Bản án số 323/2024/DS-PT ngày 24/10/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 323/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 323/2024/DS-PT ngày 24/10/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp về thừa kế tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 323/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/10/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên; chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn bà Trần Thị N1; sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2024/DS-ST ngày 16 tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Nguyễn Tấn Long
Các Thẩm phán: ông Đặng Kim Nhân
ông Trần Quốc Cường
- Thư phiên tòa: bà Đn Th Thu Hin - Thư ký Tòa án nhân dân cp cao
tại Đà Nng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: bà Trần Thị Thắng - Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 10 m 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng,
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 162/2024/TLPT-DS ngày05
tháng 8 năm 2024 về việc“Tranh chấp di sản thừa kế và yêu cầu hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 17/2024/DS-ST ngày 16 tháng 4 năm 2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1973/2024/QĐ-PT ngày 02 tháng
10 năm 2024, giữa các đương sự:
1- Nguyên đơn: ông B, sinh năm 1942, (chết năm 2023); địa chỉ: Khu
phố P, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên.
Những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Võ B:
1.1. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1947; địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị
Đ, tỉnh Phú Yên; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
1.2. Ông Võ Hồng H, sinh năm 1972; địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị xã
Đ, tỉnh Phú Yên. có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
1.3. Thị L, sinh năm 1982; địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị Đ,
tỉnh Phú Yên; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
1.4. Thị S, sinh năm 1977; địa chỉ: thôn N, S, huyện S, tỉnh Phú
Yên; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 323/2024/DS-PT
Ngày: 24 - 10 - 2024
V/v: “Tranh chấp di sản thừa kế và yêu
cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆTNAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: ông Bùi Trọng T
Luật sư Văn phòng L1, thuộc Đoàn luật sư tỉnh P; có đơn xin xét xử vắng mặt.
2 - Bị đơn có yêu cầu phản tố: bà Trần Thị N1, sinh năm 1954; địa chỉ: Khu
phố P, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên; có mặt.
3 - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Võ Thị C, sinh năm 1951; địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị Đ,
tỉnh Phú Yên.
3.2. Ông Ngọc A, sinh năm 1943; Đỗ Thị N2, sinh năm 1947; đồng
địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên.
3.3. Thị Thúy Q, sinh năm 1979; địa chỉ: Khu phố P, phường H, th
xã Đ, tỉnh Phú Yên; có mặt.
3.4. Thị Thúy Q1, sinh năm 1981; địa chỉ: 5 L, khu phố G, phường
H, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
3.5. Thị Huyền M, sinh năm 1985; địa chỉ: thôn P, H, thị Đ, tỉnh
Phú Yên; có mặt.
3.6. Thị Mộng M1, sinh năm 1990; địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị
xã Đ, tỉnh Phú Yên.
3.7. Ủy ban nhân dân thị xã Đ, tỉnh Phú Yên; có đơn xin xét xử vắng mặt.
3.8. Ủy ban nhân dân phường H, thị xã Đ, Phú Yên.
3.9. Ông Nguyễn Thế N3, sinh năm 1978; Bùi Thị Thanh T1, sinh năm:
1980; địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên.
3.10. Ông Hồng H, sinh năm 1972; địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị xã
Đ, tỉnh Phú Yên.
3.11. Thị H1, sinh năm 1970; địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị
Đ, tỉnh Phú Yên.
3.12. Bà Võ Thị Kim T2, sinh năm 1984; địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị
xã Đ, tỉnh Phú Yên.
3.13. Ông Hồ B1, sinh năm 1951; địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị Đ,
tỉnh Phú Yên.
3.14. Đinh Thị My N4, sinh năm 1975; địa chỉ: Khu phố P, phường H,
thị xã Đ, tỉnh Phú Yên.
3.15. Ông Đặng B2, sinh năm 1987; địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị
xã Đ, tỉnh Phú Yên.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Đặng B2: ông Đặng Thanh Đ, sinh
năm 1962; địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên.
3.16. Lê Thị Ngọc H2, sinh năm 1987; địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị
xã Đ, tỉnh Phú Yên.
3.17. Ông Nguyễn Hữu R, sinh năm 1963; địa chỉ: Khu phố P, phường H,
thị xã Đ, tỉnh Phú Yên.
3
3.18. Ngô Hoàng G, sinh năm 1985 (chết), cha mẹ ông Ngô Thái H3,
Trần Thị T3, vợ là bà Nguyễn Phạm Minh T4, sinh năm 1985; các con là Ngô
Gia Q2, sinh năm 2014, Ngô Gia K, sinh năm 2016.
Cùng địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên.
3.19. Thị N5, sinh năm 1959; địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị
Đ, tỉnh Phú Yên.
3.20. Thị H4, sinh năm 1970; địa chỉ: Khu phố P, phường H, thị
Đ, tỉnh Phú Yên.
4. Kháng cáo: bị đơn bà Trần Thị N1.
5. Kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
[1] Theo Bản án sơ thẩm, nội dung như sau:
- Theo đơn khởi kiện ngày 24/6/2019 quá trình tố tụng nguyên đơn
ông Võ B, người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn, người đại diện
theo y quyền, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn cùng
thống nhất trình bày:
Cụ Đỗ L tạo lập một căn nhà cấp 4 trên diện tích đất n 200m
2
tại
thôn P, xã H, huyện T (nay là khu phố P, phường H, thị xã Đ). Ông Đ3, C2
03 người con gồm: ông Võ B, bà Thị C, ông K1 (chết năm 1997) có vợ là
Trần Thị N1các con: Võ Thị Thúy Q, Võ Thị Thúy Q1, Võ Thị Mộng M1,
Thị Huyền M. Cụ Đỗ C1 năm 1995, Thị C2 chết năm 1997 không
để lại di chúc. Lúc nhỏ 03 anh chị em sống cùng cha mẹ, khi lập gia đình thì ông
B, C ra ở riêng, chỉ ông K1 cùng cha mẹ. Năm 1986, ông B viết giấy giao
nhà lại cho em ông K1 đchăm lo, nuôi dưỡng cha mẹ chứ không giao
quyền sở hữu cho ông K1. Sau khi cha mẹ chết, ông K1 cũng chết và vợ ông K1
Trần Thị N1 rời đi nơi khác, ngôi nhà bỏ hoang từ đó đến nay. Hiện căn
nhà đã xuống cấp nên tôi (nguyên đơn) đứng ra đo đất, sửa sang nhà cửa để làm
nơi thờ cúng ông bà cha mẹ thì mới biết diện tích nhà đất nói trên đã được Ủy ban
nhân dân huyện T (nay thị Đ) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối
với tên thửa đất là số 379, tờ bản đồ số 18-A, diện tích 235 m
2
tọa lạc tại khu phố
P, phường H, thị Đ cho Trần Thị N1 tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số W 889753, số vào sổ 014238, ngày 30/10/2004. Do đó, nguyên đơn khởi
kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Đỗ , Thị C2 yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho Trần Thị N1 theo pháp luật,
bên nguyên đơn xin nhận di sản bằng hiện vật nhà đất để sửa chữa làm nơi thờ
cúng ông cha mẹ; đồng ý thanh toán lại giá trị cho những người thừa kế khác
theo giá của Hội đồng định giá tài sản ngày 23/12/2021.
- Bị đơn có yêu cầu phản tố bà Trần Thị N1 trình bày:
4
Về quan hnhân thân, diện, hàng thừa kế thống nhất như nguyên đơn trình
bày.Về nguồn gốc di sản: ông Võ Đỗ VLê Thị C2 có tạo lập một căn nhà cấp
4 trên điện tích hơn 235m
2
03 thửa đất: Một thửa đất trồng cây 2.000m², một
thửa đất cặp đường sắt 3.000m², một thửa đất nhà 800m² tọa lạc tại thôn P,
H, huyện T (nay là khu phố P, phường H, thị Đ). Ông Đ3, C2 có 03 người
con gồm: ông B, Thị C, ông Võ K1 (chết năm 1997). Ông Đỗ C1
năm 1995, Thị C2 chết năm 1997 đều không để lại di chúc. Lúc nhỏ 03 anh
chị em sống cùng cha mẹ, khi lập gia đình thì ông B, C ra riêng chỉ ông
K1 ở cùng cha mẹ. Năm 1986, ông B viết giấy giao nhà lại cho em là ông Võ K1
để chăm lo, nuôi dưỡng cha mẹ. Sau khi cha mẹ chết, ông K1 chồng tôi cũng chết
năm 1997. Do kinh tế khó khăn nên tôi dắt con về xin ở nương tựa ông ngoại tọa
lạc tại thôn P, H, huyện T (nay khu phố P, phường H, thị Đ) và làm ăn
buôn bán, kiếm tiền nuôi con ăn học, còn ngôi nhà đang tranh chấp tôi đóng cửa
chứ không bỏ hoang. Tkhi được giao nhà đất, tôi người kê khai đóng thuế
cho Nhà nước đã được Ủy ban nhân dân huyện T (nay thị Đ) cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số W 889753, số vào sổ 014238, ngày 30/10/2004
đối với thửa đất số 379, tờ bản đồ số 18-A, diện tích 235 m
2
tọa lạc tại khu phố P,
phường H, thị xã Đ do bà Trần Thị N1 đứng tên. Do đó, nguyên đơn ông B khởi
kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Đ3, C2 yêu cầu hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho tôi (Trần Thị N1) tôi không chấp nhận. nhà
đất tại thửa đất số 379, tờ bản đồ số 18-A, diện tích 235 m
2
là của tôi. Còn 03 thửa
đất: Một thửa đất trồng cây 2.000m², một thửa đất cặp đường sắt 3.000m², một
thửa đất nhà ở 800m², tôi yêu cầu phải chia đều cho ông Võ B, bà Võ Thị C, ông
Võ K1 (chết năm 1997) có vợ và các con được hưởng (vợ bà Trần Thị N1 và các
con: Võ Thị Thúy Q, Thị Thủy Q3, Võ Thị Mộng M1, Võ Thị Huyền M). Bị
đơn xin nhận bằng hiện vật và đồng ý thanh toán lại giá trị cho những người thừa
kế khác theo giá của Hội đồng định giá tài sản.
+ Ủy ban nhân dân thị xã Đ trình bày nội dung:
Việc Ủy ban nhân dân huyện T căn cứ vào hồ địa chính, Bản đồ
địa chính, sổ Mục kê, sổ Địa chính đăng ký tại thửa đất số 379, tờ bản đồ số 18-
A, diện tích 235 m², loại đất T, để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W
889753, số vào sổ 014238, ngày 30/10/2004 đứng tên Trần Thị N1, đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
+Ủy ban nhân dân phường H không có ý kiến gì.
+ Ông Võ Ngọc A trình bày:
Thửa đất đang tranh chấp mà nguyên đơn ông Võ B xác định di sản thừa kế
nguyên là thửa đất trống của vợ chồng ông Đ3, bà C2 đến xây dựng ngôi nhà cấp
4 trên đất để ở cho đến khi ông Đ3, bà C2 chết thì để lại ngôi nhà gắn liền quyền
sử dụng đất cho 03 người con là ông K1, ông B, bà C ở. Khi ông B, bà C lập gia
đình ra xây dựng nhà riêng. Vợ chồng ông K1 còn đó cho đến khi ông K1 chết
5
thì mẹ con bà N1 chuyển đi nơi khác ở, ngôi nhà bhoang cho đến nay. Còn diện
tích đất 30,7 chuồng của tôi thì do giữa cha tôi chú tôi thỏa thuận
hoán đổi phần chuồng bò và phần bếp sau lưng nhà. Tôi không tranh chấp đối với
phần diện tích đất chuồng không yêu cầu tòa án giải quyết đối với chuồng
bò.
+ Ông Nguyễn Thế N3 trình bày:
Tôi nhận chuyển nhượng thửa đất số 72, tờ bản đsố 15 từ ông B năm
2016, đã được Ủy ban nhân dân thị xã Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho vợ chồng tôi sử dụng ổn định, tôi biết nguồn gốc đất do ông B, bà N mua
của ông Trần N6, tôi không đồng ý việc tranh chấp của bà N1.
+ Bà Võ Thị H4 trình bày:
Tôi nhận chuyển nhượng đất từ ông Võ B năm 2016, tôi biết nguồn gốc đất
do ông B, N khai hoang, tôi đã đăng khai sử dụng nhưng chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không đồng ý việc tranh chấp của N1,
yêu cầu công nhận đất đã nhận chuyển nhượng, xin vắng mặt.
+ Ông Nguyễn Hữu R trình bày:
Hiện nay tôi đang trên mảnh đất của ông B, tôi nhận chuyển nhượng từ
vợ chồng ông Trần văn Đ1, Trần Thị D năm 2017, đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất năm 2018, tôi không đồng ý việc tranh chấp của bị đơn.
+Bà Võ Thị Kim T2 trình bày:
Tôi nhận chuyển nhượng đất từ vợ chồng ông B năm 2007, đã xây dựng nhà
trên đất năm 2009, năm 2012 được Ủy ban nhân dân thị Đ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, không chấp nhận yêu cầu của bị đơn.
+Ông Võ Hồng H trình bày:
Tôi nhận chuyển nhượng đất từ vợ chồng ông B năm 2001, đã xây dựng nhà
trên đất năm 2002, năm 2012 được Ủy ban nhân dân thị Đ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, không chấp nhận yêu cầu của bị đơn.
[2] Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2024/DS-ST ngày 16 tháng 4 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định:
Căn cứ các Điều 147, 157, 165, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính.
Áp dụng các Điều 612, 613, 623, 649, 650, 651, 652 Bộ luật dân sự năm
2015; Điều 168, 188 Luật đất đai năm 2013; Điều 27 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án
phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về việc chia di sản
thừa kế của vợ chồng cụ Võ Đỗ , cụ Thị C2 theo pháp luật.
Ông B, Thị C, ông Võ K1 mỗi người được hưởng một kỷ
phần thừa kế di sản của vợ chồng cụ Đ3, cC2 có giá trị 110.600.000 đồng (Một
6
trăm mười triệu sáu trăm nghìn đồng). Ông B (chết năm 2023) vợ là
Nguyễn Thị N các con H, H1, T2, L, S được hưởng. Ông K1 (chết
1997)có vợ là bà Trần Thị N1 và các con Q, Q3, Huyền MMộng M1 được
hưởng. Riêng vợ chồng ông K1, N1 được hưởng một phần giá trị thanh toán
công sức giữ gìn, tôn tạo, bảo quản di sản tương ứng bằng một kỷ phần chia thừa
kế có giá trị 110.600.000 đồng.
Giao cho nguyên đơn ông B (chết năm 2023) vợ là Nguyễn
Thị N và các con là H, H1, T2, L, S được quản lý, sử dụng nhà đất và công trình
vật kiến trúc khác gắn liền với đất, tại thửa số 379, tbản đồ số 18-A, diện tích
198,7m
2
loại đất T, tọa lạc tại thôn P, H, huyện T (nay khu phố P, phường
H, thị Đ), tỉnh Phú Yên, đã được Hội đồng định giá tài sản ngày 23/12/2021,
tổng giá trị 442.400.000 đồng (làm tròn số), trong đó: giá trị đất 397.400.000
đồng (198,7m
2
x 2.000.000đ/m
2
), giá trị tài sản vật kiến trúc khác trên đất
45.000.556 đồng. Nên ông Võ B (chết năm 2023, những người kế thừa quyền và
nghĩa vụ tố tụng, gồm: Vợ và các con của ông B là bà Nguyễn Thị N và các con
H, H1, T2, L, S) phải trách nhiệm trả lại 331.800.000 đồng tiền chênh lệch
cho các kỷ phần khác (bà C 110.600.000 đồng; ông K1, N1 221.200.000 đồng.
Ông K1 (chết năm 1997), vợ Trần Thị N1 các con Q, Q3, Huyền
MMộng M1 được nhận) ( kèm theo bản trích đo hiện trạng thửa đất, của Hội
đồng định giá tài sản tỉnh Phú Yên đo đạc ngày 23/12/2021).
Nguyên đơn ông Võ B (chết năm 2023) vợ Nguyễn Thị N
các con H, H1, T2, L, S được liên hệ cơ quan nhà nước thẩm quyền đăng ký,
kê khai quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật đất đai.
2. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 889753 do Ủy ban
nhân dân huyện T cấp cho Trần Thị N1 ngày 30/10/2004 tại thửa đất số 379,
tờ bản đồ số 18-A, diện tích 235 m², loại đất T, tọa lạc tại thôn P, H, huyện T
(nay khu phố P, phường H, thị Đ), tỉnh Phú Yên. Vì không căn cứ pháp
luật.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Trần Thị N1 không
có căn cứ pháp luật.
Ngoài ra, Bản án thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng, quyền
kháng cáo quy định của pháp luật.
[3] Kháng cáo, kháng nghị:
Ngày 03-5-2024 Trần Thị N1 nộp đơn kháng cáo bản án thẩm; ngày
17-6-2024, bà Trần Thị N1 nộp đơn kháng cáo bổ sung. Nêu lý do kháng cáo là
nhà đất của cụ Đ3 cụ C2 được làm bằng vật liệu thô sơ; sử dụng lâu năm
nguy cơ sụp đổ, không có điều kiện tài chính sửa chữa, nên ông Võ B lúc bấy giờ
đã có nhà cửa ở ổn định nơi khác, lấy tư cách người anh cả ghi giấy giao nhà vào
ngày 14-7-1986 cho vợ chồng Kiêm . Khi được nhận nhà đất vợ chồng
đã bỏ tiền ra xây dựng lại ngôi nhà mới sử dụng ổn định không ai tranh
7
chấp. Đến năm 2004 tvợ chồng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất nhà đất này. Hiện nay, ông K1 đã chết, gia đình gồm các con hiện chỉ
có ngôi nhà này, không có chỗ ở nào khác; trong khi đó các anh chị em trong gia
đình đều đã nhà đất riêng ổn định từ lâu. Bản án thẩm buộc giao nhà
đất không hợp lý vì đang nhu cầu quản lý sdụng nhà ở, các con
cũng quyền được thờ cúng ông bà, chứ không riêng gì ông B. Hơn nữa,
ngôi nhà do vợ chồng xây dựng chứ không phải di sản. Đề nghị Toà án
cấp phúc thẩm xử bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giao được lấy lại
hiện vật là nhà đất, không huỷ Giấy chứng nhận quyền sdụng đất. Về phần
trách nhiệm thối trả giá trị 02 kphần thừa kế về đất cho ông B và bà
Thị C.
Kèm theo đơn kháng cáo là Đ2 xác nhận về nhà của Trần Thị N1
xác nhận của Chính quyền địa phương phường Hòa Hiệp B3 về trường hợp gia
đình bà N1 chỉ có 01 căn nhà ở đang tranh chấp hiện nay.
Tại Quyết định kháng nghị số 04/QĐ-VKS-DS ngày 26-4-2024 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên đã kháng nghị bản án dân sự
thẩm, đnghị sửa một phần bản án dân sự thẩm theo hướng chấp nhận một
phần yêu cầu của nguyên đơn về chia thừa kế theo pháp luật nhà đất tại thửa 379,
tờ bản đồ 18-A; không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đòi lại hiện vật chỉ
để làm nơi thờ cúng; không chấp nhận huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đã cấp cho bị đơn N1. Giao nhà đất cho N1 tiếp tục quản sử dụng, bà N1
có nghĩa vụ thối trả giá trị cho các thừa kế theo quy định.
[4] Tại phiên toà phúc thẩm:
Trần Thị N1 giữ nguyên đơn kháng cáo, đề nghị xét xử sửa bản án
thẩm, bảo vệ bà không bị mất tài sản nhà đất, không còn có chỗ ở.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng:
Về tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử
và các bên đương sự đều được đảm bảo, phù hợp với các quy định của pháp luật.
Về nội dung: Đề nghị chấp nhận kháng nghị và một phần kháng cáo của bị
đơn, sửa một phần án sơ thẩm theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện
chia thừa kế của nguyên đơn; giao di sản bằng hiện vật cho bị đơn tiếp tục quản
sdụng, bị đơn N1 trách nhiệm thối trả giá trị phần di sản cho những
người thừa kế khác; không huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Không chấp
nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu có trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ
vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
8
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp di sản thừa kế là nhà ở
gắn liền quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã
cấp cho bị đơn nên xác định quan hệ pháp luật vụ án“Tranh chấp di sản thừa kế
và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Kháng nghị kháng cáo cùng tập trung vào nội dung đề nghị xem xét lại
việc xác định di sản của cụ Võ Đỗ V cụ Lê Thị C2, phân chia di sản và việc giao
di sản bằng hiện vật.
[2] Xem xét về di sản và người thừa kế:
Cụ Đỗ V cụ Thị C2 03 người con, gồm: ông B, Thị C,
ông K1 (chết năm 1997) vợ Trần Thị N1 các con: Thị Thúy Q,
Thị Thúy Q1, Thị Mộng M1, Thị Huyền M; đều được các bên thừa
nhận.
Nguyên đơn xác định di sản thừa kế của cụ Võ Đỗ , cụ Lê Thị C2 để lại căn
nhà cấp 4, gắn liền với diện tích 235m
2
(đo đạc thực tế 229,4m
2
, bao gồm diện
tích đất 30,7 m² có chuồng bò của vợ chồng ông A, bà N2) được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số W 889753 do y ban nhân dân huyện T cấp cho
Trần Thị N1 ngày 30/10/2004 tại thửa đất số 379, tờ bản đồ số 18-A, diện tích
235 m², loại đất T, tọa lạc tại thôn P, xã H, huyện T (nay khu phố P, phường H,
thị Đ), tỉnh Phú Yên. Tuy nhiên, bị đơn không đồng ý chia thừa kế, vì cho rằng
năm 1986 ông Võ B đã giao nhà đất cho vợ chồng bị đơn, bị đơn quản sử dụng
ổn định lâu dài đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên không
còn là di sản.
Thửa đất số 379, tờ bản đồ số 18-A do cụ Đ3, cC2 tạo lập, đã làm nhà tạm
để sinh sống cùng các con của mình từ rất lâu. Vào ngày 14 - 7 - 1986 ông Võ B
ghi “Đơn giao nhà đất” của cụ Đ3, cụ C2 cho ông K1 để nuôi dưỡng cha mẹ
đến khi quá cố, Giấy giao nhà đất ông B ông K1 thể hiện nội dung nhà
đất của cụ Đ3 cC2 tạo lập, nhưng không chữ của 2 Cụ. Cụ Đ3
(chết năm 1995), cụ Lê Thị C2 (chết năm 1997) nên diện ch đất nêu trên di
sản thừa kế chưa chia. Bản án sơ thẩm xác định thửa đất số 379, tờ bản đồ số 18-
A là di sản là có cơ sở.
Đối với nhà trên đất, do nhà tạm đã xuống cấp, vợ chồng N1 ông K1
người đã đầu xây mới ngôi nhà cấp 4 để từ năm 1987 các vật kiến trúc
khác gắn liền với đất như chái tạm, nền xi măng, sân láng vữa xi măng...; do đó
không còn là di sản.
[3] Phân chia di sản:
N1 là người quản lý nhà đất để ở từ năm 1986, đồng thời bà N1 đã thực
hiện khai đăng đất đai theo quy định qua các thời kỳ nên được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số W 889753 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp
9
cho bà Trần Thị N1 ngày 30/10/2004 tại thửa đất số 379, tờ bản đồ số 18-A, diện
tích 235 m², loại đất T, tọa lạc tại thôn P, H, huyện T (nay khu phố P, phường
H, thị xã Đ), tỉnh Phú Yên.
Tại Biên bản định giá ngày 23/12/2021, kèm Bản trích đo hiện trạng thửa đất
diện tích 229,4m
2
(trong đó diện tích đất chuồng 30,7m
2
, diện tích đất
nhà gắn liền 198,7m
2
). Đồng thời, xác định diện tích đất chuồng bò 30,7m
2
của vợ chồng ông A, bà N2; các đương sự thống nhất không tranh chấp phần diện
tích đất chuồng bò. Ông B chỉ yêu cầu chia di sản nhà đất diện tích đo đạc thực tế
còn lại 198,7m
2
(229,4m
2
- 30,7m
2
= 198,7m
2
) của cha mẹ theo pháp luật, ông B
xin được nhận nhà đất để thờ cúng ông cha mẹ, thanh toán bằng giá trị cho các
đồng thừa kế khác. Nay, những người kế thừa tố tụng của ông B đều thống nhất,
giữ nguyên nội dung khởi kiện và nguyện vọng của nguyên đơn. Bản án sơ thẩm
xác định di sản thừa kế của cụ Đ3, cụ C2 để lại 198,7m
2
đất ở là hợp lý; giá trị đất
397.400.000đ (198,7m
2
x 2.000.000đ/m
2
). (Ngoài ra, xác định giá trị tài sản vật
kiến trúc khác gắn liền trên đất 47.607.356 đồng, trừ giá trị chuồng B4
2.606.800 đồng, còn lại là 45.000.556đ).
Trước khi chia di sản cần trích một phần giá trị di sản để thanh toán công sức
giữ gìn, bảo quản và kê khai đăng ký đất đai làm tăng giá trị di sản cho bị đơn bà
Trần Thị N1 tương đương một kỷ phần, còn lại được chia đều thừa kế theo pháp
luật phù hợp với quy định tại Điều 616, 658 Bộ luật Dân sự năm 2015 nsau:
397.400.000đ: 4 = 99.350.000 đồng. Trong đó bị đơn bà Trần Thị N1 (vợ và các
con của ông K1) được hưởng một kỷ phần thừa kế phần giá trị công sức
tương ứng bằng một kỷ phần chia thừa kế. Cụ thể: bà N1 (vợ và các con của ông
K1) được hưởng 99.350.000 đồng x 2 = 198.700.000 đồng; ông B được hưởng
99.350.000 đồng (vợ các con của ông B nhận); bà C được hưởng 99.350.000
đồng.
[4] Phân chia hiện vật:
Vào năm 1986, ông B đã Đơn giao ncho vợ chồng ông K1
Trần Thị N1, như vậy, vào thời điểm đó ông B đã thừa nhận việc giao hiện vật
nhà đất cho ông K1. Đến thời điểm hiện nay, gia đình ông Võ B Thị C
đều có nơi ở khác ổn định; lý do mà nguyên đơn đề nghị được nhận nhà đất là để
làm nơi thờ cúng ông bà, trong khi gia đình N1 ông K1 đã ở nhà đất này từ rất
lâu, hiện không có nhà đất nào khác để ở, nguyện vọng tiếp tục được nhận di
sản bằng hiện vật. Kỷ phần di sản gia đình bà N1 được nhận rất lớn, đồng
thời kèm theo các tài sản gắn liền trên đất của N1. Do đó, phải giao di sản
và các tài sản gắn liền trên đất cho bà N1 tiếp tục quản lý sử dụng mới hợp lý.
[5] Về yêu cầu phản tố của bị đơn:
Tại hồ sơ địa chính thể hiện các thửa đất bà Trần Thị N1 có yêu cầu phản tố
tranh chấp thừa kế các thửa đất gồm: Thửa đất số 257, tờ bản đồ 18-A; thửa đất
số214
d+b
, tờ bản đồ 378-D + 18B; thửa đất số 49
b
, tờ bản đồ 18A+B. Tất cả các
10
thửa đất trên đều do ông B đăng ký, khai tên trong sổ mục kê, sổ địa
chính.Theo như bà N những người nhận chuyển nhượng trình bày thì hiện tại
ông B đã chuyển nhượng cho 11 người, trong đó có 03 người con của ông B,
N. Trong số nhận chuyển nhượng đã xây dựng nhà ở, công trình vật kiển trúc khác
trên đất ổn định, có một số người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
N1 cho rằng 3 thửa đất là di sản thừa kế của cụ Đ3, cụ C2 nhưng không có tài
liệu, chứng cứ chứng minh, nên bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố
của bị đơn bà N1 là có căn cứ.
[6] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần chấp
nhận Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên, chấp nhận một phần
kháng cáo của bà Trần Thị N1. Sửa một phần bản án thẩm theo hướng chấp
nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông B (những người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng, gồm: Vợ và các con của ông B) về yêu cầu phân chia
di sản là gtrị quyền sử dụng đất; không chấp nhận giao di sản bằng hiện vật cho
nguyên đơn; không huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Trần
Thị N1; không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
[7] Về án phí, chi phí tố tụng khác:
Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với giá trị
di sản kỷ phần được hưởng thừa kế.
Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định gtài sản được giữ
nguyên như quyết định của bản án sơ thẩm là đúng theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bluật Tố tụng dân sự năm
2015; chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú
Yên; chấp nhận một phần kháng cáo của bđơn Trần Thị N1; sửa một phần
Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2024/DS-ST ngày 16 tháng 4 năm 2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Phú Yên.
2. Áp dụng các Điều 612, Điều 613, Điều 623, Điều 649, Điều 650,
Điều 651, Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 168, 188 Luật đất đai năm
2013; điểm a khoản 7 Điều 27; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án
phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
2.1- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vviệc
chia di sản thừa kế của vợ chồng cụ Võ Đỗ , cụ Lê Thị C2 theo pháp luật.
11
Ông B, Thị C, ông Võ K1 mỗi người được hưởng một kỷ
phần thừa kế di sản của vợ chồng cụ Đ3, cụ C2 giá trị 99.350.000đồng (chín
mươi chín triệu, ba trăm năm mươi nghìn đồng). Kỷ phần thừa kế của ông B
(chết năm 2023) nên người được hưởng Nguyễn Thị N (vợ) và các con H,
H1, T2, L, S nhận. Kỷ phần thừa kế của ông Võ K1 (chết 1997) nên người được
hưởng là bà Trần Thị N1 (vợ) và các con là Q, Q1, Huyền MMộng M1 nhận.
Riêng vợ chồng ông K1, N1 được hưởng một phần giá trị thanh toán công sức
giữ gìn bảo quản, kê khai đăng ký làm tăng giá trị di sản, tương ứng bằng một kỷ
phần chia thừa kế có giá trị 99.350.000 đồng.
Giao cho Trần Thị N1 những người con của N1 ông K1 gồm:
chị Q, chị Q1, chị Huyền M chị Mộng M1 được nhận tiếp tục quản lý, sử
dụng nhà đất và công trình vật kiến trúc khác gắn liền với đất, tại thửa số 379, tờ
bản đồ số 18-A, diện tích 198,7m
2
loại đất T, tọa lạc tại thôn P, H, huyện T
(nay khu phố P, phường H, thị Đ), tỉnh Phú Yên, (được Hội đồng định giá
tài sản vào thời điểm ngày 23/12/2021 xác định tổng giá trị 442.400.000 đồng
(làm tròn số), trong đó: giá trị đất 397.400.000 đồng, giá trị tài sản vật kiến trúc
khác trên đất 45.000.556 đồng). Trần Thị N1 những người con của N1
ông K1 gồm: chị Q, chị Q1, chị Huyền M chị Mộng M1 phải có trách nhiệm
thối trả lại 198.700.000 đồng tiền chênh lệch cho các kỷ phần khác (trong đó thối
trả cho C 99.350.000đồng; thối trả 99.350.000đồng cho ông B (chết năm
2023) nên những người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng, gồm: Vợ các con
của ông B là bà Nguyễn Thị N và các con là H, H1, T2, L, S được nhận.
(Bản trích đo hiện trạng thửa đất ngày 23/12/2021 kèm theo bản án
dân sự sơ thẩm).
2.2- Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc huỷ Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số W 889753 do y ban nhân dân huyện T cấp cho
Trần Thị N1 ngày 30/10/2004 tại thửa đất s379, tờ bản đồ số 18-A, tọa lạc tại
thôn P, xã H, huyện T (nay là khu phố P, phường H, thị xã Đ), tỉnh Phú Yên.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Trần Thị N1 không
có căn cứ pháp luật.
4. Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm bà Thị C phải chịu là 4.967.500 đồng.
Ông B (chết năm 2023) nên những người kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng, gồm: Vợ và các con của ông B là bà Nguyễn Thị N và các con là H, H1,
T2, L, S cùng chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số kỷ phần được nhận là 4.967.500
đồng; được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí thẩm đã nộp tại Biên
lai thu số 0013144 ngày 02-8-2019 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên, nên
còn phải tiếp tục nộp là 4.667.500 đồng.
Ông K1 Trần Thị N1 phải chịu án phí dân sự thẩm
9.935.000 đồng, và án phí phản tố không được chấp nhận là 300.000 đồng; được
12
khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí thẩm đã nộp tại Biên lai thu số 0007317
ngày 23-6-2022 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại Biên lai
thu số 0004305 ngày 13-6-2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.
Trần Thị N1 những người con của N1 ông K1 (chết) gồm: chị Q, chị Q1,
chị Huyền M chị Mộng M1 tiếp tục phải nộp số tiền án phí thẩm là 9.335.000
đồng.
Án phí dân sự phúc thẩm bà Trần Thị N1 không phải chịu.
4. Về chi phí xem xét thẩm định, đo đạc, định giá tài sản: tổng số tiền
18.000.000 đồng.
Thị C phải chịu 6.000.000 đồng, (số tiền này được trả lại cho
N1)
Trần Thị N1 những người con của bà N1 ông K1 (chết) gồm:
chị Q, chị Q1, chị Huyền M chị Mộng M1 phải chịu 6.000.000 đồng; nhưng
N1 đã nộp tạm ứng 20.000.000 đồng; nên N1 được Võ Thị C phải trả lại
6.000.000đ và bà N1 còn được nhận lại 8.000.000 đồng.
Ông Võ B (chết năm 2023) nên những người kế thừa quyền và nghĩa
vụ tố tụng, gồm: Vợ và các con của ông B Nguyễn Thị N các con H,
H1, T2, L, S phải chịu 6.000.000 đồng, nhưng đã nộp tạm ứng 10.000.000 đồng,
nên còn được nhận lại 4.000.000 đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án
cho đến khi thi hành án xong, người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Phú Yên;
- VKSND tỉnh Phú Yên;
- Cục THADS tỉnh Phú Yên;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Nguyễn Tấn Long
Tải về
Bản án số 323/2024/DS-PT Bản án số 323/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 323/2024/DS-PT Bản án số 323/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất