hiểu biết
pháp luật nên trước đây mẹ anh mới khai nvậy. Nay mẹ anh khẳng định
không biết về việc chuyển nhượng đất giữa ông V1 ông B. Quan điểm của
anh là: Do đất này đất cấp cho hộ gia đình thì tất cả các thành viên trong gia
đình phải đồng ý mới được chuyển nhượng. Anh, các chị gái và ông nội anh chưa
biết chưa ý kiến thì việc bố anh chuyển nhượng đất cũng không hợp pháp.
Mặt khác, nay ông V1 đã chết, giấy viết tay ông B đưa ra thì không
quan nào chứng thực đóng dấu nên anh không biết có phải chữ ký của bố anh hay
không. Anh cũng không biết bố anh bán đất cho ông B thật hay không? Nên
anh không chấp nhận giấy chuyển nhượng ông B đưa ra. vậy, đề nghị Tòa
án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bố anh và ông B là vô hiệu. Ông B
yêu cầu gia đình anh phải trả lại 10.000.000 đồng số tiền tương ứng với 200m
2
đất là khoảng 900.000.000 đồng thì anh không đồng ý.
Còn đối với stiền 50.000.000 đồng mẹ anh (bà H1) đã vay ông B để
trả nợ ngân hàng, lấy sổ đỏ ra sang tên cho ông B, thì H1 đồng ý sẽ trả lại số
tiền 50.000.000 đồng này cho ông B. Nay H1, chị H2, chị H3 đều bận công
việc nên đã uỷ quyền tham gia tố tụng tại Tòa án cho anh V. Ý kiến của H1,
chị H2, chị H3 đều cùng quan điểm với anh V như trên.
5. Ý kiến trình bày của bị đơn chị Vũ Thị H3 (sinh năm 1986) trình bày:
Ngày 14/8/2000, hộ gia đình chị được UBND huyện T cấp GCNQSDĐ số
R 026211 đối với thửa đất diện tích 896m
2
tại địa chỉ: thôn T, H, thị N,
tỉnh Thanh Hóa. Hộ gia đình chị gồm 05 thành viên là: Ông Vũ Văn V1 (bố chị),
Thị H1 (mẹ chị), Thị H2 (chị gái của chị), Hoàng V (em trai của
chị) chị Thị H3. Thực tế chị không chứng kiến việc chuyển nhượng đất
giữa bố chị ông B nên không thực về việc chuyển nhượng đất như thế
nào chị cũng không thực hiện giao dịch chuyển nhượng nào với ông Ngọc
B. Do chị là thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất nên việc chuyển nhượng
quyền sdụng đất của hộ gia đình (nếu có) không được sự đồng ý của chị
6
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chị. Do vậy, chị bác bỏ toàn bộ yêu
cầu của ông Lê Ngọc B theo đơn khởi kiện.
6. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vũ Văn T trình bày:
Ông là con đẻ của ông Văn L2 Thị L3. Nguồn gốc thửa đất
đang tranh chấp của ông L2 L3 đã sinh sống từ khoảng trước năm 1960.
Sau khi L3 mất năm 1998, ông L2 các con sinh sống trên đất. Đến năm
2003, ông L2 mất. Ông Vũ Văn V1, vợ H1 các con anh V, chị H2, chị
H3 cùng sinh sống trên đất. Theo ông T, thửa đất này nguồn gốc của bố mẹ
ông. Nay bố mẹ ông đã chết nên ông các em của ông H4, H5 cũng
phải quyền lợi. Ông nghe nói khi còn sống khoảng năm 2010, ông V1 tự ý
bán đất cho người khác, c đó vài người hỏi mua đất. Ông đã không đồng ý,
ông có đến nói với ông V1 bác không được bán đất, nhưng ông V1 nói: Đất tôi
trích lục thì tôi bán, ông T nói rằng đất này của bố mẹ, anh không được bán
nhưng anh V1 không nghe. Sau đó, ông T có làm đơn gửi UBND xã H giải quyết,
UBND xã đã hòa giải, thì anh V1 nói vậy anh V1 không bán nữa. Việc mua
bán đất giữa ông V1 ông B cụ thể như thế nào thì ông không biết. Ông giữ
nguyên quan điểm không đồng ý việc chuyển nhượng đất cho ông B. Việc ông
V tự ý chuyển nhượng 200m
2
đất cho ông B từ lúc nào thì ông không biết, việc
chuyển nhượng này là không hợp pháp.
7. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thị H4 (sinh năm 1968)
trình bày:
Bà là con đẻ của ông Vũ Văn L2 và bà Lê Thị L3. Bà cũng cùng quan điểm
với ông Văn T. Trước đây gia đình bà cũng đã từng bất hòa vì việc ông V1 t
ý đứng tên sổ đỏ và tự ý bán đất. Việc ông V1 tự ý chuyển nhượng 200m
2
đất cho
ông B là không hợp pháp. Bà không đồng ý chuyển nhượng đất cho ông B.
8. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Vũ Th H5 trình bày:
Bà là con đẻ của ông Vũ Văn L2 và bà Lê Thị L3. Bà cũng cùng quan điểm
với ông Vũ Văn T và bà Vũ Thị H4. Việc ông V1 tự ý chuyển nhượng 200m
2
đất
cho ông B là không hợp pháp. Bà không đồng ý chuyển nhượng đất cho ông B.
9. Người làm chứng là ông Nguyễn Thái P trình bày:
Ông trưởng thôn T, xã H, huyện T (nay phường H, thị N), tỉnh
Thanh Hóa thời kỳ từ năm 2006 đến năm 2011. Vào năm 2007, ông xác nhận
việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Văn V1 ông Ngọc B,
diện tích chuyển nhượng 200m
2
, stiền chuyển nhượng 10.000.000 đồng. Hai
bên làm giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất viết tay xong mang đến cho
ông xác nhận. Trên giấy chữ ký của ông V1 và ông B đúng sự thật. Ông xác
nhận giấy chuyển nhượng đất viết tay đngày 10/7/2007 ông B nộp cho Tòa
án thị xã N là đúng sự thật.
10. Người làm chứng là ông Lê Văn H6 trình bày:
Ông người cùng thôn với ông V1 ông B, ông không mâu thuẫn
với cả hai bên gia đình. Từ năm 1992 đến năm 2021 ông làm nghề thợ xây và chở
7
vật liệu. Vào năm 2007, ông Ngọc B nhờ ông chở vật liệu gồm xi măng,
gạch cốm, cát để xây móng tường hộ cho ông B vì ông B nói mua đất của ông
V1 nên phải xây móng tường ngăn đất ra. Ông còn nhớ, hôm ông chở gạch cát xi
vào buổi chiều (không nhớ ngày nào), cả ông V1 đang nhà. Ông V1
em vợ ông B, hai bên khi đó vẫn vui vẻ bình thường. Khi ông chở vật liệu đến
đã căng dây cắm cọc sẵn rồi, ông chỉ việc xây móng tường cùng với ông B. Việc
xây tường để ngăn cách phần đất ông B mua của ông V1. Còn việc mua đất
giữa hai bên từ khi nào, mua bao nhiêu tiền thì ông không biết.
11. Công văn số 131/UBND ngày 15/3/2024 Công văn số 287/UBND
ngày 28/5/2024 của UBND phường H về xác định nguồn gốc đất của thửa đất
thành viên hộ gia đình thời điểm cấp GCNQSDĐ:
Theo bản đồ 299 năm 1987 thửa đất được cấp GCNQSDĐ cho hông
Văn V1 là thửa 253, tờ bản đồ số 07, diện tích 896m
2
loại đất T, sổ mục kê tên Lê
Thị L3 là tên mẹ ca ông Vũ Văn V1.
Theo bản đồ địa chính năm 2005 thửa đất số 29, tờ bản đồ số 23, diện
tích 907,4 m
2
loại đất ONT sổ mục kê tên Vũ Văn V1.
Thửa đất trên có nguồn gốc của ông Vũ Văn L2 và bà Lê Thị L3 (bố mẹ đẻ
của ông Vũ Văn V1).
Về thành viên hộ gia đình ông Văn V1 thời điểm cấp GCNQSDĐ: Tại
thời điểm cấp GCNQSDĐ năm 2000, thành viên trong hộ gia đình ông Văn
V1 có 06 người gồm: Ông Vũ Văn V1, Lê Thị H1 (vợ), Vũ Thị H2 (con), Vũ Thị
H3 (con), Vũ Hoàng V (con), Vũ Văn L2 (bố).
12. Kết quả thẩm định tại chỗ:
Phần đất tranh chấp thuộc thửa 253 tờ bản đồ số 07, bản đồ địa chính 299
H, tương ứng với thửa 29 tờ bản đồ số 23 bản đồ địa chính xã H đo vẽ năm
2005 đã được cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Văn V1. Thửa đất nguồn gốc là
của ông Vũ Văn L2 và bà Lê Thị L3.
Phần đất chuyển nhượng 198,8m
2
nằm sát phía đông thửa đất. Vị trí cụ
thể: phía Đông: hai đoạn là 10,79m và 13,02m giáp nhà anh Lê Văn Đ; phía Tây:
25m giáp phần đất còn lại của thửa đất; phía Nam: 8m giáp phần còn lại của thửa
đất; phía Bắc: đoạn 1,91m giáp ngõ đi từ đường nhựa vào; 5,44m giáp nhà anh
Văn H8; 0,65m giáp nhà anh Văn Đ (thể hiện tại bản trích đo hiện trạng thửa
đất).
Về công trình trên đất: Ranh giới phân chia phần đất tranh chấp với phần
còn lại của thửa đất có móng tường bằng gạch cốm đã cũ, dài 23m, cao bằng một
viên gạch cốm. Trên đất một sân bê tông diện tích 5m x 7m.
Về cây cối trên đất: có 01 cây nhãn, 10 cây chuối, 01 cây khế, 01 cây ổi
một số cây hoa màu khác giá trị thấp.
- Kết quả thẩm định giá tài sản:
Theo chứng thư thẩm định giá số 429/2024/CN878-ACM của ng ty
TNHH quản lý và khai thác tài sản AMC xác định:
8
+ Giá trị quyền sử dụng đất tại thửa số 29, tờ bản đồ 23 địa chỉ: Tổ dân phố
T, phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa là: 3.262.350.000đ (Ba tỉ, hai trăm sáu
mươi hai triệu, ba trăm năm mươi nghìn đồng). Chứng thư thẩm định giá xác
định: Theo tập quán địa phương, đất đất vườn được mua bán với đơn giá đ
đồng như nhau, AMC ghi nhận đơn giá đất vườn tương đương với giá đất
theo giá thị trường là 3.500.000đ/m
2
.
+ Sân bê tông: 1.259.000đ (Một triệu, hai trăm năm mươi chín nghìn đồng)
+ Móng tường gạch cốm: 351.900đ (Ba trăm năm mươi mốt nghìn, chín
trăm đồng).
Tại bản án dân sự thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 14/8/2024 và quyết
định sửa chữa, bổ sung bản án thẩm số 17/2024/QĐ-TA ngày 06/9/2024 của
Tòa án nhân dân thị xã N, tỉnh Thanh Hóa quyết định:
* Căn cứ: Điều 117, 118 của Bộ luật dân sự 1995; Điều 66 của Bộ luật dân
sự 2015; Điều 3 của Luật đất đai 1993; Điều 26, 35, 39, 92, 147, 271, 273 của Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004
của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân n tối cao; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
* Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ca ông Lê Ngọc B:
- Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Văn V1 và ông Ngọc B hợp pháp đối với diện ch đất 198,8m
2
(trong đó
50m
2
đất 148,8m
2
đất vườn) tại thửa 253 tờ bản đồ số 7 theo GCNQSDĐ
số 01788 ngày 14/8/2000, địa chỉ: TDP T, phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa.
Vị trí cụ thể:
Phía Đông: Hai đoạn là 10,79m và 13,02m giáp nhà anh Lê Văn Đ.
Phía Tây: 25m giáp phần đất còn lại của thửa đất.
Phía Nam: 8m giáp phần còn lại của thửa đất.
Phía Bắc: Đoạn 1,91m giáp ngõ đi từ đường nhựa vào; 5,44m giáp nhà anh
Lê Văn H8; 0,65m giáp nhà anh Lê Văn Đ.
(Thể hiện tại bản trích đo hiện trạng thửa đất kèm theo Bản án)
Ông B được sử dụng ngõ đi chung ở phía Bắc từ đường nhựa vào.
Các đương s quyền nghĩa vụ liên hệ với quan thẩm quyền để
làm thủ tục cấp GCNQSDĐ theo quy định của pháp luật.
Ông B nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị H1, anh Vũ Hoàng V, chị Vũ Thị H2,
chị Thị H3, ông Vũ Văn T, Thị H4, Thị H5 tổng số tiền
2.385.000đ (hai triệu ba trăm tám mươi lăm nghìn) tiền cây cối sân tông
xây trên đất. Cụ thể: Trả cho H1, anh V, chị H2, chị H3 mỗi người 479.500đ
(bốn trăm bảy mươi chín nghìn năm trăm đồng); trả cho ông T, bà H4, bà H5 mỗi
người 155.70(một trăm năm mươi lăm nghìn bảy trăm đồng).
9
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông Ngọc B. Buộc
Thị H1 phải trả lại cho ông Ngọc B s tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu
đồng).
Ngoài ra, án thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, án phí quyền
kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/8/2024, anh Hoàng V, ông Văn T, Thị H4,
Thị H5 kháng cáo với cùng nội dung: Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa
hủy bản án dân sự thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 14/8/2024 của Tòa án nhân
dân thị N, tỉnh Thanh Hóa và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp thẩm giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Thị H4, Thị H5 vắng mặt tại phiên
tòa lần thứ hai không lý do chính đáng; nguyên đơn không rút đơn khởi kiện,
bị đơn anh Hoàng V, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Văn T
không rút đơn kháng cáo thay đổi nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét
xử tuyên sửa một phần bản án sơ thẩm do Tòa án cấp thẩm quyết định không
đúng pháp luật, cụ thể như sau: Không chấp nhận yêu cầu công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sdụng đất của ông Ngọc B sửa nghĩa vụ chịu án
phí dân sự sơ thẩm cho các bị đơn trong vụ án này. Các đương sự không thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa phát biểu ý kiến:
- V thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư Tòa án
và các bên đương sự đã tuân thủ, thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự (BLTTDS) tại cấp phúc thẩm.
- Vnội dung: Đnghị HĐXX phúc thẩm căn cứ vào khoản 2 Điều 308,
Điều 309 BLTTDS, sửa bản án dân sự thẩm số 11/2024/DS-ST ngày
14/8/2024 của Tòa án nhân dân thị N theo hướng không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn về công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất; chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn anh Hoàng V, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Văn T tuyên hiệu hợp đồng giải quyết hậu quả
của hợp đồng vô hiệu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX phúc thẩm thấy rằng:
[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi xét xthẩm, bị đơn anh Hoàng V,
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Văn T, Thị H4, Thị
H5 đơn kháng cáo trong thời hạn quy định của BLTTDS đã nộp tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm, nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Bà Thị H4, Thị H5 vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm lần thứ hai
không do chính đáng, bị coi từ bỏ việc kháng cáo, nên HĐXX phúc thẩm
căn cứ vào khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự; đình chỉ xét xử phúc thẩm
đối với nội dung kháng cáo của bà H4 và bà H5.
10
[2] Xét nội dung kháng cáo của bị đơn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan:
[2.1] Về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Văn V1
( Hoàng V1) với ông Ngọc B thể hiện tại “Giấy nhượng đất” đ ngày
19/6/2002 và “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đề ngày 11/7/2007:
Theo giấy nhượng đất ngày 19/6/2002 nội dung: “Hiện nay tôi nhượng
lại cho anh Ngọc B một số đất như sau: Chiều dài, từ đường trục đến hết bờ
ông P1. Chiều rộng, từ bờ nhà ông T1, đổ về phía N 8m với g
10.000.000 mười triệu đồng. Tôi đã nhận số tiền mười triệu đồng, đã nhận đủ
số tiền trên. Tôi và anh B đã thống nhất với mọi chi tiết trên”.
Theo giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 11/7/2007 nội dung:
“Nay tôi chuyển nhượng cho anh Lê Ngọc B là 200m
2
. Vị trí cụ thể như sau: Phía
bắc giáp anh M: 8m. Phía nam giáp anh P1: 8m. Phía đông giáp chị H7: 25m.
Phía tây giáp đất anh V1 25m. Với số tiền 10.000.000 (mười triệu đồng). Vậy
tôi làm giấy này đề nghị các cấp thẩm quyền cho tôi được chuyển nhượng số
diện tích trên”.
Nội dung hai giấy nhượng đất này thể hiện ý chí của ông V1 chuyển
nhượng diện tích 200m
2
đất (có tứ cận) cho ông B với giá tiền là 10.000.000
đồng.
Về hình thức các giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ chữ ký của
ông V1 ông B, riêng giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 11/7/2007
còn có xác nhận của trưởng thôn T là ông Nguyễn Thái P, nhưng đều không được
chứng thực hoặc công chứng về nội dung hợp đồng theo quy định tại Điều 707
Bộ luật dân sự năm 1995 và Điều 689 Bộ luật dân sự năm 2005.
Về nội dung giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập không ghi cụ thể
thửa đất nào, GCNQSDĐ không và thuộc quyền quản lý, sử dụng của ai.
Trong giấy chuyển nhượng chỉ ghi chuyển nhượng 200m
2
đất không ghi cụ
thể bao nhiêu m
2
đất ở, bao nhiêu m
2
đất vườn, trong khi đó thể hiện tại
GCNQSDĐ cấp cho hộ ông Văn V1 chỉ 200m
2
đất ở. Trong giấy chuyển
nhượng ghi vị trí, kích thước các cạnh bốn bên đều tiếp giáp với các thửa đt của
các gia đình khác mà không có phần nào tiếp giáp với đường hoặc ngõ. Theo biên
bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 19/7/2024 của Tòa án nhân dân thị N
cũng thể hiện thửa đất không lối đi, tại thời điểm thẩm định không vẽ đồ
thửa đất căn cứ vào trích đo hiện trạng thửa đất ngày 22/3/2023 nhưng lại
sự mâu thuẫn (cụ thể: tại biên bản xem t, thẩm định tại chỗ ghi phía Bắc 8 mét
giáp nhà anh Văn H8 không đúng với trích đo hiện trạng thửa đất ngày
22/3/2023 thể hiện phía Bắc giáp nông Văn H8 5,44m, giáp nhà ông
Văn Đ 0,65m, còn 1,91m không thể hiện giáp nhà nào hay lối đi). Như vậy khi
giao kết hợp đồng các bên không kiểm tra hiện trạng để điều chỉnh cho phù hợp.
Kể từ thời điểm giao kết hợp đồng đến nay bên mua không thực hiện quyền
nghĩa vụ của mình đối với thửa đất trên.
[2.2] Về nguồn gốc, hiện trạng sử dụng đất và việc cấp GCNQSDĐ:
11
Thửa đất trên nguồn gốc của bố mẹ ông V1 cụ Văn L2 (chết
năm 2003) cụ Thị L3 (chết năm 1998) tạo lập sinh sống trên đất này
cho đến lúc chết. Theo bản đồ 299 thì thửa đất trên thuộc thửa 253, tờ bản đồ số
07 có diện tích 896m
2
loại đất T, sổ mục kê mang tên Lê Thị L3 (mẹ ông V1).
Năm 2000 thửa đất trên được cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình ông V1.
Theo bản đồ địa chính năm 2005 thửa đất số 29, tờ bản đồ số 23, diện tích
907,4 m
2
loại đất ONT, sổ mục kê tên Vũ Văn V1. UBND phường H xác nhận tại
thời điểm cấp GCNQSDĐ hộ ông V1 06 người, gồm: ông Văn V1 (chủ
hộ), vợ là bà Lê Thị H1, các con chị Vũ Thị H2, chị Vũ Thị H3, anh Vũ Hoàng
V và bố ông V1 là c Vũ Văn L2.
[2.3] Về quyền định đoạt đối với quyền sử dụng đất:
Tại điểm 16, mục III Công văn số 16/1999/KHXX ngày 01/02/1999 của
TAND tối cao giải đáp về Căn cứ vào quy định nào để xác định GCNQSDĐ được
cấp cho ai ai người quyền sử dụng đất theo GCNQSDĐ đó, như sau:
“Theo quy định tại Điều 118 Bộ luật dân sự thì “quyền sử dụng đất hợp pháp của
hộ gia đình cũng tài sản chung của hộ”. Như vậy, quyền nghĩa vụ của các
thành viên trong hộ gia đình cũng như quyền nghĩa vụ của chủ hộ đứng tên
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là như nhau không có sự phân biệt”.
Như vậy, xác định thửa đất nêu trên thuộc quyền sử dụng chung của: ông
V1, cụ L2, bà H1, chị H2, chị H3, anh V chứ không phải của riêng ông V1.
Điều 237 BLDS 1995 quy định về việc định đoạt tài sản chung như sau:
“1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần quyền định đoạt phần quyền sở
hữu của mình theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
2. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận
của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, ông V1 không được quyền một mình định đoạt tài sản chung
quyền sử dụng đất của hộ gia đình.
Những người cùng hàng thừa kế với ông V1 trình bày thửa đất này tài
sản của bố mẹ họ để lại chưa được chia thừa kế. Do đó, ông V1 được hưởng giá
trị kỷ phần bao nhiêu chưa được xem xét cấp thẩm. Bản án thẩm nhận
định: năm 2000 thửa đất này đã được UBND huyện T cấp GCNQSDĐ cho hộ
ông Văn V1, thời điểm năm 2002, ông Văn L2 còn sống, chủ hộ ông V1
thực hiện giao dịch chuyển nhượng đất thì vẫn làm phát sinh quyền nghĩa vụ
của các thành viên hộ gia đình, trong đó ông L2. Ông T, H4, H5 không
phải thành viên trong hộ gia đình nên không quyền nghĩa vụ trong hợp
đồng chuyển nhượng. Nay ông L2 đã chết. Tài sản cây cối trên đất được các
đương sự thừa nhận do ông L2 trồng, nên trường hợp Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông Bông V1 được Tòa án công nhận, ông B có nghĩa
vụ trả tiền cây cối trên đất cho ông T, H4, H5, H1 các con của
H1. Việc bản án sơ thẩm nhận định như trên là mâu thuẫn với việc xác định thửa
đất là của gia đình ông V1, ông V1 quyền tự định đoạt chưa đảm bảo quyền
12
lợi cho những người cùng hàng thừa kế với ông V1. Tại cấp sơ thẩm những người
thuộc hàng thừa kế của cụ L2 cũng ý kiến về việc không đồng ý cho ông V1
bán đất của cha ông. Do đó tại thời điểm chuyển nhượng cũng như tại thời điểm
xét xử ông V1 cũng chưa đủ quyền định đoạt đối với phần đất tranh chấp.
[2.4] Về việc GCNQSDĐ thế chấp tại Ngân hàng:
Theo lời khai của các đương sự trong vụ án thể hiện GCNQSDĐ của thửa
đất luôn được gia đình ông V1 làm thủ tục thế chấp tại Ngân hàng để vay tiền
cho đến thời điểm ông B khởi kiện tại Tòa án ông B cũng phải cho bà H1 vợ ông
V1 vay 50.000.000 đồng để trả nợ giải chấp tại ngân hàng. Theo quy định của
pháp luật, GCNQSDĐ đang được thế chấp tại Ngân hàng thì không được làm thủ
tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Điều 204 Bộ luật n sự năm 1995 quy định về hạn chế quyền định đoạt
của chủ sở hữu: “1. Quyền định đoạt bị hạn chế đối với tài sản bị biên, cầm
cố, thế chấp và trong các trường hợp khác do pháp luật quy định...”
Điều 351 Bộ luật dân sự m 1995 quy định về nghĩa vụ của bên thế chấp
tài sản: “4c - Không được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chp...”
Điều 733 Bộ luật dân sự m 1995 quy định về nghĩa vụ của bên thế chấp
quyền sử dụng đất: “Bên thế chấp quyền sử dụng đất có các nghĩa v sau đây:
3. Không được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất đã
được thế chấp”.
Bên cạnh đó ông B cũng trình bày đã nhiều lần ông về quê yêu cầu ông V1
thực hiện việc tách giấy chứng nhận cho ông nhưng ông V1 đều nêu lý do các anh
em trong gia đình ông không đồng ý hoặc đang thế chấp tại ngân hàng. Nội dung
này cũng chưa được cấp thẩm xem xét tại thời điểm chuyển nhượng lần đầu
năm 2002 và năm 2007 thửa đất trên có được thế chấp ở đâu không, nhưng cấp sơ
thẩm đã nhận định ông V1 quyền chuyển nhượng thửa đất trên công nhận
hợp đồng chuyển nhượng là chưa đánh giá hết chứng cứ trong vụ án.
[3] Từ những phân tích các chứng cứ nêu trên, HĐXX xét thấy ông V1
chuyển nhượng thửa đất trên vi phạm vào các điều cấm của pháp luật khi thực
hiện giao dịch và thuộc trường hợp phải tuyên giao dịch dân sự vô hiệu. Tại phiên
tòa phúc thẩm, những người kháng cáo cũng thống nhất đề nghị tuyên hợp đồng
hiệu giải quyết hậu quả của hợp đồng. Do đó HĐXX chấp nhận kháng cáo
của bị đơn anh Hoàng V người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Văn T, sửa án thẩm theo hướng: không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn về yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông V1 ông B
hiệu, xác định lỗi của các bên làm cho hợp đồng hiệu để xem xét bồi thường
thiệt hại.
Xét thấy: Khi giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bên chuyển
nhượng tự mình định đoạt đối với thửa đất chung của hộ gia đình, GCNQS
đang thế chấp tại ngân hàng, chuyển nhượng diện tích đất không lối đi, đã
13
nhận tiền đầy đủ giao đất cho bên nhận chuyển nhượng, nhưng không giao
giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất, không thực hiện việc chứng thực
hoặc công chứng hợp đồng cũng như thực hiện thủ tục sang tên, cấp GCNQSDĐ
cho bên nhận chuyển nhượng, nên phần lớn lỗi thuộc về bên chuyển nhượng; bên
nhận chuyển nhượng biết diện tích đất mình nhận chuyển nhượng thuộc quyền
quản lý, sử dụng của hộ gia đình nhưng không yêu cầu các thành viên trong hộ
gia đình ký vào hợp đồng chuyển nhượng, biết GCNQSDĐ đang thế chấp tại
Ngân hàng nhưng vẫn vào giấy chuyển nhượng, sau khi trả tiền nhận đất
không yêu cầu bên chuyển nhượng thực hiện việc chứng thực hoặc công chứng,
cũng như thực hiện thủ tục sang tên, cấp GCNQSDĐ cho mình, nên bên nhận
chuyển nhượng cũng lỗi một phần. HĐXX xác định lỗi làm cho hợp đồng
hiệu của bên chuyển nhượng là 60%, bên nhận chuyển nhượng là 40%.
Cụ thể: Giá trị quyền sử dụng đất hiện tại theo chứng thư thẩm định giá
3.500.000đ/m
2
x 200m
2
= 700.000.000 đồng. Giá trị thiệt hại là: 700.000.000
đồng - 10.000.000 đồng = 690.000.000 đồng. Bên chuyển nhượng chịu 60% lỗi
bằng 414.000.000 đồng, bên nhận chuyển nhượng chịu 40% lỗi bằng 276.000.000
đồng. Như vậy, bên chuyển nhượng (gồm H1, chị H2, chị H3, anh V những
người thừa kế của ông V1) được nhận lại quyền sử dụng đất nhưng phải trả lại
cho ông B số tiền đã nhận khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất số tiền bồi
thường thiệt hại là: 10.000.000 đồng + 414.000.000 đồng = 424.000.000 đồng.
[4] Xem xét giá trị các tài sản trên diện ch đất tranh chấp:
Đối với giá trị sân tông cây cối trên đất, do tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất hiệu, quyền sử dụng đất đã được trả lại cho
H1 các con H1, nên ông B không phải trả tiền giá trị sân tông cây
trồng trên đất cho bà H1, các con bà H1, ông T, bà H4, bà H5 nữa.
Đối với giá trị móng tường: Sau khi nhận chuyển nhượng đất, ông B đã
thuê thợ xây móng tường làm ranh giới phân chia phần đất chuyển nhượng
phần còn lại của thửa đất. Theo lời trình bày của người làm chứng ông Văn
H6 thì ông được ông B nhờ mua vật liệu thực hiện việc xây móng tường. Kết
quả thẩm định tại chỗ ngày 19/7/2024 xác định: ranh giới phân chia phần đất
tranh chấp với phần còn lại của thửa đất có móng tường bằng gạch cốm đã cũ, dài
23m, cao bằng một viên gạch cốm, trị giá 351.900 đồng. Giá trị móng tường này
cần buộc bà H1, chị H2, chị H3, anh V trả lại cho ông B là phù hợp. Như vậy, cần
buộc H1, chị H2, chị H3, anh V trách nhiệm trả lại cho ông B tổng số tiền
424.000.000 đồng + 351.900 đồng = 424.351.900 đồng (làm tròn số
424.352.000 đồng).
[5] Xem xét yêu cầu khởi kiện đòi lại tài sản cho vay:
Tòa án nhân dân thị N thụ vụ án tháng 11/2022 với nội dung tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ do ông Lê Ngọc B khởi kiện. Quá trình thụ
giải quyết Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không thành và đã tạm đình chỉ để thu thập
chứng cứ. Tuy nhiên, đến tháng 5/2024 ông B mới yêu cầu khởi kiện bổ sung
14
và nội dung này nằm ngoài yêu cầu khởi kiện ban đầu. Do đó theo Điều 5 Bộ luật
tố tụng dân sự thì đây thuộc trường hợp vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu, Tòa
án cấp thẩm vẫn thụ lý giải quyết trong cùng một ván vi phạm thủ tục tố
tụng. Tuy nhiên, sau khi tuyên án thẩm, không đương sự nào kháng cáo về
nội dung này, tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự cũng thống nhất số tiền
H1 vay ông B50.000.000 đồng bà H1 có trách nhiệm trả cho ông B. Vì vậy,
bản án sơ thẩm buộc bà H1 phải trả cho ông B 50.000.000 đồng là có căn cứ.
Từ những phân tích nêu trên, căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn
anh Hoàng V người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Văn T, sửa
bản án thẩm theo hướng: tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông Văn V1 ông Ngọc B là hiệu; quyền sử dụng đất thuộc
quyền quản lý, sử dụng của bà Lê Thị H1, chị Thị H2, chị Thị H3, anh
Hoàng V; H1, chị H2, chị H3, anh V trách nhiệm liên đới trả cho ông B số
tiền 424.352.000 đồng; riêng bà H1 phải trả cho ông B số tiền 50.000.000 đồng.
[6] Về án phí:
- Án phí dân sự phúc thẩm (DSPT): Do kháng cáo của anh Hoàng V,
ông Văn T được chấp nhận nên anh V, ông T không phải chịu án phí DSPT.
Bà Vũ Thị H4, bà Vũ Thị H5 vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, b
coi là từ bỏ việc kháng cáo nên bà H4, bà H5 phải chịu án phí DSPT.
- Án phí dân sự thẩm (DSST): Do sửa bản án nên cần phải sửa phần án
phí DSST đối với các đương strong vụ án. Ông Ngọc B phải chịu án phí
DSST do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận, Thị H1 phải chịu án
phí DSST có giá ngạch trên stiền phải trả cho ông B, nhưng ông B, H1
người cao tuổi và đơn xin miễn tiền án phí nên được miễn án phí DSST theo
quy định của pháp luật. Chị Thị H2, chị Thị H3, anh Hoàng V phải
chịu án phí DSST có giá ngạch trên số tiền phải trả cho ông B.
[7] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị, Hội đồng xét xử không xem xét đã hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 296, khoản 2 Điều 308, Điều 309, Điều 148 Bộ
luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án p
và lệ phí Tòa án:
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung kháng cáo của bà Vũ Thị H4
(sinh năm 1968) và bà Vũ Thị H5.
2. Chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh Hoàng V, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Vũ Văn T, sửa bản án dân sự thẩm số 11/2024/DS-ST
ngày 14/8/2024 của Tòa án nhân dân thị xã N, tỉnh Thanh Hóa, như sau:
15
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, c khoản 1
Điều 39, khoản 1 Điều 147 của BLTTDS; Điều 118, 707, 708, 733 BLDS năm
1995; Điều 689, 698, 699, 701, 122, 124, 127, 128 của BLDS năm 2005; tiểu mục
2.3 mục II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết
các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều
14, khoản 1 Điều 26, khoản 3 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Ngọc B về
việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Văn V1 ông Ngọc B theo “Giấy nhượng đất” đề ngày 19/6/2002 “Giấy
chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đề ngày 11/7/2007.
- Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Văn V1
ông Ngọc B theo “Giấy nhượng đất” đề ngày 19/6/2002 “Giấy chuyển
nhượng quyền sử dụng đất” đề ngày 11/7/2007 hiệu. Thị H1, chị
Thị H2, chị Thị H3 (sinh năm 1986), anh Hoàng V được quyền quản lý,
sử dụng diện tích 198,8m
2
theo trích đo hiện trạng thửa đất ngày 22/3/2023.
H1, chị H2, chị H3, anh V trách nhiệm liên đới trả cho ông Lê Ngọc B số tiền
424.352.000đ (Bốn trăm hai mươi bốn triệu, ba trăm năm mươi hai nghìn đồng).
- Buộc bà Lê Thị H1 phải trả cho ông Lê Ngọc B số tiền 50.000.000đ (Năm
mươi triệu đồng).
Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu
thi hành án, mà người phải thi hành án chậm thi hành án thì phải trả lãi đối với số
tiền chậm thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án theo mức lãi suất
do bên được thi hành án bên phải thi hành án thỏa thuận nhưng không vượt
quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS, nếu không thỏa thuận thì
thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 357 BLDS.
3. Về án phí:
- Án phí DSPT: Anh Vũ Hoàng V, ông Văn T không phải chịu án phí
DSPT. Trả lại cho anh Vũ Hoàng V, ông Vũ Văn T mỗi người 300.000đ (Ba trăm
nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí DSPT theo các biên lai thu tạm ứng án phí, lệ p
Tòa án số 00029xx ngày 27/8/2024 (đối với anh Hoàng V); số 00029xx ngày
05/9/2024 (đối với ông Vũ Văn T) của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã N.
Bà Vũ Thị H4, bà Vũ Thị H5 mỗi người phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn
đồng) án phí DSPT, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí DSPT đã nộp
theo các biên lai thu tạm ng án phí, lệ phí Tòa án số 00029xx ngày 05/9/2024
(đối với Thị H4); số 00029xx ngày 05/9/2024 (đối với Thị H5) của
Chi cục Thi hành án dân sự thị xã N; bà H4, bà H5 đã nộp đủ án phí DSPT.
- Án phí DSST: Miễn án phí DSST cho ông Lê Ngọc B và bà Lê Thị H1.
16
Chị Thị H2, chị Thị H3, anh Hoàng V mỗi người phải nộp
5.243.500đ (Năm triệu, hai trăm bốn mươi ba nghìn, năm trăm đồng) án phí
DSST.
4. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Thanh Hóa;
- TAND thị xã N;
- Chi cục THADS th xã N;
- Các đương s;
- Lưu HS v án; Tòa DS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Mai Nam Tiến
17
Tải về
Bản án số 144/2024/DS-PT Bản án số 144/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 144/2024/DS-PT Bản án số 144/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất