Bản án số 349/2024/DS-PT ngày 19/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 349/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 349/2024/DS-PT ngày 19/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 349/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyên đơn bà Hà Thị C buộc ông Phan Trí D và bà Nguyễn Thị M phải trả cho nguyên đơn số tiền còn nợ do chưa thanh toán xong tiền mua bán đất là 1.625.000.000 đồng (Một tỷ sáu trăm hai mươi lăm triệu đồng) tiền gốc và tiền lãi chậm trả từ ngày 23/11/2020 đến ngày Tòa án xét xử theo lãi suất 10%/năm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 349/2024/DS-PT
Ngày: 19 - 12 - 2024
“V/v: “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị My My.
Các Thẩm phán: Ông Văn Công Dần và bà Đinh Thị Tuyết.
- Thư ký phiên tòa: Ông Vũ Văn Hoàng – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên toà:
Lê Thị Bích Thủy - Chức vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ s 280/2024/TLPT-DS ngày
25/10/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”,
do Bản án dân sự sơ thẩm số 174/2024/DS-ST ngày 21, 23/8/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 326/2024/QĐXX-PT ngày 08/11/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:Hà Thị C, sinh năm 1971. Địa chỉ: Tổ dân phố E, phường
E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk Có mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền: Nguyễn Thị T, sinh năm 1994. Địa chỉ: Số
A L, Phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk Có mặt.
2. Bị đơn: Nguyễn Thị M, sinh năm 1972, ông Phan Trí D, sinh năm
1970. Địa chỉ: Thôn C, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (ông D ủy quyền cho bà
M tham gia tố tụng theo văn bản ủy quyền ngày 22/7/2023) Đều vắng mặt.
Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Hà Thị C.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn bà Hà Thị C người đại diện theo ủy quyền Nguyễn
Thị T trình bày:
Ngày 15 tháng 5 năm 2019, Thị C hợp đồng chuyển nhượng toàn
bộ diện tích đất của mình tại địa chỉ B Y, P. E, thành phố B cho Nguyễn Thị
M ông Phan Trí D. Diện tích chuyển nhượng trên Hợp đồng ghi khoảng
2
1.200 m”, g chuyển nhượng 15.500.000.000 đồng, thanh toán theo nhiều
đợt.
Ngày 12/6/2019, M viết giấy xác nhận số tiền đã trả các đợt chốt số
tiền mua đất còn nợ C tại thời điểm xác nhận ngày 12/6/2019 là:
5.400.000.000 đồng (Năm tỷ bốn trăm triệu đồng).
Hai bên đã ký, công chứng Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất
tại địa chỉ B Y, phường E, thành phố B từ C sang cho ông D, M. Ông D,
M đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất thế chấp đất trên
để vay ngân hàng. Hai bên đã hoàn thành xong thủ tục chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và không tranh chấp gì về nội dung hợp đồng.
Về phần thanh toán, ngày 23/10/2020 các bên đối chiếu toàn bộ snợ, bao
gồm cả tiền nợ mua đất thống nhất vợ chồng M còn nợ C
1.625.000.000 đồng (Một tỷ sau trăm hai mươi lăm triệu đồng).
Hai bên lập hợp đồng vay tiền và ký, cam kết trả theo Hợp đồng vay tiền
ngày 23/10/2020, công chứng. Ngoài ra hai bên còn viết 01 giấy nợ ngày
23/10/2020 xác nhận số tiền trên tiền mua đất còn thiếu. Thực chất số tiền
theo giấy vay ngày 23/10/2020 tiền M, ông D mua đất còn nợ C. Đến
nay, vợ chồng bà M vẫn chưa trả nợ cho C đã xong thủ tục chuyển
nhượng và nhận đất sử dụng.
Nguyên đơn chỉ tranh chấp với M, ông D về tiền nợ do mua bán đất,
không tranh chấp về nội dung hợp đồng chuyển nhượng quyền s dụng đất.
Thực tế, thủ tục chuyển nhượng đất giữa hai bên đã thực hiện xong, các thửa đất
đã sang tên bà M nên không yêu cầu giải quyết về các hợp đồng chuyển nhượng.
Nguyên đơn không yêu cầu xem xét thẩm định, định giá các thửa đất đã chuyển
nhượng giữa hai bên.
Đối với biên bản xem xét thẩm định tài sản ngày 27/6/2024 của Toá án nhân
dân thành phố B thì T không có ý kiến gì. Do M chưa trả hết tiền mua đất
nên C chưa bàn giao căn nhà tại B Y, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
cho bà M. Hiện nay bà C đang quản lý nhà và đất nói trên.
Về số tiền thuế số tiền nợ 700.000.000 đồng theo giấy vay ngày
23/5/2019: Tại văn bản xác nhận số tiền còn nợ do bà M viết ngày 12/6/2019, bà
M xác nhận số tiền trả từng đợt. Tại dòng thứ 3 thể hiện số tiền 500.000.000
đồng. Thực tế stiền 500.000.000 đồng này M chưa trả cho bà C khấu
trừ từ số tiền 700.000.000 C vay ông D ngày 23/05/2019 vào tiền mua đất,
thể hiện tại phần D đưa 700 Tr”. Nội dung này do C viết ra trừ đi
200.000.000 đồng tiền thuế do C phải làm chuyển đổi mục đích thêm theo
yêu cầu của M nên M phải chịu chi phí trên. Sau khi trừ, M chốt tiền
còn nợ lại bà C là 5.400.000.000 đồng.
Theo giấy tờ vay M cung cấp, C vay ông D 700.000.000 đồng vào
ngày 23/5/2019. Nhưng từ khi giấy vay đến ngày 12/6/2019, M xác nhận
lại tiền mình nợ mua đất đến ngày 23/10/2020 khi hai bên chốt số tiền còn
3
nợ, lập hợp đồng vay tiền thì bà M không hề yêu cầu C trả số tiền vay này
hoặc cấn trừ qua số tiền mua đất còn thiếu. Nguyên đơn không chấp nhận yêu
cầu phản tố của bị đơn.
Nguyên đơn buộc ông Phan Trí D Nguyễn Thị M phải trả cho nguyên
đơn số tiền còn nợ do chưa thanh toán xong tiền mua bán đất 1.625.000.000
đồng (Một tỷ sáu trăm hai mươi lăm triệu đồng) tiền gốc tiền lãi chậm trả từ
ngày 23/11/2020 đến ngày Tòa án xét xử theo lãi suất 10%/năm.
Trường hợp M trả đủ tiền n thì C sẽ bàn giao căn nhà tại B Y,
phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk cho bà M.
* Bị đơn Nguyễn Thị M, ông Phan Trí D. Nguyễn Thị M đại diện
cho ông Phan Trí D trình bày:
Vào ngày 15/5/2019, vợ chồng M nhận chuyển nhượng của Thị C
01 đất tại B Y, phường E, thành phố B diện tích 30mx44m với giá
15.500.000.000 đồng. C viết giấy bán cho M đất khoảng 1.200m²
nói với bà M hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang thế chấp Ngân hàng,
do đó M đã đặt cọc cho C số tiền 1.500.000.000 đồng, đến ngày 16 AL
đưa thêm 6.200.000.000 đồng để trả Ngân hàng, lấy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất để làm thủ tục chuyển nhượng cho bà M.
Sau đó M đã thanh toán cho bà C tổng cộng 14.300.000.000 đồng, còn
nợ lại 1.625.000.000 đồng nên C yêu cầu M ra Văn phòng Công chứng ký
giấy vay tiền cho C nhưng thực tế tiền mua đất M còn nợ. (Có giấy xác
nhận đề ngày 23/10/2020 C xác nhận số nợ trong hợp đồng công chứng
ngày 23/10/2020 là một khoản tiền đất chưa trả).
Bà M có yêu cầu phản tố với các nội dung sau:
1. Theo các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì C phải chịu
mọi loại thuế, phí, nhưng C còn nợ nhiều người nên M đứng ra nộp thuế
thay để nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với số tiền tròn là 282.722.000
đồng (giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước số tiền 282.722.850 đồng ngày
07/5/2020). Số tiền này bà C chưa trả lại cho M nên M yêu cầu C khấu
trừ vào tiền nợ.
2. Đề nghị khấu trừ 700 triệu đồng C còn nợ M theo Giấy vay tiền đề
ngày 23/5/2019. Đối với bảng nhận tiền em M đặt cọc ngày 12/6/2019:
Những dòng từ dòng thứ 3 đến dòng 13 từ trên xuống nội dung
“1.500.000.000 đồng” đến “còn lại 5.450.000.000 năm tỷ bốn trăm năm mươi
triệu” do C trực tiếp viết về việc nhận tiền của M. Còn từ dòng thứ 14
đến cuối trang giấy chchữ viết của M. Còn nội dung bên cạnh dòng
thứ 5 ttrên xuống nội dung: D đưa 700tr, tiền thuế 200.000.000” là do
C viết thêm, khi M xác nhận nợ thì không dòng chữ này cũng
không nằm trong số tiền C đã nhận của M nên M không đồng ý với ý
kiến của bà C đã trừ số tiền vay của vợ chồng bà M vào ngày 23/5/2019.
4
Khi xác nhận nợ ngày 12/6/2019, C chốt số tiền 5.450.000.000 đồng
nhưng bà M xin bớt 50.000.000 đồng, nên sau đó M chỉ xác nhận còn nợ
5.400.000.000 đồng.
Việc bà C vay 700.000.000 đồng từ ngày 23/5/2019, nhưng đến nay M
mới yêu cầu cấn trừ số tiền 1.625.000.000 đồng tiền mua bán đất, còn
700.000.000 đồng tiền C vay. Tại thời điểm giấy vay ngày 23/10/2020
thì thực tế giữa M C chưa chốt các khoản tiền với nhau, do M
giấy vay giữa M C làm ăn với nhau nhiều lần, thân quen nên C
nhờ bà M ký để xử lý việc vay nợ của bà C mà bà M không liên quan.
Hiện nay bà M còn nợ bà C số tiền 1.625.000.000 đồng - 282.722.850 đồng -
700.000.000 đồng = 642.277.150 đồng. M đề nghị Toà án tuyên huỷ Hợp
đồng vay tiền ngày 23/10/2020 giữa bà Hà Thị C vợ chồng bà M. M chấp
nhận trả cho C 642.277.150 đồng yêu cầu C giao căn nhà tại B Y,
phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk cho bà M.
Bà M chỉ tranh chấp với bà C về số tiền còn nợ khi mua bán đất, không tranh
chấp về các hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất. M không yêu
cầu về nội dung diện tích đất theo các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa gia đình M C. Hiện nay thủ tục sang tên các thửa đất đã
xong.
Tại Bản án dân sự thẩm số 174/2024/DS-ST ngày 21, 23/8/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, đã quyết định:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 157, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 117, 124, 166, 279, 280, 422, 463, 465, 466, 500, 501, 502, 503 Bộ
luật dân sự. Điều 166, 168 Luật đất đai;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Thị C.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị M.
Tuyên huhợp đồng vay tiền ngày 23/10/2020 giữa Thị C ông
Phan Trí D, bà Nguyễn Thị M.
Buộc bà Nguyễn Thị M, ông Phan Trí D trả cho bà Hà Thị C số tiền
642.277.150 đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân s
năm 2015.
5
Buộc Thị C bàn giao căn nhà tại B Y, phường E, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk cho bà Nguyễn Thị M, ông Phan Trí D.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền
982.722.850 đồng và yêu cầu tính lãi suất chậm trả từ ngày 23/11/2020 đến ngày
Tòa án xét xử với mức lãi suất 10%/năm.
Ngoài ra, án thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, về án phí và quyền kháng
cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 04 tháng 9 năm 2024, nguyên đơn Thị C kháng cáo bản án
thẩm số 174/2024/DS-ST ngày 21, 23/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố
Buôn Ma Thuột với nội dung: Đề nghị cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn: Buộc Nguyễn Thị M, ông Phan Trí D phải trả cho
Thị C 1.625.000.000 đồng và 10% tiền lãi chậm trả từ ngày 23/11/2020 đến
ngày xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc
yêu cầu khấu trừ 700.000.000 đồng tiền vay và 282.000.000 đồng tiền thuế trong
số tiền nợ 1.625.000.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm về
việc giải quyết vụ án: Về tố tụng, Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký Tòa án,
các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội
dung, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân
sự. Không chấp nhận kháng cáo của Thị C, giữ nguyên Bản án dân sự
thẩm số 174/2024/DS-ST ngày 21, 23/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố
Buôn Ma Thuột.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được xem xét tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn nộp trong thời hạn quy định
và đã nộp tiền tạm ứng án phí nên vụ án được giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Nội dung:
Ngày 15/5/2019, Thị C hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích
đất của mình tại địa chB Y, P. E, thành phố B cho bà Nguyễn Thị M ông
Phan Trí D. Diện tích chuyển nhượng trên Hợp đồng ghi “khoảng 1.200 m”, giá
chuyển nhượng 15.500.000.000 đồng, thanh toán theo nhiều đợt. Hai bên đã
ký, công chứng Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất tại địa chỉ B Y,
phường E, thành phố B tC sang cho ông D, M. Ông D, M đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã thế chấp đvay ngân hàng. Các
thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hoàn thành xong, hai bên không có
tranh chấp gì về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Ngày 23/10/2020, các bên đối chiếu toàn bộ số nợ giữa hai bên thống
nhất vợ chồng M còn nợ lại C tổng còn 1.625.000.000 đồng. Hai bên lập
hợp đồng vay tiền và ký, cam kết trả theo Hợp đồng vay tiền ngày 23/10/2020,
6
công chứng. Ngoài ra hai bên còn viết 01 giấy nợ ngày 23/10/2020 xác nhận
số tiền trên là tiền mua đất còn thiếu. Thực chất số tiền theo giấy vay ngày
23/10/2020 số tiền mua đất còn nợ của M, ông D chưa trả cho C.
Nguyên đơn, bị đơn đều xác định hiện nay các bên chỉ tranh chấp về số tiền còn
nợ khi mua bán đất. Không tranh chấp về các hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất.
Nguyên đơn bà Hà Thị C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng
ông Phan Trí D, Nguyễn Thị M phải trả cho bà C số tiền 1.625.000.000 đồng
tiền lãi chậm trả 10%/năm. Không chấp nhận khấu trừ số tiền thuế
282.722.850 đồng tiền nợ 700 triệu đồng như yêu cầu phản tố của bị đơn.
Trường hợp bị đơn trả đủ tiền t nguyên đơn sẽ bàn giao căn nhà tại B Y,
phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk cho bị đơn.
Bị đơn M thừa nhận chưa trả hết tiền mua đất cho nguyên đơn yêu
cầu phản tố đề nghị khấu trừ số tiền bị đơn phải nộp thuế là 282.722.850 (căn cứ
vào giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước ngày 07/5/2020) khấu trừ số tiền
700 triệu đồng nguyên đơn đã vay của bị đơn (căn cứ 01 giấy vay tiền ngày
23/5/2019). Bị đơn chấp nhận trả cho nguyên đơn số tiền sau khi khấu trừ
642.277.150 đồng đề nghị nguyên đơn bàn giao căn nhà tại B Y, phường E,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk cho bị đơn.
Hội đồng xét xử nhận thấy:
2.1. Đối với Hợp đồng vay tiền ngày 23/10/2020: Hợp đồng vay tiền ngày
23/10/2020 thực chất hợp đồng giả cách, hai bên không thực hiện việc vay
tiền chỉ lập hợp đồng để đảm bảo cho nghĩa vthanh toán tiền mua đất giữa
hai bên nên căn cứ Điều 124 Bộ luật dân sự cần huỷ hợp đồng vay tiền
23/10/2020 là phù hợp.
2.2. Đối với nội dung nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền
1.625.000.000 đồng lãi suất phát sinh là 10%/ năm yêu cầu phản tố của
phía bị đơn về việc đề nghị khấu trừ số tiền bị đơn phải nộp thuế là 282.722.850,
khấu trừ số tiền 700 triệu đồng nguyên đơn đã vay của bị đơn: Nguyên đơn cho
rằng đã khấu trừ tiền thuế 200 triệu đồng đã khấu trừ số tiền 700 triệu đồng
theo giấy vay ngày 23/5/2019 giữa C và ông D. Trong giấy nhận tiền ngày
12/6/2019 tại nội dung dòng thứ 3 thể hiện số tiền 500.000.000 đồng. Thực tế số
tiền 500.000.000 đồng này M chưa trả cho C khấu trừ từ số tiền
700.000.000 C vay ông D ngày 23/05/2019 vào tiền mua đất, thể hiện tại
phần “D đưa 700 Tr" tiên thuế 200” trong đó có 200 triệu đồng tiền thuế. Do đó,
bị đơn vẫn đang nợ nguyên đơn số tiền 1.625.000.000 đồng nên phải trách
nhiệm trả cho nguyên đơn số tiền 1.625.000.000 đồng. Tuy nhiên, phía bị đơn
không thừa nhận nội dung D đưa 700 Tr" tiên thuê 200” trong giấy chốt nợ
ngày 12/6/2019 vì giấy này do nguyên đơn giữ và ghi lúc nào bị đơn không biết.
Đối với số tiền 700.000.000 đồng nguyên đơn mượn bị đơn thì nguyên đơn vẫn
chưa trả nên đề nghị được khấu trừ 700.000.000 đồng vào số tiền 1.625.000.000
đồng nguyên đơn còn nợ bị đơn. Mặc khác, bị đơn yêu cầu nguyên đơn phải
7
khấu trcho bị đơn số tiền thuế 282.722.850 đồng bị đơn đã nộp thay cho
nguyên đơn trong quá trình làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất.
Xét thấy, tại giấy chốt nngày 12/6/2019, nguyên đơn Thị C đã liệt
số lần nhận tiền với số tiền từng khoản (các khoản tiền theo thứ tự là:
1.500.000.000, 750.000.000, 500.000.000, 5.000.000.000, 500.000.000) không
thể hiện khoản tiền nào khấu trừ tiền thuế 200 triệu đồng không
khoản tiền nào thể hiện khấu trừ 700 triệu theo giấy vay ngày 23/5/2019. Do đó,
không sở xác định nguyên đơn đã khấu trừ số tiền 700.000.000 đồng cho
bị đơn theo lời tnh bày của phía nguyên đơn. Quá trình thực hiện thoả thuận
chuyển nhượng quyền sdụng đất do các bên vẫn chưa thực hiện xong, bị đơn
chưa trả đủ tiền cho nguyên đơn, nguyên đơn chưa bàn giao căn nhà tại B Y,
phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk cho bị đơn (tại biên bản thẩm định tài sản
ngày 27/6/2024 thể hiện Thị C đang quản tại sản). Tại các hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, các bên không thoả thuận lãi suất nên không
sở để chấp nhận yêu cầu tính lãi suất của nguyên đơn. Do đó, cần chấp
nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp.
Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều thừa nhận khi làm th tục
chuyển nhượng các thửa đất tthoả thuận nguyên đơn phải chịu tiền thuế phát
sinh từ các giao địch mua bán đất. Theo đơn đăng biến động đất đai ngày
03/6/2019 t đối với thửa đất số 141A (mới 212), tờ bản đồ 128 theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 826885 cấp ngày 20/12/2006 thì bà C phải
gia hạn thời hạn sử dụng đất chuyển đổi mục đích sử dụng đất, do C
không tiền đóng nên C đã uquyền cho ông Phan Trí D làm thủ tục cần
thiết tại các quan thẩm quyền, đóng thuế. Căn cứ vào giấy nộp tiền vào
ngân sách nhà nước số tiền 282.722.850 đồng ngày 07/5/2020 doNguyễn Thị
M nộp thể hiện M là người đóng tiền thuế liên quan các thửa đất do hai bên
thoả thuận mua bán. Vậy nên, phía bị đơn đồng ý thanh toán cho nguyên đơn số
tiền 642.277.150 đồng sau khi khấu trừ số tiền thuế 282.722.850 đồng mà bị đơn
đã nộp thay cho nguyên đơn khấu trừ số tiền 700 triệu đồng nguyên đơn đã
vay của bị đơn là phù hợp, có cơ sở chấp nhận.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xphúc thẩm xét thấy: Không
căn cứ đ chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn Thị C. Cần giữ
nguyên Bản án dân sự thẩm số 174/2024/DS-ST ngày 21, 23/8/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên C
phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.
8
Không chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn Thị C, ginguyên
Bản án dân sự sơ thẩm số 174/2024/DS-ST ngày 21, 23/8/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Buôn Ma Thuột.
[2] Điều luật áp dụng:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 157, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ Điều 117, 124, 166, 279, 280, 422, 463, 465, 466, 500, 501, 502, 503
Bộ luật dân sự. Điều 166, 168 Luật đất đai.
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1]. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Thị C.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơnNguyễn Thị M.
Tuyên huhợp đồng vay tiền ngày 23/10/2020 giữa Thị C ông
Phan Trí D, bà Nguyễn Thị M.
Buộc bà Nguyễn Thị M, ông Phan Trí D trả cho bà Hà Thị C số tiền
642.277.150 đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự
năm 2015.
Buộc Thị C bàn giao căn nhà tại B Y, phường E, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk cho bà Nguyễn Thị M, ông Phan Trí D.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền
982.722.850 đồng và yêu cầu tính lãi suất chậm trả từ ngày 23/11/2020 đến ngày
Tòa án xét xử với mức lãi suất 10%/năm.
[2]. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn bị đơn, mỗi bên phải chịu ½ chi phí
thẩm định tài sản. Bị đơn M, ông D đã tạm ứng chi phí thẩm định 2.000.000
đồng theo phiếu chi s 310 ngày 26/6/2024 của Toà án nhân dân thành phố
Buôn Ma Thuột nên hoàn trả cho Nguyễn Thị M, ông Phan Trí D số tiền
1.000.000 đồng sau khi thu của bà Hà Thị C
[3]. Về án phí.
[3.1] Án phí dân sự sơ thẩm.
Thị C phải chịu án phí của phần yêu cầu không được chấp nhận là
41.481.660 đồng. Khấu trừ số tiền 36.528.000 đồng tạm ứng án pđã nộp theo
biên lai số 0002683 ngày 02/6/2023 tại chi cục thi hành án dân sự thành phố
Buôn Ma Thuột. Số tiền án phí bà Hà Thị C còn phải chịu là: 4.955.786 đồng.
9
Nguyễn Thị M, ông Phan Trí D phải chịu án phí đối với số tiền phải trả
là: 29.691.086 đồng. Khấu trừ số tiền đã tạm ứng án phí là 20.730.000 đồng theo
biên lai số 0009909 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột.
Nguyễn Thị M, ông Phan Trí D còn phải chịu án phí dân s thẩm
8.961.086 đồng
[3.2]. Án phí dân sự phúc thẩm.
Thị C phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, khấu trừ
vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng Thị C đã nộp (do bà Lại Hoàng Như N
nộp thay) theo biên lai thu số AA/2023/0013510 ngày 13 tháng 9 năm 2024 tại
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND thành phố BMT;
- Chi cục THADS thành phố B; ã ký)
- Các đương sự;(Đã ký)
- Lưu hồ sơ.
Nguyễn Thị My My
10
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Văn Công Dần Đinh Thị
Tuyết
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN
TÒA
Nguyễn Thị My My
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND thành phố BMT;
- Chi cục THADS thành phố BMT;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Nguyễn Thị My My
11
Tải về
Bản án số 349/2024/DS-PT Bản án số 349/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 349/2024/DS-PT Bản án số 349/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất