Bản án số 13/2025/HNGĐ-PT ngày 25/04/2025 của TAND tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 13/2025/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 13/2025/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 13/2025/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 13/2025/HNGĐ-PT ngày 25/04/2025 của TAND tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Thanh Hóa |
Số hiệu: | 13/2025/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Lê Xuân T xin ly hôn bà Lê Thị Th |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THANH HÓA
Bản án số: 13/2025/HNGĐ-
PT
Ngày 25/4/2025
V/v: “Ly hôn, tranh chấp chia
tài sản khi ly hôn”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Hiệu
Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Phương Thanh
Ông Lê Ngọc Lâm
- Thư ký phiên tòa: Bà Đỗ Thị Hương - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Thanh Hóa.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa tham gia phiên tòa:
Bà Lữ Thị Phương Quý - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét
xử phúc thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 39/TLPT-HNGĐ
ngày 08 tháng 11 năm 2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp chia tài sản khi ly hôn”.
Do bản án sơ thẩm số 47/2024/HNGĐ-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024 của Toà án
nhân dân huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử phúc thẩm số 31/2024/QĐPT-HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2024;
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Lê Xuân T, sinh năm 1963; có mặt.
(Trong Giấy chứng nhận kết hôn ghi tên Lê Mạnh T1, sinh năm 1961)
Trú tại: Thôn B, xã Y, huyện N, tỉnh Thanh Hóa.
2. Bị đơn: Bà Lê Thị T8, sinh năm 1967; có mặt.
Trú tại: Thôn B, xã Y , huyện N, tỉnh Thanh Hóa.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà T8: Luật sư Nguyễn Thị H -
Công ty L4 - Thuộc Đoàn Luật sư tỉnh T; có mặt.
Địa chỉ: SN A Đ, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Anh Lê Tuấn H1, sinh năm 1989; vắng mặt.
Địa chỉ: Đ thị xã K, tỉnh Long An.
2
3.2. Anh Lê Quyết C, sinh năm 1991; vắng mặt.
Trú tại: Thôn B, xã Y , huyện N, tỉnh Thanh Hóa.
3.3. Chị Lê Thị P, sinh năm 1992; có mặt.
Địa chỉ: Thôn X, xã X, huyện N, tỉnh Thanh Hóa
Anh Lê Tuấn H1, anh Lê Tiến C1, chị Lê Thị P ủy quyền cho bà Lê Thị T8,
sinh năm 1967; có mặt.
Địa chỉ: thôn B, xã Y, huyện N, tỉnh Thanh Hóa.
3.4. UBND huyện N, tỉnh Thanh Hóa
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đặng Tiến D - Chủ tịch UBND huyện.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Huy C2 - Trưởng phòng TNMT, theo
Văn bản ủy quyền số: 319/GUQ-UBND ngày 23/7/2024, vắng mặt.
3.5. UBND xã Y, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.
Người kháng cáo: Bị đơn bà Lê Thanh T2.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 20/7/2022 và lời khai trong quá
trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Lê Xuân T trình bày:
Ông (Lê Xuân T) và bà Lê Thị Thanh tự N kết hôn và đăng ký kết hôn tại
UBND xã Y, huyện N, tỉnh Thanh Hóa ngày 13/01/1989. Sau khi kết hôn vợ
chồng chung sống hạnh phúc, đến tháng 5/2016 xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, xung
đột. Nguyên nhân mâu thuẫn, khi các con đã lớn, đã có công ăn việc làm có thu
nhập và có cuộc sống riêng, trong gia đình vợ chồng có bất đồng trong việc làm
ăn phát triển kinh tế cũng như một số công nợ do vay mượn lo xây dựng gia đình,
bà T8 không có ý thức trách nhiệm với gia đình để khắc phục khó khăn mà thường
xuyên công kích tới các con, làm mất đoàn kết trong gia đình, đặc biệt làm cho
các con khinh thường và bất hiếu hiếu với bố.
Từ tháng 10/2017 hầu như bà T8 và các con không coi ông ra gì, cảm thấy
cuộc sống chán nản, tháng 3/2018 ông đã vào miền nam làm ăn, khi vào miền
nam chưa được bao lâu thì ông bị ốm, nhưng vợ con không hề chăm sóc hỏi thăm.
Xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống hôn nhân thực tế đã không
còn nên ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Lê Thị T8.
Về con chung: Tôi và và bà T8 có 03 con chung là: Lê Tuấn H1, sinh ngày
24/9/1989; Lê Quyết C, sinh ngày 10/11/1991; Lê Thị P, sinh ngày 02/01/1992.
Hiện nay các con đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản và công nợ: Vợ chồng ông không có công nợ chung. Vợ chồng
có các tài sản chung như kết quả Tòa án xem xét thẩm định tại chỗ ngày 29/5/2024;
gồm:
3
- Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 74, tờ bản đồ
số không, bản đồ 299 xã Y; nay là thửa số 31, tờ bản đồ số 10, bản đồ địa chính
xã Y đo vẽ năm 2007; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 720573 ngày
01/02/2002 của UBND huyện N cấp, mang tên chủ hộ là bà Lê Thị T8; địa chỉ đất
tại: Thôn B, xã Y, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Hiện bà T8 đang giữ Giấy CNQSD
đất;
- Nhà ở, chuồng trại và các công trình phụ;
- Cây cối, hoa lợi trên đất;
- Các vật dụng sinh hoạt trong gia đình.
Khi ly hôn, ông đề nghị chia tài sản chung là hiện vật như sau: Ông nhận
01 giường đôi Modec, 01 tủ tường và 01 nhà gỗ giáp chuồng gà (nếu nhà gỗ nằm
trên phần đất chia cho bà T8 thì ông có trách nhiệm di dời nhà ra khỏi phần đất
chia cho bà T8); Bà T8 nhận 02 giường đôi (02 giường kiểu Hàn Quốc), 01 bộ
bàn ghế, 01 tủ ly, nhà ở và các công trình phụ (trừ nhà gỗ).
Về quyền sử dụng đất, ông đề nghị chia cho ông phần phía Bắc của thửa
đất, trong đó có 50m
2
đất ở, phần còn lại là đất vườn. Đề nghị chia cho bà T8 phần
đất phía Nam của thửa đất (phần có nhà ở và các công trình phụ), trong đó có
50m
2
đất ở, phần còn lại là đất vườn. Về ranh giới chia: Để đảm bảo giá trị sử
dụng của các công trình xây dựng, ông đề nghị cắm mốc chia đất tại điểm tận
cùng phía Bắc của ngõ đi, kéo thẳng về phía sau theo hướng song song với cạnh
phía Nam đất anh Tuấn A, đi qua điểm tận cùng phía Bắc của chuồng gà (giáp
nhà gỗ), đến tường rào liền kề khu chuồng trại. Đối với diện tích đất gia đình đang
sử dụng phía sau khu chồng trại (diện tích 1.048,2m
2
), ông chấp nhận chia cho bà
T8.
Nếu ai được chi hiện vật có gía trị cao hơn thì phải trả chênh lệch cho phía
bên kia.
Về nguồn gốc hình thành tài sản: Toàn bộ diện tích đất đó gia đình ông mua
năm 1992 của ông Bùi Mạnh L (anh rể của bà T8, địa chỉ: Thôn B, xã Y. Khi bán
cho ông, ông L không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất
đó, mà chỉ là người đang canh tác (trồng sắn) và chiếm giữ đất. Khi mua bán đất,
hai bên chỉ nói miệng mà không lập thành văn bản. Nay vợ chồng ông mâu thuẫn,
do ông L là anh rể bà T8 nên ông L không thừa nhận việc mua bán đất với ông.
Đến năm 2002, thực hiện chủ trương của huyện N về cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho các hộ đã sử dụng ổn định, lâu dài; bà T8 đã đi làm thủ tục đề
nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bà T8 làm chủ hộ vì lúc đó ông
đang đi lao động tại huyện T). Đối với các tài sản gắn liền với đất và vật dụng
sinh hoạt trong gia đình là tài sản do vợ do vợ chồng tạo lập trong thời kỳ hôn
nhân nên là tài sản chung của vợ chồng.
Về chi phí tố tụng: Chi phí tố tụng xem xét thẩm định tại chỗ và định giá
tài sản hết tổng cộng 10.000.000 đồng. Ông T đề nghị được chịu toàn bộ và đã
nộp đủ số tiền trên.
4
Về án phí: Ông T đề nghị Tòa án miễn án phí cho ông.
* Ý kiến của bị đơn Lê Thị T8:
Về hôn nhân: Bà T8 thống nhất nội dung trình bày của ông T3 về thười gian
kết hôn, điều kiện kết hôn và tình trạng hôn nhân. Nhưng bà T8 xét thấy tình cảm
vợ chồng đang còn nên bà không đồng ý ly hôn ông Lê Xuân T.
Về con chung, bà T8 và oogn T có 03 con chung như ông T8 trình bày là
đúng. Các con chung đều đã thành niên và đã tạo lập được cuộc sống riêng nên
bà không yêu cầu Tòa án giải quyết trách nhiệm nuôi con chung.
Về tài sản và công nợ: Đối với công nợ chung, bà T8 không yêu cầu Tòa
án giải quyết.
Đối với tài sản: Tại biên bản lấy lời khai ngày 10/7/2019, bà T8 thừa nhận
vợ chồng có các tài sản chung gồm: quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và các
vật dụng sinh hoạt đúng như ông T đã trình bày. Bà đề nghị xem xét công sức của
các con bà trước khi chia tài sản theo quy định của pháp luật. Tại bản tự khai ngày
08/8/2019 và tại phiên hòa giải ngày 04/9/2019, bà T8 trình bày: Mảnh đất vợ
chồng bà đang ở là đất của bố mẹ bà cho vợ chồng bà và được chính quyền địa
phương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà nên bà không đồng
ý chia đất cho ông T. Bà chỉ chấp nhận chia tài sản là nhà và các vật dụng sinh
hoạt khác. Ngoài các tài sản như ông T đã khai, vợ chồng bà còn có 01 giàn máy
móc thiết bị làm mộc nhưng bà không nêu quan điểm giải quyết về giàn máy trên.
Về án phí và chi phí tố tụng khác: Bà Lê Thị T8 đề nghị giải quyết theo quy
định của pháp luật.
* Ý kiến của các con chung:
- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 24/9/2020, anh Lê Tuấn H1 (con chung
của ông T và bà T8) trình bày: Anh có đóng góp công sức vào việc tạo lập tài sản
của gia đình nhưng anh không yêu cầu trích công sức cho anh khi chia tài sản cho
ông T và bà T8. Anh đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh.
- Tại Bản tự khai ngày 17/4/2022, chị Lê Thị P (con chung của ông T và bà
T8) trình bày: Chị lấy chồng từ năm 2012. Chị bắt đầu có thu nhập từ năm 2012.
Khi có thu nhập, chị có hỗ trợ bố mẹ bằng tiền mặt nhưng không nhớ số tiền cụ
thể. Chị P không yêu cầu trích công sức cho chị khi chia tài sản cho ông T và bà
T8. Chị đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt chị.
- Đối với anh Lê Quyết C: Ông T đã cung cấp cho Tòa án nhiều địa chỉ
tạm trú của anh C. Tòa án đã thực hiện việc ủy thác thu thập chứng cứ lấy lời khai
của anh C nhưng không có kết quả. Do anh C vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại
thôn B, xã Y, huyện N và hằng tháng có về nhà nên Tòa án tiến hành niêm yết các
văn bản tố tụng cho anh C theo quy định. Nhưng anh C vẫn không có mặt để làm
việc theo yêu cầu của Tòa án.
* Tại biên bản ghi lời khai ngày 14/6/2024, ông Bùi Mạnh L (người bán đất
cho gia đình ông T theo lời khai của ông T) trình bày: Ông không bán đất cho gia
5
đình ông T. Ông cũng không biết gì về nguồn gốc mảnh đất mà vợ chồng ông T
đang tranh chấp.
* Tại Công văn số 22/CV-VPĐK ngày 06/8/2020 của Chi nhánh Văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất huyện N (gửi kèm theo hồ sơ giao đất) thể hiện: Thửa
đất mà ông T và bà T8 đang tranh chấp là đất giao cho hộ gia đình có thu tiền sử
dụng đất; người đại diện đứng tên đăng ký là bà Lê Thị T8.
* Tại phiên hòa giải ngày 23/7/2024, người đại diện hợp pháp của UBND
huyện N nêu quan điểm:
- Về chủ thể quyền sử dụng đất: Ngày 01/02/2002, hộ bà Lê Thị T8 được
UBND huyện N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 720573 ngày
01/02/2002, tại thửa số 74 tờ bản đồ số không ghi BĐ 299 (theo hồ sơ địa chính
xã Y đo vẽ năm 2007 nay là thửa đất số 31, tờ bản đồ số 10 mang tên ông Lê Xuân
T và bà Lê Thị T8, diện tích 5905m
2
) trong đó đất ở 400m
2
, đất cây lâu năm
5.505m
2
địa chỉ thửa đất thôn ba C, xã Y, huyện N.
- Diện tích trên Giấy CNQSD đất đã được cấp, đất ở 400m
2
, đất vườn tạp
(cây lâu năm) 600m
2
.
- Đối tượng giao đất là giao cho hộ gia đình, có thu tiền sử dụng đất.
- Người đại diện đứng tên trên Giấy CNQSD đất mang tên bà Lê Thị T8.
- Biến động sau khi được cấp Giấy CNQSD đất năm 2008 chuyển nhượng
cho bà Lương Thị H2 diện tích 100m
2
đất ở và 80m
2
đất vườn tạp. Năm 2013
chuyển nhượng cho ông Nguyễn Đình Q diện tích 100m
2
đất ở và 50m
2
đất vườn
tạp. Năm 2013 chuyển nhượng cho ông Lê Tuấn A diện tích 100m
2
đất ở và 25m
2
đất vườn tạp. Tổng diện tích chuyển nhượng cho 3 hộ là 455m
2
đất ở là 300m
2
,
đất vườn tạp 155m
2
.
- Diện tích đất còn lại đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là
545m
2
. Trong đó: 100 đất ở và 445m
2
đất vườn tạp.
- Diện tích đất trong cùng thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất (phần đất dôi dư theo bản đồ năm 2007) là 4.905m
2
. Tuy nhiên, tại
thời điểm xem xét, thẩm định tại chỗ, các bên đương sự chỉ dẫn diện tích cùng
thửa với đất ở là 2.640,8m
2
; trong đó: Đất đang tranh chấp: 1.592,6m
2
; đất không
có tranh chấp: 1.048,2m
2
. Phần đất dôi dư theo đương sự chỉ dẫn là 2.095,8m
2
.
Trong đó, diện tích đất dôi dư có tranh chấp theo đương sự chỉ dẫn là 1.047,6m
2
,
diện tích đất dôi dư không có tranh chấp là 1.048,2m
2
.
* Về hướng xử lý:
- Đề nghị Tòa án chỉ xem xét giải quyết phần diện tích đất do đương sự chỉ
dẫn. Đối với phần đất dôi dư trong cùng thửa nhưng đương sự không khai báo,
chỉ dẫn, Nhà nước sẽ thực hiện việc quản lý theo quy định của Luật Đất đai.
- Đối với phần đất dôi dư có tranh chấp theo đương sự chỉ dẫn (1.047,6m
2
).
Nếu hộ gia đình đã sử dụng ổn định, lâu dài, phù hợp với quy hoạch mà không có
6
tranh chấp với người khác thì đề nghị Toà án tạm giao quản lý cho hộ ông T, bà
T8. Nếu có tranh chấp với chủ thể khác (người thứ ba) thì đề nghị Toà án tách ra
để giải quyết thành vụ án khác.
* Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản đang tranh chấp
ngày 29/5/2024 như sau:
1. Đối với đất tại thửa đất số 74, tờ bản đồ số không, bản đồ địa chính (299)
xã Y; nay là thửa số 31, tờ bản đồ số 10, bản đồ địa chính xã Y đo vẽ năm 2007;
Giấy CNQSD đất số T 720 573, cấp ngày 01/02/2002 mang tên bà Lê Thị T8:
Tổng diện tích theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng là: 1.000m
2
. Trong đó: đất ở
400m
2
, đất vườn tạp cùng thửa đất ở 600m
2
. Tuy nhiên, hộ gia đình đã chuyển
nhượng cho các hộ sau đây:
- Ngày 09/6/2008 chuyển nhượng cho bà Lương Thị H2 100m
2
đất ở, 80m
2
đất vườn tạp.
- Ngày 03/3/2014 chuyển nhượng cho ông Lê Tuấn A 100m
2
đất ở, 25m
2
đất vườn.
- Ngày 03/3/2014 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Đình Q và bà Lê Thị Đ
100m
2
đất ở, 50m
2
đất vườn.
Diện tích còn lại trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp là
545m
2
, trong đó 100m
2
đất ở và 445m
2
đất vườn tạp.
Diện tích và giá trị hiện trạng sử dụng đất như sau:
Tổng diện tích khu đất theo ranh giới sử dụng đất do đương sự chỉ dẫn, kết
quả đo được là: 2.640,8m
2
; trong đó có 545m
2
đã được cấp Giấy CNQSD đất,
2.095,8m
2
đất tăng thêm. Hiện gia đình sử dụng lâu dài và ổn định, không có tranh
chấp với người khác. Có tứ cận: Phía Đông: chiều dài 28,06m, giáp đường liên
xã; phía Tây: chiều dài 37,19m, giáp đất ông T6 và ông T4; phía Nam: chiều dài
75,06m, giáp đất ông T6, ông T5; phía Bắc: gồm 5 đoạn gấp khúc có tổng chiều
dài 75,57m giáp đất ông T4, bà H2, ông Q, ông Tuấn A (Có sơ đồ thửa đất kèm
theo hồ sơ).
- Diện tích các bên đương sự đang tranh chấp đề nghị chia: 1.592,6m
2
, trị
giá:
Đất ở: 100m
2
x 4.000.000đ = 400.000.000 đồng.
Đất vườn cùng thửa với đất ở: 1.492,6m
2
x (4.000.000đ - 20.000đ) x 0,5 =
2.970.247.000đ.
Tổng giá trị quyền sử dụng đất có tranh chấp là: 400.000.000 đồng +
2.970.247.000đ = 3.370.247.000 đồng.
- Diện tích đất không có tranh chấp: 1.048,2m
2
(đất cây lâu năm cùng thửa
đất ở) có giá trị: 1.048.2m
2
x (4.000.000đ - 20.000đ) x 0,5 = 2.085.918.000 đồng.
2. Đối với tài sản trên đất
7
* Về công trình xây dựng gồm:
- Nhà ở cấp 4, 03 gian, xây tường, lợp ngói, diện tích 53,6m
2
; giá trị còn lại
10.588.720 đồng.
- Nhà bán mái xây gạch cốm, mái lợp Fbloximang, diện tích 26,65m
2
; giá
trị còn lại: 0 đồng.
- Nhà gỗ, mái lợp F, diện tích 44m
2
; giá trị còn lại 2.070.933 đồng.
- Nhà bếp và nhà tắm xây gạch, mái lợp ngói; có tổng giá trị còn lại
1.804.294 đồng.
- Tường rào xây gạch không nung kết hợp lưới B40, tổng diện tích 40,47m
2
;
giá trị còn lại 5.584.860 đồng.
- Tường rào xây gạch không nung, diện tích 52,6m
2
; giá trị còn lại
3.791.145 đồng.
- Sân bê tông M200, dày 5cm: 6,2m x 7,8m + 5,8m x 5,5m + 3,1m x 15m
= 126,7m
2
(6,3 m
3
); giá trị còn lại 3.510.220 đồng.
- Chuồng trại xây gạch cốm, mái lợp Fibloximang, nền bê tông gạch vỡ:
9,7m x 5m + 4,9m x 3m = 63,2 m
2
; giá trị còn lại 14.999.466 đồng.
Tổng giá trị còn lại của nhà ở, vật kiến trúc và công trình phụ là 42.349.638
đồng.
* Cây cối hoa lợi: trồng phân bố đều trên diện tích đất vườn các loại cây
lâu năm như: Xoài, nhãn, vải, đào, na, quyết, cam, bưởi …, có tổng trị giá
1.831.000 đồng. (Các bên không yêu cầu Tòa án giải quyết).
3. Tài sản là vật dụng sinh hoạt gồm có: 01 Tủ tường giá trị 1.000.000 đồng;
01 tủ ly có giá trị 800.000 đồng; 01 Bộ bàn ghế sa L5 có giá trị 1.800.000 đồng;
03 Giường đôi có giá trị 1.500.000 đồng. Tổng trị giá tài sản là vật dụng sinh hoạt
bằng 5.100.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản tranh chấp (đất, nhà ở, vật kiến trúc và vật dụng sinh
hoạt) đã tiến hành định giá là 3.417.696.638 đồng.
* Bản án sơ thẩm số 47/2024/HNGĐ-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa:
Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 227; Điều 235;
khoản 2, khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Điều 33; 51; 56; 59; 62 Luật
Hôn nhân và Gia đình. Điều 6; điểm đ khoản 1 Điều 12; các điểm a, b khoản 1
Điều 24; Điều 26; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Xuân T về ly hôn, chia
tài sản khi ly hôn; cụ thể như sau:
- Về hôn nhân: Xử cho ông Lê Xuân T được ly hôn bà Lê Thị T8.
8
- Về tài sản: Chấp nhận ông Lê Xuân T và bà Lê Thị T8 có các tài sản
chung, gồm: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với thửa đất số 74, tờ bản đồ
số không, bản đồ địa chính (299) xã Y; nay là thửa số 31, tờ bản đồ số 10, bản đồ
địa chính xã Y đo vẽ năm 2007; địa chỉ: Thôn B, xã Y, huyện N, tỉnh Thanh Hóa;
nhà ở, công trình phụ và vật kiến trúc khác; cây cối, hoa lợi trên đất và các vật
dụng sinh hoạt, có tổng giá trị là 4,580,346,952.5 đồng, trong đó: Tài sản có tranh
chấp (làm căn cứ tính án phí) là 2.494.428.952,5 đồng; tài sản không có tranh
chấp là 2,085,918,000 đồng. Tài sản chung của ông T và bà T8 được chia như
sau:
- Chia cho ông Lê Xuân T các hiện vật bao gồm:
+ Giao cho ông Lê Xuân T 272,5m
2
đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, trong đó có 50m
2
đất ở và 222,5m
2
đất vườn tạp. Tạm giao cho ông
Lê Xuân T 139m
2
đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tổng
diện tích đất trên thực địa được giao và tạm giao cho ông T quyền sử dụng là
411,5m
2
; có đặc điểm ranh giới như sau:
Phía Đông: chiều dài 8m, giáp đường liên xã;
Phía Tây: chiều dài 25,13m, giáp phần đất dôi dư trong cùng thửa đất của
vợ chồng (được tạm giao cho bà T8 sử dụng);
Phía Nam: 35m, giáp phần đất chia cho bà T8;
Phía Bắc: gồm 4 đoạn thẳng gấp khúc có chiều dài: 25 + 11 + 3,5 + 4,7
= 44,2 (mét), giáp đất ông T4, bà H2, ông Q, ông Tuấn A:
Tổng giá trị quyền sử dụng đất ông Lê Xuân T được giao và tạm giao quyền
sử dụng là 919.385.000 đồng.
+ Giao cho ông Lê Xuân T quyền sở hữu các tài sản gồm:
01 nhà gỗ, mái lợp Fibloximang, diện tích 44 m
2
; giá trị còn lại 2.070.933
đồng;
4,7m tường rào xây gạch không nung được xây dựng trên phần đất chia cho
ông, giáp đất ông T4; giá trị 338.752,5 đồng;
01 giường Modec, trị giá 500.000 đồng;
01 tủ tường trị giá 1.000.000 đồng;
Giá trị tài sản là nhà, tường rào và vật dụng sinh hoạt ông T được chia là
3.909.685,5 đồng.
Tổng cộng giá trị tài sản là đất, nhà, tường rào và vật dụng sinh hoạt ông
T được chia là 923.294.685,5 đồng.
- Chia cho bà Lê Thị Thanh C3 tài sản gồm:
+ Giao cho bà Lê Thị T8 272,5m
2
đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, trong đó có 50m
2
đất ở và 222,5m
2
đất vườn tạp. Tạm giao cho bà
Lê Thị T8 908,6m
2
đất chưa được cấp giấy nhứng nhận quyền sử dụng đất. Tổng
9
diện tích đất có tranh chấp trên thực địa được giao và tạm giao cho bà T8 quyền
sử dụng là 1.181,1m
2
; có đặc điểm ranh giới như sau:
Phía Đông: chiều dài 20,06m, giáp đường liên xã;
Phía Tây: chiều dài 39,77m, giáp phần đất dôi dư trong cùng thửa đất gia
đình đang sử dụng (theo bản đồ năm 2007) nhưng không có tranh chấp (ông T đã
đề nghị tạm giao cho bà T8 sử dụng);
Phía Nam: 34,72m, giáp đất ông T5 và ông T6;
Phía Bắc: gồm 3 đoạn thẳng gấp khúc có chiều dài: 15,77 + 25,13 + 35 =
75,9 (mét), giáp đất ông T4 và phần đất chia cho ông T:
Tổng giá trị quyền sử dụng đất tranh chấp bà Lê Thị T8 được chia là
2.450.889.000 đồng.
- Tạm giao cho bà Lê Thị Thanh Q1 sử dụng 1.048,2m
2
đất dôi dư cùng
thửa với đất ở nhưng không có tranh chấp; có đặc điểm ranh giới như sau:
Phía Đông: chiều dài 39,77m, giáp phần đất vợ chồng tranh chấp (đã được
chia cho bà T8);
Phía Tây: chiều dài 32,15m, giáp phần đất dôi dư trong cùng thửa đất gia
đình đang sử dụng (theo bản đồ năm 2007) nhưng không khai báo;
Phía Nam: 28,45m, giáp đất ông T6;
Phía Bắc: chiều dài 26,60m, giáp đất ông T4.
Giá trị quyền sử dụng đất không tranh chấp bà Lê Thị T8 được tạm giao sử
dụng là 2,085,918,000 đồng.
(Có sơ đồ chia đất kèm theo bản án)
+ Chia cho bà Lê Thị Thanh Q1 sở hữu các tài sản gồm:
01 Nhà ở cấp 4, (nhà chính); trị giá: 10.588.720 đồng;
01 Nhà bán mái lợp F1; giá trị còn lại: 0 đồng;
Nhà bếp và nhà tắm xây gạch, mái lợp ngói; có tổng giá trị 1.804.294 đồng;
40,47m
2
tường rào xây gạch không nung kết hợp lưới B40, được xây dựng
trên phần đất chia cho bà; trị giá: 5.584.860 đồng;
47,9m
2
tường rào xây gạch không nung, được xây dựng trên phần đất chia
cho bà; trị giá 3.452.392,5 đồng;
S, ngõ láng bê tông (trên phần đất chia cho bà); giá trị 3.510.220 đồng;
Chuồng trại xây gạch không nung; trị giá 14.999.466 đồng;
01 tủ ly; trị giá 800.000 đồng;
01 bộ bàn ghế sa L5; trị giá 1.800.000 đồng;
02 giường đôi kiểu Hàn Quốc; trị giá 1.000.000 đồng.
10
Giá trị tài sản là nhà, vật kiến trúc và vật dụng sinh hoạt bà T8 được chia là
43.539.952,5 đồng.
Tổng cộng giá trị tài sản là đất, nhà, tường rào và vật dụng sinh hoạt bà T8
được chia là 4.580.346.952,5 đồng, trong đó: Tài sản có tranh chấp là
2.494.428.952,5 đồng; tài sản không có tranh chấp (giá trị quyền sử dụng đất được
tạm giao sử dụng) là 2.085.918.000 đồng.
Bà Lê Thị Thanh K phải thanh toán cho ông Lê Xuân T tiền chênh lệch giá
trị chia tài sản chung là hiện vật.
Trường hợp diện tích đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đủ
điều kiện giao bổ sung thì ông Lê Xuân T, bà Lê Thị T8 có quyền đề nghị cơ quan
có thẩm quyền giao bổ sung cho mình phần đất dôi dư mà ông bà được Toà án
tạm giao quyền sử dụng.
- Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Ông Lê Xuân T
phải chịu 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ
và định giá tài sản. Số tiền này được trừ vào tiền tạm ứng chi phí tố tụng mà ông
T đã nộp là 10.000.000 đồng. Ông T đã nộp đủ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ
và định giá tài sản.
- Về án phí:
+ Ông Lê Xuân T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm không có
giá ngạch và 39.698.840 đồng án phí có giá ngạch chia tài sản nhưng ông T là
người cao tuổi, đã có đơn xin miễn án phí nên ông được miễn án toàn bộ án phí.
Ông Lê Xuân T được nhận lại 1.012.000 đồng (một triệu không trăm mười hai
nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí ông đã nộp theo biên lai thu số AA/2017/0000097
ngày 05/6/2019 của chi cục Thi hành án dân sự huyện Như Thanh.
+ Bà Lê Thị Thanh P1 chịu 81.888.579 đồng (tám mươi mốt triệu tám trăm
tám mươi tám nghìn năm trăm bảy mươi chín đồng) án phí có giá ngạch chia tài
sản.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo theo quy định.
* Ngày 09/10/2024, bị đơn bà Lê Thị T8 kháng cáo Bản án số
47/2024/HNGĐ-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Như Thanh, tỉnh
Thanh Hóa; nội dung:
- Giải quyết việc ông Lê Xuân T ly hôn đơn phương theo quy định của pháp
luật.
- Toàn bộ diện tích đất thuộc quyền sở hữu của bà T8. Đứng tên Lê Thị T8
sử dụng hoàn toàn hợp pháp. Tôi đề nghị chia thành 5 phần cho tôi, ông T và 03
đứa con. Trong đó tôi đồng ý chia cho ông T 1/5 số đất do ông có chung công sức
nuôi con cùng tôi khi con còn nhỏ.
- Phần đất vườn tạp thuộc đất lâm nghiệp của ông Lê Viết T6, nên tuyên
cho tôi phải chịu án phí có giá ngạch chia tài sản là không đúng.
11
- Đề nghị Tòa xem xét miễn giảm án phí cho tôi do tôi tuổi đã cao, không
có việc làm, không có thu nhập ổn định và thuộc diện đồng bào dân tộc thiểu số.
* Tại phiên tòa phúc thẩm bà T8 thay đổi nội dung kháng cáo, cụ thể yêu cầu giải
quyết những nội dung sau:
- Bà T8 có nguyện vọng đoàn tụ, nếu ông Lê Xuân T vẫn có nguyện vọng
ly hôn thì bà đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Bà T8 thống nhất cách xác định tài sản chung và phương pháp chia tài sản
chung của vợ chồng như cấp sơ thẩm đã chia.
- Diện tích đất tăng thêm so với diện tích đất đã được cấp trong giấy
CNQSD đất là thuộc gia đình bà, không phải đất lâm nghiệp của ông T6, nên cấp
sơ thẩm tạm giao cho bà và ông T quản lý sử dụng là đúng, nhưng buộc bà phải
chịu án phí đối với đất tạm giao là không đúng quy định pháp luật.
- Bà T8 đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại giá trị đất vườn 455m
2
theo kết
quả thẩm định giá bà đã nộp là 20.000đ/m
2
theo Quyết định số 44/2019/QĐ-
UBND ngày 23/12/2019 của UBND tỉnh T về việc ban hành bảng giá đất thời kỳ
2019-2024 trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
- Đề nghị xem xét miễn, giảm án phí cho bà.
* Quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Lê Thị T8: Đề
nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự; sửa một
phần bản án số 47/2024/HNGĐ-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện
Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa theo hướng xác định lại giá trị quyền sử dụng đất
của ông T và bà T8 theo chứng thư thẩm định giá số 2503404/CT-TPV ngày
28/02/2025 của Công ty cổ phần T9 chi nhánh T10; giá đất ở là 4.000.000đ/m
2
,
giá đất CLN là 20.000đ/m
2
; đề nghị không tính án phí đối với diện tích đất tạm
giao cho bà Lê Thị Thanh quản L1, sử dụng.
* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa:
Hội đồng xét xử, Thư ký và của những người tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án tại giai đoạn xét xử phúc thẩm đã tuân thủ đúng quy định
của pháp luật tố tụng.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 309 Bộ luật
Tố tụng dân sự; sửa một phần bản án số 47/2024/HNGĐ-ST ngày 30/9/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa.
- Về hôn nhân: Chấp nhận cho ông Lê Xuân T ly hôn bà Lê Thị T8.
- Về tài sản: Chấp nhận chia diện tích đất chung của vợ chồng ông T bà
T8 là 545m
2
đã được cấp Giấy CNQSD đất theo tỷ lệ cấp sơ thẩm đã chia. Đối
với diện tích tăng thêm ngoài Giấy CNQSD đất thì tạm giao cho các đương sự
quản lý sử dụng và các đương sự phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định pháp
luật.
12
- Đối với giá đất trồng cây lâu năm cùng thửa với đất ở, đề nghị áp dụng
theo giá Hội đồng định giá huyện N đã định giá ngày 29/5/2024. Diện tích đất
tăng thêm tạm giao cho các bên đương sự thì không tính án phí.
- Bà T8 không thuộc trường hợp miễn, giảm án phí, nên phải chịu án phí
dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và ý
kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Lê Thị Thanh L2 đơn kháng cáo đúng thời
hạn, nội dung đơn theo quy định tại Điều 271, 272, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự,
nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị T8.
[2.1] Về hôn nhân: Xét thấy tình cảm vợ chồng giữa ông Lê Xuân T và bà
Lê Thị T8 không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt
được, cấp sơ thẩm xử cho ông T được ly hôn bà T8 là phù hợp theo quy định tại
khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử không có căn cứ
chấp nhận kháng cáo xin đoàn tụ của bà T8.
[2.2] Xét nội dung kháng cáo của bà Lê Thị T8 về xác định giá đất vườn
tạp và trách nhiệm chịu án phí đối với đất tạm giao.
Thửa đất gia đình ông T và bà T8 đang tranh chấp là thửa số 292 tờ bản đồ
số 5 bản đồ 299. Bản đồ địa chính năm 2007 của xã Y là thửa 31 tờ bản đồ số 10.
Ngày 01/02/2002 UBND huyện N cấp Giấy CNQSD đất số T 720573, thửa 74 tờ
bản đồ số 5 bản đồ 299, đứng tên bà Lê Thị T8. Theo Văn bản số 738/UBND-
TNMT ngày 19/3/2025 của UBND huyện N báo cáo Tòa án nhân dân tỉnh Thanh
Hóa thì Giấy CNQSD đất số T 720573 ghi thửa 74 là có sai sót, chính xác là thửa
292 tờ bản đồ số 05. Cấp phúc thẩm cần sửa thông tin thửa đất là có căn cứ.
Ông T trình bày, nguồn gốc thửa đất mua của ông Bùi Mạnh L vào năm
1992, hai bên chỉ thỏa thuận miệng, không có giấy tờ; ông L thì trình bày không
chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông T và không biết gì về thửa đất của ông T.
Bà T8 thì cho rằng nguồn gốc thửa đất là của bố đẻ bà cho, nhưng bà cũng không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh. Hơn nữa ông Lê Xuân T và bà
Lê Thị Thanh kết H3 từ năm 1989 và cùng cư trú tại xã Y, huyện N, tỉnh Thanh
Hóa. Ông bà sử dụng mảnh đất nói trên ổn định, được nhà nước giao lần đầu ngày
01/02/2002, thuộc trường hợp giao đất có thu tiền sử dụng đất; đứng tên bà Lê
Thị T8. Như vậy, quyền sử dụng đất nói trên được hình thành trong thời kỳ hôn
nhân của ông T và bà T8. Cấp sơ thẩm áp dụng khoản 3 Điều 33 của Luật Hôn
nhân và Gia đình, xác định là tài sản chung của vợ chồng là đúng quy định. Tại
phiên tòa phúc thẩm, bà T8 thống nhất xác định tài sản chung của vợ chồng và
phương pháp chia tài sản chung như bản án sơ thẩm gồm: Diện tích đất 545m
2
đã
13
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 01/02/2002, tài sản trên đất và
vật dụng trong gia đình.
Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 29/5/2024 thì diện tích đất
hiện trạng là 2.640,8m
2
tăng 2.095,8m
2
, gia đình sử dụng lâu dài, ổn định, không
có tranh chấp với người khác. Có tứ cận: Phía Đông, chiều dài 28,06m, giáp đường
liên xã; phía Tây, chiều dài 37,19m, giáp đất ông T6 và ông T4; phía Nam, chiều
dài 75,06m, giáp đất ông T6, ông T5; phía Bắc: Gồm 5 đoạn gấp khúc có tổng
chiều dài 75,57m giáp đất ông T4, bà H2, ông Q, ông Tuấn A (Có sơ đồ thửa đất
kèm theo).
Cấp sơ thẩm xác định tạm giao diện tích đất tăng thêm 2.095,8m
2
cho ông T
bà Thanh quản L1 sử dụng và phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định pháp
luật về đất đai là có cơ sở. Tuy nhiên, diện tích đất tăng thêm chưa được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất và chưa được xác định là
loại đất gì, nhưng cấp sơ thẩm xác định là đất cùng thửa đất ở và bằng ½ giá trị
đất ở và làm căn cứ xác định nghĩa vụ chịu án phí đối với ông T, bà T8 là không
đúng quy định pháp luật.
Đối với diện tích đất vườn tạp 445m
2
đã được UBND huyện N cấp Giấy
CNQSD đất đứng tên bà Lê Thị T8 và ngày 29/5/2024 đã được Hội đồng định giá
tài tài sản huyện N kết luận giá thị trường đối với 445m
2
đất vườn có trị giá: 445m
2
x (4.000.000đ - 20.000đ) x 0,5 = 885.550.000đ là đúng quy định pháp luật. Bà
T8 cung cấp kết quả thẩm định giá số 2503404/CT-TPV ngày 28/02/2025 của
công ty Cổ phần T9 chi nhánh T10; xác định giá trị 445m
2
đất CLN có giá trị
445m
2
x 20.000đ/m
2
= 8.900.000đ là không có căn cứ chấp nhận.
[2.3] Bà Lê Thị Thanh thống N1 tài sản chung của vợ chồng và tỷ lệ phân
chia theo bản án sơ thẩm:
Tài sản chung gồm diện tích đất: 545m
2
(trong đó có 100m
2
đất ở và 445m
2
đất vườn tạp) tại thửa 292 bản đồ 299/TTg, tương ứng thửa số 31, tờ bản đồ số
10, bản đồ địa chính xã Y đo vẽ năm 2007; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số T 720573, cấp ngày 01/02/2002 mang tên bà Lê Thị T8. Diện tích đất hiện
trạng là 2.640,8m
2
; tăng 2.095,8m
2
và toàn bộ tài sản và công trình xây dựng trên
đất, vật dụng trong gia đình.
* Chia cho ông Lê Xuân T được quyền sử dụng đất và sở hữu tài sản như
sau:
- Chia cho Tươi 272,5m
2
đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, trong đó có 50m
2
đất ở, trị giá 200.000.000
đ
và 222,5m
2
đất vườn tạp, trị giá
442.775.000đ. Tạm giao cho ông Lê Xuân T quản lý, sử dụng 139m
2
đất tăng
thêm chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tổng diện tích 411,5m
2
.
Về tài sản trên đất và vật dụng trong gia đình, gồm: 01 nhà gỗ, mái lợp
Fibloximang, diện tích 44 m
2
; giá trị còn lại 2.070.933 đồng. 4,7m tường rào xây
gạch không nung được xây dựng trên phần đất chia cho ông, giáp đất ông T4; giá
14
trị 338.752 đồng. 01 giường Modec, trị giá 500.000 đồng. 01 tủ tường trị giá
1.000.000 đồng;
Tổng cộng giá trị tài sản là đất, nhà, tường rào và vật dụng sinh hoạt ông T
được chia là 646.684.685 đồng.
* Chia cho bà Lê Thị T8 272,5m
2
đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, trong đó có 50m
2
đất ở, trị giá 200.000.000
đ
và 222,5m
2
đất vườn tạp,
trị giá 442.775.000đ. Tạm giao cho bà Lê Thị T8 1.956,8m
2
đất chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tổng diện tích đất trên thực địa được giao và
tạm giao cho bà T8 quyền sử dụng là 2.229,3m
2
;
Về nhà ở, vật kiến trúc và các đồ dùng sinh hoạt: 01 Nhà ở cấp 4, (nhà chính);
trị giá: 10.588.720 đồng; 01 Nhà bán mái lợp F1; giá trị còn lại: 0 đồng; Nhà bếp
và nhà tắm xây gạch, mái lợp ngói; có tổng giá trị 1.804.294 đồng; 40,47 m
2
tường
rào xây gạch không nung kết hợp lưới B40, được xây dựng trên phần đất chia cho
bà; trị giá: 5.584.860 đồng; 47,9 m
2
tường rào xây gạch không nung, được xây
dựng trên phần đất chia cho bà; trị giá 3.452.392 đồng; S, ngõ láng bê tông (trên
phần đất chia cho bà); giá trị 3.510.220 đồng; Chuồng trại xây gạch không nung;
trị giá 14.999.466 đồng; 01 tủ ly; trị giá 800.000 đồng; 01 bộ bàn ghế sa L5; trị
giá 1.800.000 đồng; 02 giường đôi kiểu Hàn Quốc; trị giá 1.000.000 đồng.
Tổng cộng giá trị tài sản là đất, nhà, tường rào và vật dụng sinh hoạt bà T8
được chia là 686.314.952 đồng.
[2.4] Xét nội dung kháng cáo về miễn, giảm án phí.
Bà Lê Thị Thanh K thuộc trường hợp được miễn, giảm án phí nên không
chấp nhận kháng cáo xin miễn, giảm án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
[2.5] Hội đồng xét xử thấy rằng, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa đề
nghị chấp nhận một phần kháng cáo của bà Lê Thị T8, sửa một phần bản án sơ
thẩm là có căn cứ pháp luật.
[3] Cấp phúc thẩm xác định lại án phí sơ thẩm bà T8 phải chịu trên giá trị
tài sản bà T8 được chia theo quy định pháp luật. Ông T là người cao tuổi nên được
miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm. Bà T8 không phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm do kháng cáo được chấp nhận một phần. Về chi phí thẩm định tại chỗ và chi
phí thẩm định giá tại cấp phúc thẩm bà T8 tự nguyện nộp chi phí, không đề nghị
xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 309; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35;
khoản 2, 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 33; 51; 56; 59; 62 của Luật Hôn
nhân và gia đình. Điều 6; điểm đ khoản 1 Điều 12; các điểm a, b khoản 1 Điều
24; Điều 26; điểm a khoản 5 Điều 27; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc Hội về mức thu, miễn,
giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
15
2. Xử: Chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị T8;
sửa môt phần Bản án số 47/2024/HNGĐ-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân
huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa;
Về hôn nhân: Xử cho ông Lê Xuân T ly hôn bà Lê Thị T8.
Về tài sản: Xác định ông Lê Xuân T và bà Lê Thị T8 có những tài sản chung
sau:
- Thửa đất số 292 tờ bản đồ số 5 bản đồ 299. Bản đồ địa chính năm 2007
của xã Y là thửa 31 tờ bản đồ số 10, diện tích 545m
2
(trong đó 100m
2
đất ở và
445m
2
đất CLN) theo Giấy CNQSD đất số T 720573, ngày 01/02/2002 của UBND
huyện N, đứng tên bà Lê Thị T8. Diện tích đất hiện trạng là 2.640,8m
2
; tứ cận:
Phía Đông: chiều dài 28,06m, giáp đường liên xã; phía Tây: chiều dài 37,19m,
giáp đất ông T6 và ông T4; phía Nam: chiều dài 75,06m, giáp đất ông T6, ông T5;
phía Bắc: gồm 5 đoạn gấp khúc có tổng chiều dài 75,57m giáp đất ông T4, bà H2,
ông Q, ông Tuấn A và tài sản trên đất, vật dụng trong gia đình.
* Chia cho ông Lê Xuân T được quyền sử dụng đất và sở hữu tài sản như
sau:
Chia cho ông T 272,5m
2
đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, trong đó có 50m
2
đất ở, trị giá 200.000.000
đ
và 222,5m
2
đất vườn tạp, trị giá
442.775.000đ. Tạm giao cho ông Lê Xuân T quản lý, sử dụng 139m
2
đất tăng
thêm chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tổng diện tích 411,5m
2
.
Tứ cận thửa đất: Phía Đông 8m, giáp đường liên xã; phía Tây 25,13m, giáp phần
đất tăng thêm trong cùng thửa đất của vợ chồng (được tạm giao cho bà T8 sử
dụng); phía Nam 35m, giáp phần đất chia cho bà T8; phía Bắc 25m + 11m + 3,5m
+ 6m + 4,7m, giáp đất ông T4, bà H2, ông Q, ông Tuấn A. Địa chỉ Thôn B, xã Y,
huyện N, tỉnh Thanh Hóa.
Về tài sản trên đất và vật dụng trong gia đình, gồm: 01 nhà gỗ, mái lợp
Fibloximang, diện tích 44 m
2
; giá trị còn lại 2.070.933 đồng. 4,7m tường rào xây
gạch không nung được xây dựng trên phần đất chia cho ông, giáp đất ông T4; giá
trị 338.752 đồng. 01 giường Modec, trị giá 500.000 đồng. 01 tủ tường trị giá
1.000.000 đồng;
Tổng cộng giá trị tài sản là đất, nhà, tường rào và vật dụng sinh hoạt ông T
được chia là 646.684.685 đồng.
* Chia cho bà Lê Thị T8 272,5m
2
đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, trong đó có 50m
2
đất ở, trị giá 200.000.000
đ
và 222,5m
2
đất vườn tạp,
trị giá 442.775.000đ. Tạm giao cho bà Lê Thị T8 1.956,8m
2
đất chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tổng diện tích đất trên thực địa được giao và
tạm giao cho bà T8 quyền sử dụng là 2.229,3m
2
;
Tứ cận: Phía Đông dài 20,06m, giáp đường liên xã; phía Tây 32,15m + 5,04m
giáp đất ông T6, ông T7; phía Nam 20m + 26,61m + 28,45m giáp đất ông T5, ông

16
T6; phía Bắc 35m +25,13m + 20,47m + 26,6m giáp đất chia cho ông T, ông T4.
Địa chỉ Thôn B, xã Y, huyện N, tỉnh Thanh Hóa.
Về nhà ở, vật kiến trúc và các đồ dùng sinh hoạt: 01 Nhà ở cấp 4, (nhà chính);
trị giá: 10.588.720 đồng; 01 Nhà bán mái lợp F1; giá trị còn lại: 0 đồng; Nhà bếp
và nhà tắm xây gạch, mái lợp ngói; có tổng giá trị 1.804.294 đồng; 40,47 m
2
tường
rào xây gạch không nung kết hợp lưới B40, được xây dựng trên phần đất chia cho
bà; trị giá: 5.584.860 đồng; 47,9 m
2
tường rào xây gạch không nung, được xây
dựng trên phần đất chia cho bà; trị giá 3.452.392 đồng; S, ngõ láng bê tông (trên
phần đất chia cho bà); giá trị 3.510.220 đồng; Chuồng trại xây gạch không nung;
trị giá 14.999.466 đồng; 01 tủ ly; trị giá 800.000 đồng; 01 bộ bàn ghế sa L5; trị
giá 1.800.000 đồng; 02 giường đôi kiểu Hàn Quốc; trị giá 1.000.000 đồng.
Tổng cộng giá trị tài sản là đất, nhà, tường rào và vật dụng sinh hoạt bà T8
được chia là 686.314.952 đồng.
(có sơ đồ thửa đất kèm theo).
3. Về án phí và chi phí thẩm định:
Bà Lê Thị Thanh P1 chịu 31.452.000đ (đã làm tròn số) án phí dân sự sơ thẩm
có giá ngạch. Bà T8 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, trả lại cho bà T8
300.000đ tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0005572 ngày 11/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Như
Thanh. Ghi nhận bà T8 tự nguyện chi phí thẩm định tại chỗ và thẩm định giá tại
giai đoạn phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND Cấp cao tại HN;
- VKSND tỉnh Thanh Hóa;
- TAND huyện Như Thanh;
- Chi cục THADS huyện Như Thanh;
- UBND xã Yên Lạc, huyện Như Thanh
- Các đương sự;
- Lưu HSVA.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Lê Thị Hiệu
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 02/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm