Bản án số 334/2024/DS-PT ngày 11/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 334/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 334/2024/DS-PT ngày 11/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 334/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyên đơn yêu cầu trả lại tiền chuyển nhượng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lưu Thị Thu Hường.
Các Thẩm phán: 1. Bà Nguyễn Thị Nhung.
2. Bà Nguyễn Thị Hạnh Vân.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Thanh Trang Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm t nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên toà:
Lương Thị Diệu Anh - Chức vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ số: 294/2024/TLPT-DS ngày 15/10/2024
về việc: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Do Bản án dân
sự sơ thẩm số: 17/2024/DS-ST ngày 22/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk
bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 275/2024/QĐ-PT ngày
22/10/2024, Quyết định hoãn phiên toà số 343/2024/QĐ-PT ngày 26/11/2024, giữa
các đương sự:
Nguyên đơn: Đỗ Thị T, sinh năm 1963; địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn
M’Đrắk, huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk (có đơn xin vắng mặt).
Bị đơn: Ông Huỳnh Phước Đ, sinh năm 1976 Nguyễn Thị H, sinh năm
1976; cùng địa chỉ: Thôn E, K, huyện M'Đrắk, tỉnh Đắk Lắk (có đơn xin vắng
mặt).
Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai ngày 30/3/2023 nguyên đơn bà Đỗ Thị T
trình bày:
Ngày 04/01/2023, vợ chồng ông Huỳnh Phước Đ, Nguyễn Th H thỏa thuận
ký hợp đồng đặt cọc và chuyển nhượng quyền sử dụng đất choĐỗ Thị T đối với
diện tích 1.152m
2
tại thôn C, K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk, nằm trong một phần
thửa đất số 22 có diện tích 1.575m
2
(trong đó, đất ở 100m
2
, đất trồng cây hàng năm
1.475m
2
), tờ bản đồ (TBĐ) 56, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 334/2024/DS-PT
Ngày 11 12 2024.
V/v Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng QSD đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
(GCNQSDĐ) số BT 467456 do Ủy ban nhân n (UBND) huyện M cấp ngày
25/9/2017 cho ông Nguyễn Văn H1 và Trnh Thị Thanh V, ông H1 V đã
chuyển nhượng cho ông Huỳnh Phước Đ Nguyễn Thị H, được Chi nhánh Văn
phòng đất đai (CNVPĐKĐĐ) huyện M xác nhận chuyển nhượng ngày 26/11/2021).
Giá chuyển nhượng 3.600.000.000đồng. Vợ chồng ông Đ H đã nhận đtiền
chuyển nhượng cam kết chậm nhất ngày 28/02/2023 phải hoàn tất mọi thủ tục
chuyển nhượng. Nếu không thực hiện cam kết, bđơn phải trả lại tiền đặt cọc đã
nhận và số tiền tương đương với số tiền bà T đã đặt cọc. Đến nay, vợ chồng ông Đ
bà H không thực hiện cam kết làm thtục chuyển nhượng quyền sử dng đất cho bà
T vi phạm nghĩa vụ. T yêu cầu vợ chồng ông Đ H phải tiếp tục thực hiện
nội dung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/01/2023, hoặc trả lại
tiền đã nhận cọc và tiền phạt cc bằng số tiền đã nhận cọc.
Quá trình giải quyết tại phiên tòa bà T trình bày:
Trước đây, vợ chồng H vay tiền của T nhiều lần để mua bán đất nhưng
sau đó không có khả năng trả nợ, nên đã đề nghị bà T nhận chuyển nhượng thửa đất
trên để trừ tổng tiền nợ đến thời điểm 04/01/2023 3.600.000.000đồng (giá
200.000.000 đồng/m ngang mặt đường quốc lộ). Các giao dịch vay tiền trước đây
giữa H T đã bhủy bỏ nên T không xác định được từng khoản tiền cụ
thể. Vợ chồng H ông Đ viết giấy nhận tiền cọc bán đất tại nhà ông Nguyễn
Đức Châu H2, sự chứng kiến của ông H2 ông Hồng S. Trong thời gian này,
vợ chồng bà H đang thế chấp quyền sử dụng đất trên tại Ngân hàng.
Quá thời hạn cam kết làm thủ tục chuyển nhượng, bà T đã nhiều lần yêu cầu
vợ chồng bà H thực hiện cam kết, nhưng vợ chồng H không làm thủ tục chuyển
nhượng. Đến tháng 4/2023, T làm đơn khởi kiện tại tòa án, đã được Tòa án thụ
hòa giải đối thoại. Hai bên đã thống nhất hủy bỏ giao dịch chuyển nhượng đất nói
trên, vợ chồng H phải trả lại tiền cọc đã nhận và tiền lãi 13%/năm cho đến khi trả
xong tiền cọc. Đến ngày 18/9/2023, ông Đ H mới trả 120.000.000đồng tiền lãi.
Bà T đã đòi nhiều lần nhưng ông Đ bà H không chịu trả nên khởi kiện lại. Hiện nay
vợ chồng H đã xóa thế chấp đã gán nợ cho người khác đi với thửa đất chuyển
nhượng trên mà không cung cấp bất kỳ thông tin về nội dung chuyển nhượng.
Bà T yêu cầu giải quyết hủy bỏ (chấm dứt) giao dịch chuyển nhượng quyền sử
dụng đất theo Giấy biên nhận tiền đặt cọc và thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất” ngày 04/01/2023 yêu cầu vợ chồng ông Đ H phải trả
3.600.000.000đồng tiền cc và tiền lãi phát sinh theo lãi suất của pháp luật quy định
là 10%/năm tính từ ngày 19/9/2023 đến ngày giải quyết xong vụ án, rút yêu cầu đối
với phần yêu cầu phạt cọc. Tại phiên tòa bà T chyêu cầu trả lại tiền chuyển nhượng
3.600.000.000đồng, rút mt phần yêu cầu khởi kiện đối với tiền lãi và tiền phạt cọc.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn vợ chồng ông Huỳnh phước Đ Nguyễn
3
Thị H trình bày:
- Tại bản tự khai ngày 18/3/2024, ông Đ trình bày: Ngày 29/5/2021, bà T mới
cho ông Đ biết về số tiền vay giữa T H 1.500.000.000đồng, tiền lãi
3.000đồng 2.000đồng/triệu/ngày. Đến ngày 25/4/2022, cộng cả gốc lãi
2.200.000.000đồng, lãi phải trả hàng tháng 132.000.000đồng. Đến ngày 04/01/2023,
cộng tất cả tiền nợ gốc và lãi để lấy đất của gia đình ông Đ, sau đó T đổi ý không
lấy đất kiện vchồng ông Đại Đ1 lấy số tiền cộng cả lãi gốc. Tại biên bản
chấm dứt hòa giải các bên kết ngày 04/5/2023, hủy việc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 04/01/2023. Ngày 18/9/2023, vợ chồng ông Đ đã trả cho T
120.000.000đồng. Bà T tiếp tục khởi kiện là sai quy định nên không chấp nhận.
- Tại bản tự khai ngày 29/02/2024, H trình bày: Ngày 04/01/2023, vợ chồng
H ký hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất choT, cam kết
chuyển nhượng diện tích 1.152m
2
đất thôn C, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk, thuộc
thửa số 22 diện tích 1.575m
2
, TBĐ 56. Vợ chồng H đã nhận đủ tiền chuyển
nhượng. Do vướng mắc thủ tục tách thửa nên chưa hoàn tất được thủ tục để ký hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho cho bà T.
- Tại Biên bản hòa giải ngày 04/5/2024, bà H trình bày: T vchồng bà
H đã thống nhất hủy việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo “Giấy biên nhận
tiền đặt cọc và thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 04/01/2023; Vợ
chồng H phải trả cho bà T 3.600.000.000đồng tiền đặt cc. Kể từ ngày 01/6/2023
đến khi thi hành xong nghĩa v trả nợ, vợ chồng bà H phải trả cho bà T tiền lãi phát
sinh trên số nợ gốc theo lãi suất 13%/năm. Vợ chồng bà H đã trả 120.000.000 đồng
tiền lãi vào ngày 18/9/2023. Từ đó đến nay do hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên
chưa điều kiện trả thêm cho T được khoản nào khác. H đề nghị tiếp tục
thực hiện như biên bản về việc chấm dứt hòa giải ngày 04/5/2023, hủy việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất theo “Giấy biên nhận tiền đặt cọc và thỏa thuận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất” ngày 04/01/2023; Vợ chồng H phải trả cho T
3.600.000.000 đồng tiền đặt cọc tiền lãi tính trên nợ gốc theo mức lãi suất
13%/năm kể từ ngày 01/6/2023 đến khi thi hành xong nghĩa vụ trả nợ.
- Tại Bản tự khai ngày 25/3/2024, H trình bày: m 2020, H vay tiền của
bà T nhiều lần, hàng tháng vẫn trả lãi đầy đủ. Ông Đ không biết việc bà H vay tiền.
Ngày 29/5/2021, bà T cộng tất cả các khoản nợ, ông Đ cùng ký giấy vay nợ và cùng
trả nợ lãi cho Tng tháng. Ngày 25/4/2022, bà T tính tất cả các khoản nợ tiếp
tục tính lãi cho đến ngày 04/01/2023. Bà T nói lấy đất 18m Quốc lộ B nhưng lại
nói không lấy đất và kiện ra Tòa án. Hai bên đã thỏa thuận tại biên bản hòa giải ngày
04/5/2023, H strả cho bà T số tiền còn nợ và tính theo lãi 13%/năm. H đã trả
cho bà T 120.000.000đồng. Hoàn cảnh kinh tế của bà H rất khó khăn. Do bà H vay
tiền của T nên mới việc lấy đất hợp đồng đặt cọc, không phải bán đất mà
4
chỉ gán nợ khoản tiền bà H vay củaT.
- Tại biên bản đối chất, biên bản hòa giải ngày 14/5/2024, Biên bản hòa giải
ngày 20/6/2024 và bản tự khai ngày 17/6/2024, bà H trình bày:
Bản chất của giao dịch hợp đồng đặt cọc và chuyển nhượng quyền sử dụng đất
do trước đây bà H vay mượn tiền của T nhiều lần nhưng không khả năng
trả, bà T mới bắt bà H phải viết giấy vay số tiền ngày 25/4/2022 tổng số tiền vay là
2.200.000.000 đồng. Các bên đã hủy giấy vay ngày 29/5/2021. Từ ngày 25/4/2022
đến ngày 04/01/2023, H không khả năng trả lãi. Ngày 04/01/2023, các bên
mới thỏa thuận gán thửa đất trên để trừ nợ với giá 3.600.000.000đồng. Do quyền sử
dụng đất đang thế chấp vay tại ngân hàng (khoản vay 3.000.000.000 đồng) H
chưa điều kiện trả ncho ngân hàng để lấy GCNQSDĐ m thtục chuyển
nhượng cho T. H chấp nhận yêu cầu chấm dứt hợp đồng đặt cọc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/01/2023, không đồng ý yêu cầu trả lại tiền cọc,
chỉ đồng ý trả số tiền nợ gốc đã chốt với nguyên đơn ngày 25/4/2022
2.200.000.000 đồng.
Tại Bản án dân sự thẩm số 17/2024/DS-ST ngày 22/7/2024 của Tòa án nhân
dân huyện M’Đrk đã quyết định:
Căn cứ các Điều 117, 122, 131, 201, 291, 387, 407, 503 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Luật phí lệ phí năm 2015; Khoản 2 Điều 26, khoản 3, 4 Điều 27 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hi.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Đỗ Thị T: Tuyên
bố hủy bỏ (chấm dứt) giao dịch chuyển nhượng đất theo “Giấy biên nhận tiền đặt
cọc thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 04/01/2023 giữa đỗ
Thị T và vợ chồng ông Huỳnh Phước Đ Nguyễn Thị H đối với diện tích 1.152m
2
tại thôn C, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk, nằm trong một phần thửa đất số 22 (trong
đó, đất 100m
2
, đất trồng cây hàng năm 1.475m
2
), tờ bản đồ số 56, theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số BT 467456 ngày 25/9/2017 do Ủy ban nhân n huyện
M’Đrắk cấp cho ông Nguyễn Văn H1 và bà Trịnh Thị Thanh V, đã được Chi nhánh
xác nhận chuyển nhượng cho ông Huỳnh Phước Đ Nguyễn Thị H ngày
26/11/2021. Bị đơn vợ chng ông Đ bà H phải trả cho bà T 3.600.000.000 đồng tiền
chuyển nhượng đất.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Đỗ Thị T buộc bị
đơn vchồng ông Đ bà H trả tiền phạt cọc 3.600.000.000 đồng tiền lãi phát sinh.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo cho các đương
sự theo quy định của pháp luật.
5
Ngày 08/8/2024, bị đơn Nguyễn Thị H kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự
thẩm. Đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại số nợ lãi của H, yêu cầu nguyên đơn
phải trừ 120.000.000đồng bà H đã trả vào số nợ gốc.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên nội dung yêu cầu khởi
kiện, bị đơn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tnh Đắk Lắk có ý kiến như sau:
- Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án cũng như các đương sự trong vụ
án đã chấp nh đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Thị H. Sửa Bản
án dân sự thẩm s17/2024/DS-ST ngày 22/7/2024 của Toà án nhân dân huyện
M’Đrắk theo hướng công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa
và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về nội dung:
Ngày 04/01/2023, gia vợ chồng ông Huỳnh Phước Đ, bà Nguyễn Thị H
Đỗ Thị T có ký “Giấy biên nhận đặt cọc và chuyển nhượng quyền sử dụng đất” với
nội dung chính: Vợ chồng ông Huỳnh Phước Đ, Nguyễn Thị H đồng ý chuyển
nhượng cho Đỗ Thị T thửa đất số 22, tờ bản đồ 56, diện tích 1.575m
2
toạ lạc tại
thôn C, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk, theo GCNQSD đất số BT 467456 do UBND
huyện M’Đrắk cấp ngày 25/7/2017 cho ông Nguyễn Văn H1 và Trịnh Thị Thanh
V, được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện M đăng ký biến động chuyển
nhượng cho ông Huỳnh Phước Đ, Nguyễn Thị H vào ngày 26/11/2021 với giá
chuyển nhượng 3.600.000.000 đồng. Hai bên cam kết, chậm nhất vào ngày
28/02/2023 ông Đ, bà H phải hoàn tất mọi thủ tục chuyển nhượng cho bà T.
Quá trình giải quyết vụ án, tại biên bản lấy lời khai ngày 27/3/2024 (BL 22),
nguyên đơn bà Đỗ Thị T thừa nhận nguồn gốc của số tiền 3.600.000.000 đồng mua
đất do trước đó bị đơn Nguyễn Thị H vay tiền nhiều lần của nguyên đơn. Trong
đó, tổng số tiền vay đến tháng 12/2021 1.500.000.000 đồng. Năm 2022, bị đơn
vay thêm lần 1 500.000.000 đồng, lần 2 200.000.000 đồng. Đến ngày 25/4/2022,
hai bên chốt tổng số tiền nợ gốc 2.200.000.000 đồng. Bị đơn không trả được khoản
tiền lãi nào cho nguyên đơn nên đến ngày 04/01/2023 hai bên chốt số nợ gốc và lãi
3.600.000.000 đồng (trong đó 2.200.000.000 đồng nợ gốc nợ lãi từ tháng
3/2022 đến tháng 12/2022 10 tháng 1.400.000.000 đồng). Sau khi chốt nợ lại
chuyển sang Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
04/01/2023.
Lời trình bày của T phù hợp với các giấy vay tiền đã bị gạch bỏ mà bị đơn
cung cấp cho Tòa án gồm: Hợp đồng vay tiền lập ngày 29/5/2021 số tiền vay
6
1.500.000.000 đồng, người vay Huỳnh Phước Đ Nguyễn Thị H. Mặt sau
của Hợp đồng, tại dòng thứ 1 đến dòng thứ 5 (từ dưới lên) thể hiện nội dung: Ngày
25/4/2022 cộng tất cả vào 1 giấy gồm: 1.500 gc + 500 gốc + 200 gốc; 01 giấy vay
tiền ngày 25/4/2022 với số tiền vay là 2.200.000.000 đồng.
Như vậy, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự tài liệu, chứng cứ các
đương sự cung cấp, có cơ sở xác định đến ngày 25/4/2022, ông Huỳnh Phước Đ
Nguyễn Thị H đã xác nhận còn nợ nguyên đơn số tiền gốc 2.200.000.000 đồng.
Đến ngày 04/01/2023, hai bên Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nhằm mục đích để cấn trừ số nợ mà bị đơn đã vay của nguyên đơn. Số tiền
chuyển nhượng nêu trong Hợp đồng được tính từ khoản tiền gốc bị đơn đã vay của
nguyên đơn 2.200.000.000 đồng tiền lãi của số tiền 2.200.000.000 đồng từ ngày
25/4/2022 đến ngày 04/01/2023. Như vậy, Lãi suất các bên thỏa thuận vượt quá
quy định của pháp luật.
[2] Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn bị đơn đã thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án. Cụ thể như sau:
- Hủy bgiao dịch chuyển nhượng đất theo “Giấy biên nhận tiền đặt cọc
thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 04/01/2023 giữa Đỗ Thị T
vợ chồng ông Huỳnh Phước Đ Nguyễn Thị H đối với diện tích 1.152m2 tại
thôn C, K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk, thửa đất số 22 (trong đó, đất 100m2, đất
trồng cây hàng năm 1.475m
2
), tờ bản đồ số 56, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BT 467456 ngày 25/9/2017 do Ủy ban nhân dân huyện M cấp cho ông Nguyễn
Văn H1 và bà Trịnh Thị Thanh V, đã được Chi nhánh xác nhận chuyển nhượng cho
ông Huỳnh Phước ĐNguyễn Thị H ngày 26/11/2021.
- Vợ chồng ông Huỳnh Phước Đ, Nguyễn Thị H phải có nghĩa vụ trả cho bà
Đỗ Thị T số tiền 2.200.000.000 đồng (Hai tỷ hai trăm triệu đồng).
- Bà Nguyễn Thị H còn phải chịu trách nhiệm trả cho bà T số tiền 240.000.000
đồng (Hai trăm bốn mươi triệu đồng).
Xét sự thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, phù hợp quy định của pháp
luật nên cần công nhận.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Huỳnh Phước Đ Nguyễn Thị H phải chịu án phí thẩm giá
ngạch của số tiền 2.200.000.000 đồng. Cụ thể: 72.000.000 đồng + (200.000.000
đồng x 2%) = 76.000.000 đồng.
- Bà Nguyễn Thị H còn phải chịu án phí có giá ngạch của số tiền 240.000.000
đồng. Cụ thể: 240.000.000 đồng x 5% = 12.000.000 đồng.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn Nguyễn Thị H phải chịu 300.000
đồng án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
7
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Áp dụng khoản 2 Điều 308; Điều 309 Bộ luật T tụng dân sự;
Chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị H. Sửa bản án dân sự sơ thẩm
số 17/2024/DS-ST ngày 22/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk.
Căn cứ các Điều 117, 122, 123, 131, 407, 463, 468 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Điều 26; khoản 3, 4 Điều 27; khoản 5 Điều 29 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
[2] Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự cụ thể như sau:
[2.1] Hủy bỏ giao dịch chuyển nhượng đất theo Giấy biên nhận tiền đặt cọc
thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 04/01/2023 giữa đỗ Thị
T và vợ chồng ông Huỳnh Phước Đ bà Nguyễn Thị H đối với diện tích 1.152m
2
thuộc thửa đất số 22, tờ bản đồ số 56, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất s
BT 467456 ngày 25/9/2017 do Ủy ban nhân dân huyện M’Đrắk cấp cho ông Nguyễn
Văn H1 Trịnh Thị Thanh V, đã được Chi nhánh Văn phòng M xác nhận chuyển
nhượng cho ông Huỳnh Phước Đ, bà Nguyễn Thị H ngày 26/11/2021, đất tọa lạc tại
thôn C, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk.
[2.2] Vợ chồng ông Huỳnh Phước Đ, bà Nguyễn Thị H phải nghĩa vụ trả
cho bà Đỗ Thị T s tiền 2.200.000.000 đồng (Hai tỷ hai trăm triệu đồng).
[2.3] Nguyễn Thị H còn phải nghĩa vụ trả cho Đỗ Thị T số tiền
240.000.000 đồng (Hai trăm bn mươi triệu đồng).
Kể tngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành xong, hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ
luật dân sự năm 2015.
[3]. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đỗ Thị T về việc
buộc bị đơn vợ chồng ông Đ bà H trả tiền phạt cc là 3.600.000.000 đồng và tiền lãi
phát sinh.
[4]. Về án phí:
[4.1] Án phí DSST:
Vợ chồng Huỳnh Phước Đ, bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm
ngàn đồng) tiền án phí dân skhông giá ngạch 76.000.000 đồng (Bảy mươi
sáu triệu đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch. Bà Nguyễn Thị H còn phải
chịu 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng) án phí sơ thẩm có giá ngạch.
[4.2] Án phí dân sphúc thẩm: Bị đơn Nguyễn Thị H phải chịu 300.000
đồng án phí dân sự phúc thẩm, khấu trvào stiền 300.000 đồng tạm ứng án phí do
Nguyễn Thị H nộp theo biên lai số 0008762 ngày 09/8/2024 của Chi cục thi hành
án dân sự huyện M.
8
[5] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
[6] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân s
có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a Điều
9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện M’Đrắk;
- Chi cục THADS huyện M;
- Các đương sự; (Đã )
- Công thông tin điện tử Tòa án;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Lưu Thị Thu Hường
Tải về
Bản án số 334/2024/DS-PT Bản án số 334/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 334/2024/DS-PT Bản án số 334/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất