Bản án số 339/2024/DS-PT ngày 13/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 339/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 339/2024/DS-PT ngày 13/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 339/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Trần Ngọc L và bà Hoàng Thị T1. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 55/2024/DSST ngày 27/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
Bản án số: 339/2024/DS-PT
Ngày: 13 - 12 - 2024
“tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Nhung.
Các Thẩm phán: Bà Lưu Thị Thu Hường và bà Nguyễn Thị Hạnh Vân.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Cao Huế - Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên t: Ông
Nguyễn Chí Hiếu - Chức vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 12 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ s332/2024/TLPT-DS ngày 30/10/2024
về việc “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”, do Bản án dân
sự thẩm số 55/2024/DSST ngày 27/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Ea
H’Leo, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét x số
297/2024/QĐ-PT ngày 30/10/2024 và Quyết định hoãn phiên toà số 322/2024/QĐ-
PT ngày 29/11/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Phan Lê Quang P, sinh năm 2003 (vắng mặt).
Địa chỉ: Khu phố C, thị trấn C, huyện C, tỉnh Quảng Trị.
Người đại diện theo uỷ quyền:Nguyễn Thị T, sinh năm 1972 (có mặt).
Địa chỉ: B N, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (bà T đồng thời người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án).
2. Bị đơn:
2.1. Ông Trần Ngọc L, sinh năm 1973 (có mặt) bà Hoàng Thị T1, sinh
năm 1973 (có mặt).
Địa chỉ: thôn A, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk;
(Đồng thời nguyên đơn khởi kiện đối với bị đơn ông Phan Văn H bà
Nguyễn Thị T).
Người đại diện theo uỷ quyền: Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành
viên T2 (phân công cho luật ông Trần Hải N Thị H1) - Địa chỉ: P Đ,
2
Tòa nhà F, ngõ A phố T, phường Y, quận C, thành phố Nội (ông N, H1 đều
vắng mặt).
2.2. Ông Phan Văn H, sinh năm 1966 (vắng mặt) Nguyễn Thị T, sinh
năm 1972 (có mặt).
Địa chỉ: B N, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk;
3. Người làm chứng: Đặng Thị H2 - Địa chỉ: tổ dân phố A, thị trấn E,
huyện E, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
4. Người kháng cáo: bị đơn ông Trần Ngọc L và bà Hoàng Thị T1.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo trình bày của các đương sự các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ
án, nội dung vụ án thể hiện như sau:
Ông Phan Văn H Nguyễn Thị T quyền sử dụng đất đối với thửa đất
số 06, tbản đồ số 04, diện tích 3.794,6 m
2
, địa chỉ E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk,
đã được Ủy ban nhân dân huyện E cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất số P
050646 ngày 07/3/2000 đứng tên hộ ông H, T. Đến ngày 09/12/2021 được
UBND huyện E cấp lại giấy chứng nhận quyền sdụng đất số CV 661741, thửa
đất số 46, tờ bản đồ số 114, diện tích 2.462,7 m
2
.
Ngày 09/6/2019 T thoả thuận chuyển nhượng cho ông Trần Ngọc L 01
phần diện tích đất thuộc thửa đất số 06, tứ cận phía đông giáp đường thôn, phía tây
giáp Hiên T, phía nam giáp Lựu, phía bắc giáp Hội trường thôn. Diện tích chuyển
nhượng 1.527,9 m
2
, giá trị chuyển nhượng 200.000.000 đồng. Hai bên viết giấy
sang nhượng đất cho nhau, chữ của T, ông L. Quá trình thực hiện hợp
đồng, ông L đã thanh toán cho bà T 110.000.000 đồng; T đã bàn giao đất trên
thực địa, vợ chồng ông L đã quản lý, sử dụng đất từ đó đến nay. Để thực hiện việc
sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngày 21/02/2020 vợ chồng bà T,
ông H đã tách thửa đất số 06 thành 04 thửa đất, trong đó thửa đất số 17, tbản
đồ số 114, diện tích 1.527,9 m
2
, địa chỉ thôn A, E, huyện E để chuyển nhượng
sang tên cho vợ chồng ông L. Ngày 28/02/2020 vợ chồng T, ông H kết hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 17 cho vợ chồng ông L, T1.
Hợp đồng được công chứng tại Văn phòng C. Do thửa đất số 17 chồng lấn lên thửa
đất của các hộ dân khác nên việc đăng chuyển nhượng không thực hiện được.
Tháng 9/2022 vợ chồng ông L khởi kiện yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, vụ án được Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo thụ lý.
Quá trình giải quyết vụ án, ngày 16/5/2023 T ông L thoả thuận với nhau huỷ
hợp đồng chuyển nhượng, T trả lại cho ông L 200.000.000 đồng, trong đó
110.000.000 đồng tiền đã thanh toán, 90.000.000 đồng tiền lãi tài sản ông L đã
tạo lập trên đất), chậm nhất ngày 17/5/2023 trả 100.000.000 đồng, ngày 05/6/2023
trả 100.000.000 đồng. Ngày 16/10/2023 vợ chồng ông L, T1 rút đơn khởi kiện,
Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo đình chỉ giải quyết vụ án (Quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án số 187/2023/QĐST-DS ngày 16/10/2023).
Tháng 6/2023 vợ chồng T, ông H tặng cho thửa đất số 46, tờ bản đồ số
3
114, diện tích 2.462,7 m
2
cho anh Phan Quang P, anh P đã khai, chỉnh
sang tên ngày 14/6/2023. Ngày 26/6/2023 anh P tách thửa đất số 46 thành 04 thửa
gồm thửa 170, 171, 172, 173. Trong đó có thửa đất số 172, diện tích 801,6 m
2
, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số DL 090698 ngày 20/7/2023. Ngày 22/9/2023
anh P chuyển nhượng toàn bộ thửa đất s172 cho vợ chồng ông L, T1. Hợp
đồng chuyển nhượng được công chứng tại Văn phòng C1.
* Nguyên đơn anh Phan Quang P, người đại diện theo uỷ quyền
Nguyễn Thị T trình bày và khởi kiện yêu cầu:
Theo văn bản thoả thuận ngày 16/5/2023 thì bà T phải trả cho ông L
200.000.000 đồng. Tuy nhiên, do bà T không có tiền trả nên bà T đã thoả thuận với
vợ chồng ông L T sẽ nói anh P chuyển nhượng cho vợ chồng ông L 1 phần
diện tích đất thuộc thửa đất 172 để cấn trừ nợ, còn 1 phần diện tích đất thì vợ
chồng ông L tiền chênh lệch, cụ thể thửa đất 172 chiều ngang mặt đường
27,72 m, dùng 16 m ngang để cấn trừ nợ số tiền 200.000.000 đồng, còn lại 11,72 m
ngang hai bên thoả thuận giá 15.000.000 đồng / 1 mét ngang, thành tiền
168.000.000 đồng, nhưng T làm tròn 160.000.000 đồng. Các bên thoả thuận
miệng, không lập văn bản nhưng do hai bên thoả thuận tại Toà án nên Đặng
Thị H2 thư ký toà án chứng kiến sự việc. Sau đó, thoả thuận giữa bà T và vợ chồng
ông L được anh P đồng ý. Do vậy, anh P đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất với vợ chồng ông L1 (không đề ngày tháng năm), nội dung anh P chuyển
nhượng thửa đất số 172 cho vợ chồng ông L1 với giá 160.000.000 đồng, khi giao
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì sẽ giao nhận tiền, nếu một trong hai bên vi
phạm thì đền tiền gấp đôi. Tuy nhiên, khi đã hoàn tất thủ tục sang tên, bà T, anh P
giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông L, vợ chồng ông L
nhận giấy chứng nhận nhưng không thanh toán 160.000.000 đồng.
Nay anh P khởi kiện yêu cầu Toà án buộc vợ chồng ông L, T1 phải thanh
toán 160.000.000 đồng đền gấp đôi số tiền. Tại phiên toà thẩm, bị đơn rút
một phần yêu cầu về việc buộc vợ chồng ông L1 phải đền gấp đôi số tiền
chuyển nhượng. Chỉ yêu cầu vợ chồng ông L1 phải thanh toán số tiền nhận chuyển
nhượng đất chưa trả 160.000.000 đồng.
* Bị đơn ông Trần Ngọc L và bà Hoàng Thị T1 trình bày:
Vợ chồng ông L thoả thuận với T về việc T nói anh P chuyển
nhượng thửa đất số 172 với giá 50.000.000 đồng. Vợ chồng ông L đã kết hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với anh P, đăng việc sang nhượng
vợ chồng ông L đã nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, số tiền
50.000.000 đồng vchồng ông L không thanh toán cho anh P vì nghĩ T còn nợ
200.000.000 đồng chưa trả nên sẽ khấu trừ 50.000.000 đồng mua đất vào
200.000.000 đồng bà T còn nợ.
Đối với hợp đồng mua bán đất viết tay giữa anh P và vợ chồng ông L1 thì vợ
chồng ông L1 thừa nhận chữ ký, chữ viết đề tên ông L, bà T1 là do ông L, bà T1 tự
và viết tên. Tuy nhiên, vợ chồng ông L, T1 không nhớ nội dung
vào thời gian nào. Do vậy, vợ chồng ông L không thừa nhận hợp đồng mua bán đất
viết tay này và không đồng ý trả 160.000.000 đồng cho anh P.
4
Đối với số tiền 200.000.000 đồng bà T còn nợ theo biên bản thoả thuận ngày
16/5/2023, vợ chồng ông L yêu cầu T phải trả 200.000.000 đồng lãi suất kể
từ ngày 17/5/2023 cho đến ngày xét xử sơ thẩm với lãi suất 10% / năm.
* Người m chứng bà Đặng Thị H2 trình bày:
Tại phiên hoà giải ngày 20/9/2023 sau khi lập biên bản hoà giải xong, bà H2
nghe T vchồng ông L thoả thuận miệng với nhau về việc T chuyển
nhượng thửa đất số 172 cho vợ chồng ông L với giá 15.000.000 đồng / 1 mét
ngang, thửa đất 172 rộng 27 m, trừ đi 2 m mộ, n lại 25 m, thành tiền
375.000.000 đồng, khấu trừ 200.000.000 đồng T nợ, bớt 15.000.000 đồng, còn
lại vợ chồng ông L phải trả 160.000.000 đồng.
Tại Bản án dân sự thẩm số 55/2024/DS-ST ngày 27/8/2024 của Toà án
nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định: Áp dụng các Điều 117,
118, 278, 280, 418, 500, 501, 502, 503 Bộ luật Dân sự; Điều 100, 188 Luật Đất
đai,
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Phan Quang P.
Buộc ông Trần Ngọc L Hoàng Thị T1 phải trả cho anh Phan Quang P
160.000.000 đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Trần Ngọc L Hoàng Thị T1 về
việc yêu cầu Nguyễn Thị T ông Phan Văn H trả 200.000.000 đồng tiền
chậm trả là 17.389.717 đồng.
Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn đền
bù tiền vi phạm hợp đồng tương đương với số tiền 160.000.000 đồng.
Ngoài ra Tòa án cấp thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí quyền
kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 03/9/2024 bị đơn ông Trần Ngọc L
Hoàng Thị T1 đơn kháng cáo toàn bbản án thẩm, đnghị cấp phúc thẩm
sửa án thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn;
chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bị đơn về việc buộc ông H, T trả 200.000.000
đồng.
Tại phiên a phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn
giữ nguyên nội dung kháng cáo. Các đương sự không thoả thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm về
việc giải quyết vụ án: Về tố tụng, Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư Tòa án,
các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Xét kháng
cáo của bị đơn, đề nghị Hội đồng xét xkhông chấp nhận kháng cáo của bị đơn,
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
5
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ ván được xem xét tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn được nộp trong thời hạn quy định và đã
nộp tiền tạm ứng án pphúc thẩm nên Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết
vụ án theo quy định của pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo của bị đơn ông Trần Ngọc L và bà Hoàng Thị T1.
[2.1]. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Phan Lê Quang P buộc
vợ chồng ông Trần Ngọc L và Hoàng Thị T1 phải thanh toán tiền chuyển
nhượng quyền sử dụng đất 160.000.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, các bên đều thừa nhận anh Phan Quang P
chuyển nhượng cho vợ chồng ông Trần Ngọc L Hoàng Thị T1 thửa đất số
172, tờ bản đsố 114, diện ch 801,6 m
2
, địa chỉ E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk,
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DL 090698 ngày 20/7/2023. Hai bên
đã kết hợp đồng chuyển nhượng, được công chứng đăng sang tên, đã bàn
giao giấy chứng nhận cho vợ chồng ông L1. Vợ chồng ông L1 đã nhận bàn giao
đất trên thực địa, sử dụng đất cho đến nay. Các bên thống nhất, không tranh chấp.
Do vậy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật theo
Điều 503 Bộ luật Dân sự.
Các đương sự chỉ tranh chấp về số tiền chuyển nhượng chưa thanh toán cho
nhau.
Theo nguyên đơn anh Phan Quang P người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan Nguyễn Thị T trình bày: Do huỷ hợp đồng chuyển nhượng đất ngày
09/6/2019 nên T nợ vợ chồng ông L 200.000.000 đồng. Do không trả được nợ
nên hai bên thoả thuận T nói anh P chuyển nhượng lại thửa đất số 172 cho vợ
chồng ông L1, giá chuyển nhượng 15.000.000 đồng / mét ngang, tổng
375.000.000 đồng, khấu trừ 200.000.000 đồng T còn nợ, bớt 15.000.000 đồng,
vchồng ông L1 phải thanh toán 160.000.000 đồng. Thoả thuận này Đặng
Thị H2 thư Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo chứng kiến. Để thực hiện thoả
thuận, anh P vợ chồng ông L đã hợp đồng mua bán viết tay, theo đó chuyển
nhượng thửa đất 172 với giá 160.000.000 đồng.
Bị đơn ông Trần Ngọc L Hoàng Thị T1 xác nhận hai bên thoả thuận
sang nhượng thửa đất 172 với giá 50.000.000 đồng; thừa nhận chữ ký, chữ viết đề
tên vợ chồng bị đơn tại hợp đồng mua bán viết tay là do vợ chồng bị đơn tự viết, tự
nhưng không biết nội dung giấy ghi gì, đồng thời không thừa nhận thoả
thuận về việc sang nhượng đất để khấu trừ 200.000.000 đồng bà T nợ.
Về giá trị thửa đất: Tại biên bản định giá tài sản ngày 02/8/2023 của Toà án
nhân dân huyện Ea H’leo thể hiện diện tích đất 1.530,8 m
2
thuộc một phần của
thửa đất số 06 giá thị trường khoảng 25.000.000 đồng / mét ngang. Người làm
chứng bà Đặng Thị H2 cũng xác nhận T vợ chồng ông L thoả thuận chuyển
nhượng thửa đất số 172 với giá 15.000.000 đồng / mét ngang. Do vậy, căn cứ
xác định giá trị thực tế của thửa đất các bên thoả thuận chuyển nhượng giá
từ 15.000.000 đồng - 25.000.000 đồng / mét ngang. Bị đơn ông L, T1 cho rằng
6
thửa đất nhận chuyển nhượng giá 50.000.000 đồng (tương ứng với 1.800.000
đồng / mét ngang) không phù hợp với giá trị thực tế tại thời điểm chuyển
nhượng cũng như trình bày của đương sự, người làm chứng.
Về việc thanh toán tiền cho nhau: Tại hợp đồng mua bán đất viết tay thể
hiện thửa đất số 172 giá chuyển nhượng 160.000.000 đồng. Theo trình bày của
T, anh P và người làm chứng, các bên thoả thuận khấu trừ 200.000.000 đồng bà
T nợ, vợ chồng ông L còn phải thanh toán cho T 160.000.000 đồng. Đồng thời
ngày 22/9/2023 anh P vợ chồng ông L kết hợp đồng chuyển nhượng tại Văn
phòng C1, đến ngày 16/10/2023 vchồng ông L rút đơn khởi kiện đối với T,
Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo đình chỉ giải quyết vụ án. Quá trình giải quyết
vụ án, bị đơn không có ý kiến gì về lời khai của người làm chứng. Như vậy, có căn
cứ xác định giá trị thửa đất nhiều hơn số tiền bà T phải trả cho vợ chồng ông L nên
mới có thoả thuận sau khi khấu trừ nợ thì vợ chồng ông L còn phải thanh toán cho
T 160.000.000 đồng. Tại hợp đồng mua bán đất viết tay cũng thể hiện hai bên
thoả thuận số tiền chuyển nhượng là 160.000.000 đồng. Bị đơn cho rằng hai bên
thoả thuận giá chuyển nhượng 50.000.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền
200.000.000 đồng bà T còn nợ nhưng không xuất trình được chứng cứ chứng minh
cho thoả thuận này cũng không chứng minh được đã giao đủ số tiền
160.000.000 đồng cho anh P. Toà án cấp sơ thẩm buộc vợ chồng ông L, bà T1 phải
thanh toán 160.000.000 đồng cho anh P phù hợp Điều 278, 280, 410 Bộ luật
Dân sự.
[2.2]. Đối với yêu cầu khởi kiện của bị đơn ông Trần Ngọc L Hoàng
Thị T1 về việc buộc ông Phan Văn H Nguyễn Thị T phải trả nợ
200.000.0000 đồng.
Như đã phân tích mục [2.1], các bên thoả thuận chuyển nhượng thửa đất
số 172 với giá 375.000.000 đồng, sau khi khấu trừ 200.000.000 đồng T nợ, bớt
15.000.000 đồng, vợ chồng ông L còn phải thanh toán cho anh P 160.000.000 đồng
thật. Do vậy, xác định số tiền 200.000.000 đồng T nợ vợ chồng ông L
đã được khấu trừ vào tiền chuyển nhượng thửa đất 172. Do vậy, Toà án cấp
thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông L phù hợp Điều 378
Bộ luật Dân sự.
[3]. Từ những phân tích, nhận định trên, Hội đồng xét xử nhận thấy không
căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Trần Ngọc L và Hoàng Thị T1,
giữ nguyên Bản án dân sự thẩm s55/2024/DSST ngày 27/8/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk.
[4]. Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo của bị đơn nên bị đơn phải chịu
án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1]. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự,
7
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Trần Ngọc L và Hoàng Thị
T1. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 55/2024/DSST ngày 27/8/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk.
[2]. Áp dụng Điều 117, Điều 118, Điều 278, Điều 280, Điều 378, Điều 500,
Điều 501, Điều 502, Điều 503 Bộ luật dân sự; Điều 167, Điều 168, 188 Luật Đất
đai năm 2013; Điều 26, Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Tuyên xử:
[2.1]. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Phan Lê Quang P.
Buộc ông Trần Ngọc LHoàng Thị T1 phải trả cho anh Phan Lê Quang
P 160.000.000 đồng (một trăm sáu mươi triệu đồng).
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án n
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
[2.2]. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Ngọc L và bà
Hoàng Thị T1 về việc buộc ông Phan Văn H và bà Nguyễn Thị T phải tr
200.000.000 đồng lãi suất chậm trả tính tngày 17/5/2023 đến ngày xét xử
thẩm 27/8/2024 là 17.389.717 đồng.
[2.3]. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Phan
Lê Quang P về việc buộc ông Trần Ngọc L và bà Hoàng Thị T1 phải đền bù tiền vi
phạm hợp đồng là 160.000.000 đồng.
[3]. Về chi phí tố tụng.
Vợ chồng ông Trần Ngọc L Hoàng Thị T1 phải thanh toán cho anh Phan
Quang P 2.000.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ.
[4]. Về án phí.
- Án phí dân sự sơ thẩm:
+ Ông Trần Ngọc L Hoàng Thị T1 phải chịu 18.870.000 đồng án phí
dân sự thẩm, được khấu trừ vào 5.198.000 đồng tạm ứng đã nộp theo biên lai
thu số 1983 ngày 04/4/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo, tỉnh
Đắk Lắk. Ông L, T1 còn phải nộp 13.672.000 đồng.
+ Trả lại cho anh Phan Quang P 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự
thẩm, theo Biên lai thu số 11766 ngày 02/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Ngọc LHoàng Thị T1 phải chịu
600.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào 600.000 đồng tạm ứng
đã nộp theo biên lai thu số 2273 và 2274 ngày 04/9/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk.
8
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
[5]. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND THADS huyện Ea H’Leo;
- Chi cục THADS huyện Ea H’Leo;
- Các đương sự;
- Công thông tin điện tử Tòa án;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Nguyễn Thị Nhung
Tải về
Bản án số 339/2024/DS-PT Bản án số 339/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 339/2024/DS-PT Bản án số 339/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất