Bản án số 17/2025/DS-PT ngày 09/01/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 17/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 17/2025/DS-PT ngày 09/01/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về thừa kế tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 17/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 17/2025/DS-PT
Ngày 09 tháng 01 năm 2025
V/v: “Tranh chấp về thừa kế tài sản; quyền
sở hữu tài sản; hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất; yêu cầu huỷ giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất; huỷ di chúc”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Đinh Ngọc Thu Hương
Ông Đặng Văn Ý
Ông Vương Minh Tâm
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Châu Loan - Thư Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Vũ Thanh Sơn - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 01 năm 2025 tại trụ sTòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số:
218/2024/TLPT-DS ngày 20 tháng 3 năm 2024 về việc Tranh chấp về thừa kế
tài sản; quyền sở hữu tài sản; hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất; yêu cầu huỷ
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; huỷ di chúc”.
Do Bản án dân sự thẩm số 27/2023/DS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2034 của
Toà án nhân dân thành phố Cần Thơ bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm số: 2004/2024/QĐ-PT ngày
26 tháng 6 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số: 281/2024/QĐ-PT ngày 16
tháng 7 năm 2024; Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2240/2024/QĐ-
PT ngày 30 tháng 7 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số: 344/2024/QĐ-PT
ngày 30 tháng 8 năm 2024; Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:
3255/2024/QĐ-PT ngày 26 tháng 11 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số:
2
694/2024/QĐ-PT ngày 17 tháng 12 năm 2024; Quyết định đưa vụ án ra xét xử
phúc thẩm số: 3627/2024/QĐ-PT ngày 25 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Trương Quốc T, sinh năm 1959; địa chỉ: 1 19 S (USA); địa chỉ hiện
tại: Số A đường T, phường H, quận N, thành phố Cần T (vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:
+ Ông Nguyễn Minh T1, sinh năm 1985 (có mặt);
+ Ông Hồ Hiếu T2, sinh năm 1996 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: SB đường H, Khu V, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ
(theo Giấy ủy quyền ngày 26/8/2024).
+ Ông Trần Phú N, sinh năm 1967 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số A, đường T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
2. Ông Trương Văn T3, sinh năm 1961; nơi cư trú: Số A, đường T, phường
H, quận N, thành phố Cần Thơ (có mặt);
- Bị đơn:
Ông Trương Văn S, sinh năm 1950; nơi trú: Số A đường T, phường H,
quận N, thành phố Cần Thơ (vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Trương Thị Kiều T4, sinh năm
1998; nơi trú: Số A đường T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ (theo
Giấy ủy quyền ngày 25/01/2022) (có mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn:
+ Luật Trần Nguyễn Duy T5 Văn phòng Luật Trần Thanh P, Đoàn
Luật sư thành phố C (vắng mặt);
Địa chỉ: Số A T, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
+ Ông Nguyễn Huy K Luật của Văn phòng L2, thuộc Đoàn Luật
thành phố C (có mặt);
+ Ông Trần Vũ Thanh T6 Luật của Văn phòng L2, thuộc Đoàn Luật
thành phố C (vắng mặt);
3
+ Ông Lê Tuấn K1 là Luật sư của Văn phòng L2, thuộc Đoàn Luật sư thành
phố C (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số A T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trương Văn T7, sinh năm 1966; nơi trú: Số A đường T, phường
H, quận N, thành phố Cần Thơ (có mặt);
2. Bà Trần Thị N1, sinh năm 1966 (vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của ông Trương Văn T7, Trần Thị N1: Ông
Trần Lâm S1, sinh năm 1961; địa chỉ: Số A đường B, Khu dân I, phường A,
quận N, thành phố Cần Thơ (có mặt);
3. Bà Trương Ánh N3, sinh năm 1992 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số A đường T, phường H, quận N, thành phố Cần T;
4. Trương Thị Đ, sinh năm 1955; nơi trú: Số A đường T, phường H,
quận N, thành phố Cần Thơ (có mặt);
5. Bà Trương Thị Đ1, sinh năm 1944; nơi cư trú: Số A đường T, phường H,
quận N, thành phố Cần Thơ (vắng mặt);
6. Bà Chim Thị Ẩ (đã chết);
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Chim Thị Ẩ:
6.1. Nguyễn Thị Xuân T8, sinh năm 1967; nơi trú: Số H, Ấp D, thị
trấn G, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu (có mặt);
6.2. Nguyễn Thị Xuân D; nơi trú: Số F, Archerfied Road Forest L,
Australia (vắng mặt);
6.3. Bà Nguyễn Thị Xuân H, sinh năm 1965 (vắng mặt);
6.4. Bà Nguyễn Thị Xuân L (vắng mặt);
6.5. Ông Nguyễn Xuân T9, sinh năm 1969 (vắng mặt);
Cùng nơi cư trú: Số B đường T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ;
7. Ông Đỗ Văn T10 (đã chết);
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Đỗ Văn T10:
4
7.1. Bà Đỗ Thị Minh P1, sinh năm 1971; nơi cư trú: Số H đường T, phường
H, quận N, thành phố Cần Thơ (có mặt);
7.2. Bà Đỗ Thị Minh H1, sinh năm 1973; nơi cư trú: Số H đường T, phường
H, quận N, thành phố Cần Thơ (có mặt);
7.3. Ông Đỗ Minh T11, sinh năm 1977; nơi trú: Ấp T, xã T, huyện T,
thành phố Cần T (vắng mặt);
8. Bà Trương Thị S2 (đã chết);
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Trương Thị S2:
8.1. Phạm Thị Thu H2, sinh năm 1968; nơi trú: Số A đường P, phường
T, quận N, thành phố Cần Thơ (có mặt);
8.2. Ông Trương Văn Đ2, sinh năm 1964; nơi trú: Ấp P, thị trấn N, huyện
C, tỉnh Hậu Giang (có mặt);
9. Ông Lưu Ú, sinh năm 1967; nơi trú: Số H đường T, phường H, quận
N, thành phố Cần Thơ (vắng mặt);
10. Trương Thị Hồng T12, sinh năm 1980; nơi trú: Số A đường T,
phường H, quận N, thành phố Cần Thơ (có mặt);
11. Ủy ban nhân dân quận N, thành phố Cần Thơ;
Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân quận N, thành phố Cần Thơ:
Ông Huỳnh Trung T13 - Chức vụ: Chủ tịch (có đơn xin xét xử vắng mặt);
12. Ủy ban nhân dân phường H, quận N;
Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân phường H, quận N: Ông
Nguyễn Đăng K2 - Chức vụ: Chủ tịch (vắng mặt);
13. Văn phòng C1 (trước đây Văn phòng C2 thành phố Cần Thơ); địa chỉ:
Số A, T, phường X, quận N, thành phố Cần Thơ;
Người đại diện của Văn phòng C1: Ông Nguyễn Thanh Đ3 Trưởng Văn
phòng (vắng mặt);
14. Văn phòng C3; địa chỉ: Số G, Khu Dân H, phường P, quận C, thành
phố Cần Thơ;
Người đại diện của Văn phòng C3: Ông Quốc K3 Trưởng Văn phòng
(có đơn xin xét xử vắng mặt);
5
- Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Minh C; địa chỉ: Số D, Đường C, phường H, quận N, thành
phố Cần Thơ (vắng mặt).
2. Ông Nguyễn Xuân H3, sinh năm 1972; địa chỉ: Số B, đường N, phường
C, quận N, thành phố Cần T (vắng mặt).
3. Ông Trần Hiếu T14, sinh năm 1972; địa chỉ: Số A, đường T, phường H,
quận N, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).
4. Ông Đoàn Phú Q, sinh năm 1987; địa chỉ: Số A, đường T, phường H, quận
N, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Trương Văn S; những người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là ông Trương Văn T7 và bà Nguyễn Thị Xuân T8.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyên đơn ông Trương Văn T3, ông Trương Quốc T (có người đại theo ủy
quyền là ông Trần Phú N) trình bày và yêu cầu:
Cha mẹ của các nguyên đơn cụ Trương Văn H4 (chết ngày 29/12/1994)
c Đỗ Th M (chết ngày 04/4/2017) chung sống với nhau từ khoảng năm 1947.
Đến năm 1966, sau khi sinh người con trai út ông Trương Văn Thôi T15 cụ H4
bỏ nhà đi và không còn chung sống với cụ M.
Năm 1999, cụ Đỗ Thị M lập hồ sơ xin được hợp thức hóa quyền sở hữu nhà
ở, quyền sử dụng đất. Sau đó, cụ M được Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt
UBND) tỉnh Cần Thơ (cũ) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01521 ngày
10 tháng 11 năm 2000, diện tích 5.635m
2
, loại LNK (gồm các thửa: 8D, 25B, 10,
21A, 45, 47, 83, 104), tbản đồ số 66, 67, đất tọa lạc tại phường H, thành phố
Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ (cũ), nay là phường H, quận N, thành phố Cần Thơ. Đất
nguồn gốc do cụ M khai phá, trực tiếp quản sử dụng từ khi cụ H4 bỏ đi,
không còn chung sống với cụ M nên bà được cấp giấy đất theo quy định của Luật
Đất đai năm 1993.
Năm 2008, cụ M làm thtục thông báo bị mất giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và xin cấp lại. Sau đó, UBND quận N cấp lại cho cụ M các giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất sau:
6
+ Giấy số H02912.QSDĐ, diện tích 5.299,57m
2
, loại CLN, gồm các thửa:
8D, 25B, 10, 21A, 45;
+ Giấy số H02910.QSDĐ, diện tích 14,8m
2
, loại CLN, thửa 104
+ Giấy số H02909.QSDĐ, diện tích 151,04m
2
, loại CLN, thửa 83.
Cũng trong năm 2008, cụ M lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho
ông Trương Văn S, diện tích 1.410m
2
, hợp đồng được chứng thực tại Ủy ban nhân
dân phường H ngày 08 tháng 7 năm 2008, Số: 696, quyển số 01 TP/CC-
SCT/HĐGD. Sau đó, ông S được Ủy ban nhân dân quận N cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số H03043.QSDĐ ngày 04 tháng 9 năm 2008, thửa 178, diện
tích 1.232,22m
2
, loại CLN, tờ bản đồ số 67, tọa lạc tại đường T, phường H, quận
N. Tuy nhiên, giao dịch tặng cho này là không hợp pháp, cụ M lúc đó đã già
yếu, không còn sáng suốt, minh mẫn. Khi cấp giấy cho ông S thì không đo đạc
thực tế cắt trên giấy của cụ M đứng tên, không đúng trình tự, thủ tục quy định,
ông Trương Văn T3 người sử dụng đất liền kề không tên tứ cận, do người
khác ký giả mạo.
Ngày 29/9/2011, cụ M lập di chúc định đoạt toàn bộ quyền sử dụng đất diện
tích 5.299,57m
2
gồm các thửa: 8D, 25B, 10, 21A, 45, tờ bản đồ số 66, 67 theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H02912, ngày 04 tháng 7 năm 2008 cho
ông Trương Quốc T Trương n T3 thừa hưởng phần bằng nhau. Di chúc được
công chứng tại Văn phòng C3 (địa chỉ: số G, KDC H, phường H, quận C, thành
phố Cần Thơ), Số D, quyển III/2011/TP/CC-SCC/HĐGD.
Cụ H4 cụ M 07 người con chung gồm: Ông Trương Quốc T, ông
Trương Văn T3, ông Trương Văn S, bà Trương Thị Đ, ông Trương Văn T7, ông
Đỗ Văn T10 (ông T10 đã chết, có 03 người con Đỗ ThMinh P1, Đỗ Minh T11,
Đỗ Thị Minh H1) và Trương Thị L1 đã chết khoảng năm 1986 (không có con).
Trước khi chung sống với cụ M, cụ H4 có 01 người con riêng tên là Trương
Thị S2 (đã chết), S2 02 người con bà Phạm Thị Thu H2, ông Trương Văn
Đ2. Còn cụ M thì có 02 người con riêng là bà Trương Thị Đ1Chim Thị
(bà đã chết, 05 người con gồm: Nguyễn Thị Xuân H, Nguyễn Thị
Xuân L, ông Nguyễn Xuân T9, Nguyễn Thị Xuân T8, Nguyễn Thị Xuân
D).
Các nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết:
7
- Công nhận “Di chúc” do cụ Đỗ Thị M lập ngày 29/9/2011 đã được công
chứng tại Văn phòng C3 (địa chỉ: Số G, khu dân cư H, phường H, quận C, thành
phố Cần Thơ) chứng nhận số 4229, quyển III/2011/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 29
tháng 9 năm 2011 là hợp pháp.
- Yêu cầu Tòa án buộc những người đang chiếm giữ các tài sản đã được chỉ
định trong “Di chúc” do cụ Đỗ Thị M lập ngày 29/9/2011 phải giao trả lại tài sản
cho các nguyên đơn.
- Yêu cầu Tòa án tuyên hủy “Hợp đồng tặng cho quyền sdụng đất” đã được
UBND phường H, quận N chứng thực số 696, quyển số 01/TP/CC-SCT/HĐGD
ngày 08/7/2008, bên tặng cho cụ Đỗ Thị M với bên được tặng cho ông Trương
Văn S (ông S bị đơn trong vụ án) và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số H03043.QSDĐ cấp ngày 04/9/2008 do y ban nhân dân quận N cấp cho ông
Trương Văn S.
- Yêu cầu Tòa án buộc ông Trương Văn T7 những người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan phải giao trả nhà và vật kiến trúc hiện do ông T7 đang quản
sử dụng (trên phần đất đã được chỉ định tại “Di chúc” do cụ Đỗ Thị M lập ngày
29/9/2011; ông T7 phải trả lại tài sản cho ông Trương Quốc T vì ông Quốc T đã
bỏ tiền ra xây cất nhà trọ, nhà ở (làm phủ thờ).
Ngoài ra, nguyên đơn ông Trương Văn T3 còn yêu cầu:
Ông yêu cầu được nhận tài sản, sở hữu theo nội dung di chúc do cụ M lập
vào năm 2011. Phần đất ông yêu cầu được nhận tính từ giáp ranh với phần đất của
ông Trương Văn T7 đang quản sử dụng đo qua giáp ranh với hộ tứ cận chạy
dài vào trong hết chiều dài các thửa đất theo phần thực tế mà ông đang quản lý sử
dụng.
Bị đơn ông Trương Văn S người đại diện hợp pháp bà Trương Thị Kiều
T4 trình bày và yêu cầu:
Về hàng thừa kế, bị đơn thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn v
những người có quan hệ thừa kế với cM và cụ H4.
Về nguồn gốc đất tranh chấp chia thừa kế là do cha mẹ của cụ Trương Văn
H4ông Trương Hữu T16Huỳnh Thị N2 tạo lập, chết để lại cho vợ chồng
cụ H4, cụ M thừa hưởng từ trước năm 1954. Qua yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, bị đơn không đồng ý và có yêu cầu phản tố:
8
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01521.QSDĐ do Ủy ban nhân
dân tỉnh C (cũ) cấp cho cụ Đỗ Thị M ngày 10/4/2000, vì giấy đất này bị thất lạc.
- Hủy “Di chúc” của cụ Đỗ Thị M lập tại Văn phòng C3 ngày 29/9/2011 cho
02 người ông Trương Quốc T, ông Trương Văn T3 thừa hưởng tài sản các thửa
đất do mà M đứng tên quyền sử dụng.
- Phân chia lại di sản thừa kế của cụ Trương Văn H4 cụ Đỗ Thị M theo
đúng quy định của pháp luật, cụ thể chia làm 07 phần bằng nhau đối với khu đất
cụ M đứng tên quyền sử dụng, tính theo diện ch đo thực tế nhưng không chia
cho những người con của cụ H4, cụ M đã mất (bà Trương Thị S2, bà Trương Thị
L1, ông Đỗ Văn T10).
- Đối với các thửa đất do ông Trương Văn T3 đứng tên vào năm 2011 (83
104) nằm đối diện nhà ông T3, được tách ra tgiấy đất của cụ M đứng tên
trước đây, bị đơn cũng yêu cầu chia thừa kế cả 02 thửa đất này. Việc sang tên cho
ông T3 là không đúng quy định pháp luật.
- t lại yêu cầu chia tài sản trên đất (gồm nhà thờ và các căn phòng trọ do
ông T7 đang quản lý).
- Đề nghị công nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Trương
Văn S ngày 04/9/2008 (được tách ra từ giấy đất của cụ M) hợp pháp, không
đồng ý giao thửa đất do ông S đứng tên để chia thừa kế theo yêu cầu của nguyên
đơn cũng như các thừa kế khác.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Văn T7 người đại
diện hợp pháp là bà Nguyễn Thị Hồng V trình bày và yêu cầu:
Về hàng thừa kế của cụ H4, cụ M: Ông T7 thống nhất như nguyên đơn, bị
đơn trình bày.
Về nguồn gốc đất tranh chấp chia thừa kế: Do ông cha mẹ của cụ H4 để
lại, không phải do cụ M khai phá, tạo lập.
Các tài sản tạo lập trên đất tranh chấp (nhà ở, nhà trọ) mà cụ M đứng tên do
ông T7 xuất ra đầu tư chi phí. Khi xây nhà, ông T7 có mượn của ông Quốc T số
tiền 100 triệu đồng để mua vật liệu xây cất nhà. Đến nay ông T7 đã trả xong khoản
tiền này cho ông T. Ông Quốc T cho rằng, ông T xuất ra chi phí xây dựng nhà,
tạo lập tài sản trên đất do cụ M đứng tên là không đúng.
9
- Khi chia thừa kế theo pháp luật phải tính công sức quản lý, giữ gìn cho ông
T7 đối với các thửa đất do cụ M đứng tên, kể cả các thửa đất do ông Trương Văn
T3, ông Trương Văn S được cấp giấy, được tách ra từ giấy của cụ M.
- Hủy toàn bộ nội dung “Di chúc” do cụ Đỗ Thị M lập ngày 29/9/2011 tại
Phòng C4, phần đất này, chỉ định cho 02 người thừa hưởng là ông Trương Quốc
T (Việt kiều Mỹ) và ông Trương Văn T3. do, tại thời điểm lập di chúc, cụ M
đã bị bệnh nặng, tinh thần không minh mẫn nên di chúc không đảm bảo khách
quan.
- Yêu cầu chia di sản thừa kế theo pháp luật đối với diện tích đất 5.636m
2
,
gồm các thửa: 8D, 25B, 10, 21A, 45, 47, 83, 104, tờ bản đồ số 66+67, theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 01521.QSDĐ do Ủy ban nhân dân tỉnh C (cũ)
cấp ngày 10/4/2000 do cụ Đỗ Thị M đứng tên, cụ thể: Đất này được chia làm 07
kỷ phần, mỗi kỷ phần tương đương 805m
2
. Ông T7 yêu cầu được nhận 02 kỷ phần
(có 01 kỷ phần dùng vào việc thờ cúng), 805m
2
x 2 = 1.610m
2
.
- Rút lại yêu cầu đối với phần đất nằm ngoài giấy chứng nhận là 2.581,38m
2
,
được chia cho 07 kỷ phần, mỗi kỷ phần 368,76m
2
(tính tròn 368m
2
). Ông T7
yêu cầu được hưởng 02 k phần (có 01 kỷ phần dùng vào việc thờ cúng), 368m
2
x 2 = 736m
2
như trình bày trong đơn gửi cho Tòa án.
- Đối với 02 căn nhà liền kề, hiện gia đình ông T7 đang ở, thờ cúng do ông
T7 xây cất để cụ M cùng gia đình ông chung sống, nay nơi thờ cúng cha mẹ,
ông T7 yêu cầu được quản lý sử dụng đối với 02 căn nhà này.
Người quyền li, nghĩa vụ liên quan Trương Thị Hồng T12 trình
bày trong quá trình tố tụng:
con của bà Trương Thị Đ, hiện tại đang trên một phần thửa đất
do ông Trương Văn T7 đng tên giấy đất. Đất này do ngoại của là cụ Đỗ
Thị M cho ở từ khoảng năm 1998 nhưng không làm giấy tờ. Khi ông T7 làm thủ
tục đăng ký cấp giấy đất thì bà không hay biết. Nay bà yêu cầu Tòa án công nhận
cho bà được sử dụng ổn định phần đất này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trương Thị Đ trình bày trong
quá trình tố tụng:
không đồng ý giao căn nhà trên đất cho ông T7 quản lý thờ cúng vì ông
T7 không tạo điều kiện để anh em đến thắp nhang, thờ cúng. Theo biết thì ông
10
Trương Quốc T xuất tiền ra xây cất nhà ở, nhà thờ nhà trọ do ông T7 đang quản
lý sử dụng, không phải ông T7 bỏ chi phí như ông trình bày. Vì bà là người trong
gia đình nên biết rõ việc này, mỗi khi ông Quốc T về nước có ghé nhà của bà nói
việc này. Về chia thừa kế thì không yêu cầu , nếu được chia thừa kế theo
pháp luật thì kỷ phần của bà sẽ giao cho con gái Trương Thị Hồng T12 thừa
hưởng.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trương Thị Đ1 trình bày trong
quá trình tố tụng:
con riêng của cụ Đỗ Thị M, trường hợp chia di sản thừa kế của cụ M
theo pháp luật thì cũng yêu cầu được hưởng một suất thừa kế theo quy định.
Về đất của cụ M đứng tên, nguồn gốc của cha mẹ ông của cụ Trương Văn
H4 (cha dượng của bà) để lại nhưng khi bà và cụ M về chung sống với cụ H4 thì
đất này hoang hóa, không ai ở.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trương Thị Thu H5 ông
Trương Văn Đ2 thống nhất trình bày trong quá trình tố tụng:
Ông bà là con của Trương Thị S2 (bà S2 con riêng của cH4). Trường
hợp nếu chia di sản thừa kế theo pháp luật thì ông bà cũng có yêu cầu được hưởng
một suất theo quy định pháp luật thừa kế. Nguồn gốc đất do cM đứng tên của
ông bà cha mcủa cụ H4 để lại, không phải do cụ M khai phá, tạo lập như nguyên
đơn trình bày.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đỗ Thị Minh P1, Đỗ Thị
Minh H1 và ông Đỗ Minh T11 trình bày trong quá trình tố tụng:
Các ông bà là con ruột của ông Đỗ Văn T10 (ông T10 đã chết là con của cụ
M cụ H4), ông yêu cầu được hưởng một suất thừa kế theo pháp luật;
trường hợp khu đất do cụ M để lại được phân chia thừa kế theo pháp luật.
P1 cho rằng hiện tại bà đang cất nhà phía đối diện nhà ông Trương Văn
T3 do ông T3 đứng tên giấy đất (được sang tên từ giấy đất của cụ M) do cụ M cho
từ năm 2001. Cụ M làm giấy viết tay vào ngày 22/10/2003 cho đất ở, giấy
này ông Trương Văn T7 ông Trương Văn S tên (ông S khai ông
tên, còn ông T7 khai ông không viết họ tên, ký tên vào giấy này). Bà P1 yêu cầu
được tiếp tục sử dụng ổn định đất được cho (ông Văn T3 không yêu cầu đối với
phần đất bà P1 đang ở do cụ M đã cho trước).
11
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Xuân D ý kiến
tại văn bản được Văn phòng T17 lập Vi bằng số 365/2023/VB-TPL ngày
12/7/2023 (bút lục 358), nội dung:
Do bận đi làm, hoàn cảnh gia đình đơn chiếc đang sinh sống nước ngoài
(Australia) nên không thể tham gia quá trình giải quyết vụ án tại a án Việt
Nam. vậy, xin Tòa án nhân dân thành phố Cần ThơTòa án nhân dân các
cấp Việt Nam giải quyết, xét xử vắng mặt bà đối với vụ án này
Do bà đang trú ở Australia nên chưa thể về Việt Nam được, cho nên
làm đơn này gửi qua đường thư điện tử, địa chỉ email của
(xuandung224@yahoo.comđến địa chỉ e-mail của Luật Trần Phú N
(luatsutranphunhuansaigon@gmail.com) để nhờ Luật sư Trần Phú N in ra nộp
cho Tòa án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Xuân T8:
Theo nguyên đơn cung cấp địa chỉ của T8, Tòa án cấp thẩm quyết
định ủy thác cho Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu lập biên bản
lấy lời khai của T8 nhưng không có mặt tại nơi cư trú nên không làm việc
được và vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết xét xử vụ án.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Văn phòng C1 (trước đây Phòng
C5 thành ph Cần Thơ) có ý kiến ti văn bản s 32/ĐTN-VP ngày 29/3/2023:
Di chúc s công chng 10, Quyn s 01/2007/TP/CC-SCC/HĐGD ngày
25/01/2007 được lp bi c Đỗ Th M đã được Công chng viên Phòng Công
chng s 01 thành ph C4 chng nhận theo đúng quy định pháp lut. Ti thi
đim công chng, c M minh mn, sáng sut (có Giy chng nhn s 1518/CN-
BVTT ngày 12/12/2006 ca Bnh tâm thn thành ph C) đã t nguyn lp di
chúc. Đại din Văn phòng C1 đề ngh đưc vng mt trong quá trình xét x v
án.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C3 ý kiến ti Bn
t khai ngày 29/3/2023:
Văn phòng C3 đã thực hin công chng di chúc ca c Đỗ Th M đúng theo
quy định ca Lut Công chứng quy đnh ca pháp lut. Ti thời điểm thvà
chng nhận di chúc, đương s đã xuất trình đầy đ bn chính giy t tùy thân,
giy chng nhn tâm thn kinh và giy chng nhn quyn s dụng đt. Do c M
12
không biết ch nên có mi các nhân chứng đến để làm chng cho vic lp di chúc
của bà, đã được công chng viên gii thích v quyền và nghĩa vụ, đã hiểu rõ và t
nguyện lăn tay vào di chúc nói trên. Văn phòng Công chứng xác định bn di chúc
đưc công chng ngày 29/9/2011, s công chng 42295 hoàn toàn hp pháp
đúng quy định pháp lut. Nay các bên có tranh chp, yêu cu tuyên b vô hiu di
chúc, đ ngh Tòa án xem xét gii quyết theo quy định pháp lut. Do bn công
việc, người đại diện Văn phòng Công chứng xin đưc vng mt khi hòa gii, xét
x v án.
Người quyền lợi, nghĩa vliên quan Ủy ban nhân n phường H, qun
N có ý kiến tại Văn bn s 411/UBND-HC ngày 19/6/2023:
Qua kim tra h chứng thực lưu trữ ti Ủy ban nhân dân phường, thành
phn h Giấy chng nhn s 491/BVTT ngày 21/4/2008 do Bnh vin Tâm
thn thành ph C cp cho c Đỗ Th M, sinh năm 1919, xác nhn ti thời điểm
trên c M không có ri lon tâm thần. Do đó, tại thời điểm chng thc hợp đồng,
c M năng lc hành vi dân s đầy đủ Ủy ban nhân dân phưng thc hin
chng thc đúng quy đnh pháp luật. Người đại din ca UBND phường H đề
ngh đưc vng mt trong quá trình gii quyết xét x v án.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân qun N có ý kiến
tại Công văn số 823/UBND-NC ngày 25/02/2022 phúc đáp cho Tòa án:
Đối vi h cấp Giy chng nhn quyn s dụng đất s H03043.QSDĐ do
y ban nhân dân qun N, thành ph Cần Thơ cấp ngày 4 tháng 9 năm 2008 cho
ông Trương Văn S, thành phn h sơ gm có:
Hợp đng tng cho quyn s dụng đất s 696, quyn s 01 TP/CC-
SCT/HĐGD được Ủy ban nhân dân phưng H chng thực ngày 08 tháng 7 năm
2008;
Biên bn xác nhn ranh gii, mc gii tha đất (theo hin trng s dng), có
các h t cận giáp ranh được Ủy ban nhân dân phường H ký xác nhn ngày
10 tháng 7 năm 2008;
Phiếu chuyn thông tin địa chính s 5370 được Văn phòng Đăng quyền
s dụng đất ký ngày 12 tháng 8 năm 2008;
Thông báo np l phí trước b nhà, đất ngày 13 tháng 8 năm 2008 và Thông
báo np thuế chuyn quyn s dụng đất ngày 13 tháng 8 năm 2008.
13
Ngày 04 tháng 9 năm 2008, ông Trương Văn S đưc y ban nhân dân qun
N cp Giy chng nhn quyn s dụng đt s H03043.QSDĐ, thửa 178, din tích
1.232,22m
2
, loi CLN, t bản đồ s 67, ta lc ti đường T, phường H, qun N,
thành ph Cần T.
Căn cứ khoản 4 Điều 49 Luật Đất đai năm 2003; Điu 117 Ngh định
181/2004NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 ca Chính ph thì vic UBND qun
N cp Giy chng nhn quyn s dụng đất s H03043.QSDĐ cho ông Trương
Văn S ngày 4 tháng 9 năm 2008 là đúng trình t, th tục theo quy định pháp lut
ti thời điểm cp Giy chng nhn.
Người đại din y ban nhân UBND qun N đ ngh đưc vng mt trong
quá trình gii quyết xét x v án, thng nht kết qu xét x ca Tòa án.
Người làm chng là ông Nguyn Minh C trình bày trong quá trình t tng:
Ông em v ca ông Trương Quốc T, theo ông thì phn nhà tr nhà
to lập trên đất tranh chp s A, đường T, phường H, qun N, thành ph Cần Thơ
do ông Trương Quốc T gi tiền vào đầu xây dựng vào khoảng tháng 3 năm
2000, trc tiếp chi tr công th, chi tr tin mua vật tư lúc xây chưa tranh chp,
khi xây dựng được hơn 20 năm mi tranh chp. Ông cho rng ông không quan
h vi ông Trương Văn T7 nên không đứng ra mua vật giùm ông T7 để
xây dng nhà trên phần đất c M để li. do sc khỏe nên ông xin được vng
mt, không tham gia xét x.
Người làm chng ông Nguyn Xuân H3 trình bày trong quá trình t tng:
Năm 2000, ông có nhận xây dng và thu xây cất căn nhà cấp 4 tại địa ch
A, đường T, phưng H, qun N, thành ph Cần Thơ, gồm căn nhà chính nhà
ph lin k. Mi liên h v xây dựng đều liên h vi ông M1 Còn để thanh toán
tin vật tư xây dựng theo tiến độ; tng s tin thanh toán 100 triệu đồng do ông
C thanh toán trc tiếp cho ông. Còn ch ông Trương Quc T theo ông được biết,
có gi tin v Việt Nam cho ông đ xây dựng căn nhà đó nhưng không rõ gi ai,
còn ông C đứng ra tr tin cho ông mà thôi.
Ông cam đoan những nội dung mà ông đã trình bày như nêu trên là đúng sự
thật. Do bn công việc, thường xuyên đi làm xa nhà nên ông xin được vng mt
khi Tòa án xét x v án.
Người làm chng là ông Trn Hiếu T14 trình bày trong quá trình t tng:
14
Ông không quan hệ con, thân thiết hay mâu thuẫn với các ông
Trương Quốc T, Trương Văn T3, Trương Văn S, Trương Văn T7 cũng như các
đương sự khác trong vụ án; nghề nghiệp chính của ông là thợ hồ xây nhà. Cách
nay đã lâu, không nhớ chính xác thời gian nào khoảng 05 năm trở lại đây, ông
thấy chỗ dãy nhà trọ số A, đường T, phường H, quận N sửa chữa nên ông xin
vào tham gia làm công, cùng một số người làm công khác sửa chữa nhà. Lúc đó,
ông làm thợ xây, tiền công 350.000 đồng/ngày, ông Trương Văn T3 người theo
dõi, ghi ngàyng cho ông những người làm khác, còn ông Trương Quốc T
người trả tiền công, thời gian làm là khoảng 05 đến 06 tuần, cũng đã lâu nên
ông không thể nhớ chính xác được.
Công việc của ông làm lúc đó là sửa chữa 02 dãy nhà trọ, lót gạch nền, ngăn
các phòng trọ cho ông Trương Quốc T nằm phía sau căn nhà dùng để phía
trước, còn nhà ở này là của ai (nằm ở phía trước) thì ông cũng không tìm hiểu rõ.
Vật liệu dùng để sửa nhà, ngăn phòng như: xi măng, gạch, cát, đá …, lúc đó ông
nghe nói ông Trương Quốc T trả tiền, còn ông Trương Văn Thôi T15 ông
không thấy trả tiền mua vật liệu hay tiền ng cho ông những người làm
khác.
Ông cam đoan những nội dung đã trình bày như nêu trên đúng sự thật, nếu
sai ông hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Do bận công việc đi làm ở xa,
ngoài địa bàn thành phố Cần Tnên ông xin được vắng mặt khi Tòa án xét xử
vụ án.
Người làm chng là ông Đoàn Phú Q trình bày trong quá trình t tng:
Ông không quan hệ con, thân thiết hay mâu thuẫn với các ông
Trương Quốc T, Trương Văn T3, Trương Văn S, Trương Văn T7 các đương
sự khác trong vụ án. Nghề nghiệp chính của ông là phụ hồ xây nhà. Cách nay đã
lâu, ông không nhớ chính xác thời gian nào do làm phụ hồ xây nhà ở, nhà trọ cho
ông Trương Quốc T nhiều giai đoạn. Ông phụ hồ cho thợ xây ndo ông
Trương Văn T3 kêu, vì ông T3 người coi xây nhà cho ông Trương Quốc T do
người này nước ngoài. Căn nhà mà ông cùng thợ xây gồm nhà ở, các dãy n
trọ phía sau nhà ở hiện tại do ông Trương Văn T7 đang quản sdụng trên phần
đất của ai đứng tên thì ông không biết rõ, chỉ biết trên đất ở đường T, phường H.
Khi trả tiền công thợ, thì ông Trương Văn T3 tính ngày công thợ làm bao nhiêu
tiền, còn ông Trương Quốc T thì trực tiếp trả tiền, vì ông Quốc T có về Việt Nam.
15
Còn ông Trương Văn Thôi T15 không có trả tiền công thợ xây nhà cho ông cũng
như những người khác.
Ông cam đoan những nội dung mà ông đã trình bày như trên là đúng sự thật,
nếu sai ông hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Do bận công việc đi làm
xa nên ông xin vắng mặt khi Tòa án xét xử vụ án.
Tại phiên tòa thẩm, các nguyên đơn vẫn gi nguyên yêu cu khi kin.
Ông Trn Phú N người đại diện cho nguyên đơn ông Trương Quốc T cung cp
thêm bn photo H chiếu ca ông Trương Quốc T để xác định rng, ông Quc T
là công dân Việt Nam, đủ điu kin nhn di sn tha kế là bất động sn. Nguyên
đơn yêu cu những người đang chiếm hu tài sn phi giao tr lại cho nguyên đơn
đưc thừa hưởng theo di chúc, đồng thi phi thanh toán xong các khoản điện,
c sinh hot (nếu có). V vic h tr chi phí cho gia đình ông Trương Văn T7
di di, to lp ch khác, tùy Tòa án xem xét quyết định; do ông Trương Văn S
và người đại din y quyn cho ông S không tha nhận “Di chúc” của c Đỗ Th
M lp ngày 29/9/2011 vi ni dung ch định cho các nguyên đơn thừa hưởng di
sn là hợp pháp nên nguyên đơn không đồng ý cho li ông S mt phn di sn ca
c M (200m
2
đất) như hòa giải trước đây tại Tòa án nhân dân qun Ninh Kiu.
Do ông T7 tha nhận mượn ca ông Quc T 100 triệu đồng vào năm 2000
để đầu tư sửa chữa, xây nhà nên đề ngh Hội đồng xét x tuyên, dành quyn khi
kin cho ông Quc T bng v án khác v s tin này, vì không có vic ông Quc
T cho ông T7 n tiền để sa cha, xây nhà, nếu vay mượn quan h riêng.
Ông Trương Văn T7 cho rng ông Trương Quc T cho ông mượn 100
triệu đồng vào năm 2000 để ông sa cha, xây nhà , nhà tr. Các tài sn này nm
trên phần đt tranh chp chia tha kế hin tại ông đang qun s dng.
Thời gian sau, ông cũng đã tr xong cho ông T s tiền mượn 100 triệu đồng. Đề
ngh Hội đồng xét x hy c 02 bn di chúc do c Đỗ Th M lp 25/01/2007
29/9/2011 phân chia diện tích đất do c M đứng tên quyn s dng cho các
tha kế ca c M theo pháp lut, ông xin được nhn 02 phần, trong đó phần
dùng để th cúng. Ngoài ra, ông còn cung cấp “Giấy chng nhận” của Bnh vin
Tâm thn thành ph C s: 1545/2011/CN-BVTT ngày 11/10/2011 xác nhn chun
đoán: C Đỗ Th M “Hiện sa sút tâm thn tuổi già”, “Di chúc” do c M lp, ch
định cho ông Văn T3 ông Quc T thừa hưởng di sn tha kế không hp
pháp, vì c M không minh mn ti thời điểm lp di chúc.
16
Ông Trương Văn S (có người đi din y quyn) vn gi nguyên yêu cu
phn t, đ ngh công nhn diện tích đất c M tng cho ông S 1.232,22m
2
và ông
đưc cp giấy đất là hp pháp. Tr diện tích đất được tng cho, ông yêu cu phân
chia phần đt n li do c M đứng tên giy chng nhn quyn s dng cho các
đồng tha kế theo pháp lut (tr nhng người con đã chết trước c M: ông T10,
S2 L1). B đơn xin rút lại yêu cu chia tài sn gn lin với đất nhà , nhà
tr hin do ông Trương Văn T7 qun lý s dng.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án
nhân dân thành phố Cần Thơ đã tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia di sản thừa kế
theo di chúc và hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được xác lập giữa cụ
Đỗ Thị M với ông Trương Văn S;
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc đòi công nhận thửa đất
178 do bị đơn đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng chia di sản thừa kế của
cụ Đỗ Thị M theo pháp luật; yêu cầu hủy “Di chúc” do cụ Đỗ Thị M lập ngày
29/9/2011 (di chúc chỉ định cho các nguyên đơn thừa hưởng di sản).
Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vliên quan
ông Trương Văn T7 về việc yêu cầu hủy “Di chúc” do cụ Đỗ Thị M lập ngày
29/9/2011 (di chúc chỉ định các nguyên đơn thừa hưởng di sản) và yêu cầu phân
chia di sản thừa kế của cụ Đỗ Thị M theo pháp luật.
Công nhận “Di chúc” do cụ Đỗ Thị M lập ngày 29/9/2011, được công chứng
tại Văn phòng C3 (địa chỉ: sG, khu dân H, phường H, quận C, thành phố Cần
Thơ) chứng nhận số 4229, quyển III/2011/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 29 tháng 9
năm 2011 có hiệu lực pháp luật.
“Di chúc” do cụ Đỗ Thị M lập ngày 25/01/2007 (chỉ định cho ông Trương
Văn T7 thừa hưởng di sản), được Phòng C5 thành phố Cần Thơ công chứng số
10, quyển số 01/2007/TP/CC-SCC/HĐGD không có hiệu lực pháp luật.
Hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, được UBND phường H, quận N
chứng thực số 696, quyển số 01/TP/CC-SCT/HĐGD ngày 08/7/2008, bên tặng
cho là cụ Đỗ Thị M với bên được tặng cho là ông Trương Văn S.
Nguyên đơn ông Trương Văn T3 ông Trương Quốc T được thừa hưởng
di sản là quyền sử dụng đất, cụ thể như sau:
17
+ Ông Trương n T3: 1.801,1m
2
, loại CLN, thửa 45
1
(thuộc một phần thửa
45) 863,3m
2
, loại CLN, thửa 25B, đất do cụ Đỗ Thị M đứng tên Giấy chứng
nhận quyền sử dụng số H02912.QSDĐ, do Ủy ban nhân dân quận N cấp ngày 04
tháng 7 năm 2008, tọa lạc tại phường H, quận N, thành phố Cần T.
+ Ông Trương Quốc T: 2.337,7m
2
, loại CLN, thuộc các thửa: 10 + 21A + 45
và 225,7m
2
, loại CLN, thuộc thửa 85D, đất do cụ Đỗ Thị M đứng tên Giấy chứng
nhận quyền sử dụng số H02912.QSDĐ, do Ủy ban nhân dân quận N cấp ngày 04
tháng 7 năm 2008 và 1.274,3m
2
, loại CLN, thuộc thửa 178, đất do ông Trương
Văn S đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng số H03043.QSDĐ, do Ủy ban
nhân dân quận N cấp ngày 04 tháng 9 năm 2008, tọa lạc tại phường H, quận N,
thành phố Cần T.
Công nhận ông Trương Quốc T được quyền sở hữu các tài sản gắn liền với
đất mà ông được hưởng di sản thừa kế như sau:
Trên thửa đất 178 gồm:
* Nhà cho thuê: loại nhà trệt, mái tole; kết cấu: cột tông đúc sẵn, vách xây
tường 10cm, mái lợp tole, nền láng xi măng + 50% gạch; chất lượng còn lại
khoảng 40%; diện tích xây dựng: 7,0m x 7,65m = 53,55m
2
, giá trị: 43.482.600
đồng.
* Nhà kho: loại nhà trệt, mái tole; kết cấu: cột tông đúc sẵn, vách xây
tường 10cm, mái tole, nền gạch men; chất lượng còn lại khoảng 40%; diện tích
xây dựng: 8,35m x 8,6m = 71,81m
2
, có giá trị: 58.309.720 đồng
* Nhà trọ: loại nhà trệt, mái tole; cột tông đúc sẵn, mái tole, vách xây
tường lửng, ốp tole + khung gỗ, nền láng xi măng; chất lượng còn lại khoảng 30%;
diện tích xây dựng: 8,15m x 4,5m = 36,67m
2
, có giá trị: 21.014.775 đồng.
Trên thửa đất 45 gồm:
* Nhà cho thuê: loại nhà trệt, mái tole; kết cấu: cột tông đúc sẵn, vách
xây tường 10cm, nền gạch men, mái lợp tole; chất lượng còn lại khoảng 45%;
diện tích xây dựng: 5,9m x 10,7m = 63,13m
2
, có giá trị: 57.669.255 đồng.
* Nhà thờ: loại nhà trệt, mái tole; kết cấu: khung cột bê tông cốt thép, vách
xây tường 10cm, nền gạch men, mái tole; chất lượng còn lại khoảng 40%; diện
tích xây dựng: 5,7m x 10,2m = 58,14m
2
, có giá trị: 82.791.360 đồng.
18
* Nhà ở: loại nhà trệt, mái tole; kết cấu: khung cột tông cốt thép, vách xây
tường 10cm, nền gạch men, mái tole; chất lượng còn lại khoảng 60%; diện tích
xây dựng: 8,15m x 10,2m = 83,13m
2
, có giá trị: 177.565.680 đồng
* Nhà trọ: loại nhà trệt, mái tole; kết cấu: khung cột tông đúc sẵn, vách
xây tường 10cm, nền gạch men, mái tole; chất lượng còn lại khoảng 40%; diện
tích xây dựng: (10,3m x 16,6m) + (4,15m x 8,2m) + (7,1m x 7,1m) + (6,6m x
7,7m) = 308,7m
2
, có giá trị: 250.664.400 đồng.
- Buộc ông Trương Văn T7, Trần Thị N1, chị Trương Thị Ánh N3 phải
trách nhiệm di dời, giao trả lại cho ông Trương Quốc T quyền sử dụng đất và
những tài sản gắn liền với đất như nêu trên. Ông T7, N1, chị N3 được quyền
lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Buộc ông Trương Quốc T trách nhiệm bồi hoàn ng sức quản lý, giữ
gìn di sản cho ông Trương Văn T7 số tiền 4.365.383.000đ (bốn tỷ ba trăm sáu
mươi lăm triệu ba trăm tám mươi ba ngàn đồng).
Kể tngày ông T7 đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Quốc T chậm bồi
hoàn số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất được
quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật sự năm 2015 tương ứng với thời gian
số tiền chậm thi hành án.
Các đương sự được quyền liên hệ quan Nhà nước thẩm quyền làm thủ
tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các phần đất được thừa hưởng
như nêu trên. Ông Trương Văn S trách nhiệm giao nộp lại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do ông đứng tên số H03043.QSDĐ, cấp ngày 04/7/2008 như
nêu trên cho cơ quan có thẩm quyền, trường hợp ông không giao nộp thì cơ quan
Nhà nước thẩm quyền quyền thu hồi, hủy bỏ để cấp lại cho các đương s
theo quy định pháp luật về đất đai.
Kiến nghị quan thẩm quyền thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số H02912 do Ủy ban nhân dân quận N cấp ngày 04/7/2008 do cụ M đứng tên
để lập thủ tục cấp lại giấy đất cho các đương sự được phân chia, thừa hưởng quyền
sử dụng đất như nêu trên theo quy định pháp luật.
Kèm Bản trích đo địa chính số 177/TTKTTNMT ngày 22/11/2022 của Trung
tâm K4 thuộc Sở Tài nguyên Môi trường thành phố C để xác định vị trí, kích
thước phần đất của các đương sự được chia, thừa hưởng như nêu trên.
19
2. Đình chỉ các yêu cầu phản tố của bị đơn về việc đòi phân chia giá trị các
căn nhà trọ, nhà gắn liền với đất do ông Trương Văn T7 quản sử dụng; yêu
cầu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về việc đòi phân chia
các phần đất khác nằm ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng do cụ Đỗ Thị M
đứng tên, do các đương sự rút lại các yêu cầu này.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án pdân sự sơ thẩm,
và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 03/10/2023, ông Trương Văn T7 đơn kháng cáo một phần bản án
thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án thẩm theo hướng huỷ án
thẩm.
Ngày 04/10/2023, ông Trương Văn S đơn kháng cáo toàn bộ bản án
thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ đơn phản
tố của ông.
Ngày 30/11/2023, Nguyễn Thị Xuân T8 kháng cáo đề nghị cho bà hưởng
thừa kế di sản.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Trương Thị Kiều T4 đại diện cho ông Trương Văn S, ông Trần Lâm S1
đại diện cho ông Trương Văn T7bà Nguyễn Thị Xuân T8 vẫn giữ nguyên yêu
cầu kháng cáo. Người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, các đương sự
không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Trương Thị Kiều T4 đại diện cho ông Trương Văn S trình bày: Công nhận
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông S. Nguồn gốc do cha mcụ H4 để
lại. Cụ M vợ cụ H4; cụ M đã kê khai đứng tên và cắt cho ông S.
Ông Trần m S1 đại diện cho ông Trương Văn T7 trình bày: Nguồn gốc
không phải đất do cụ M tạo dựng mà là ông bà để lại, như hồ sơ xin đăng ký đất
đã kê khai, hồ thể hiện cH4 đi từ nhng năm 1966, không sống chung với cụ
M là không đúng, không có gì chứng minh việc này cả. Thời đó chlà 2 vợ chồng
già giận nhau tcũng đi đi về về. Năm 1994 thì tất cả còn van táng tại gia đình,
cụ M đứng ra làm chủ tang lễ. Giờ vẫn chôn 2 ngôi mộ của 2 cụ sát nhau. Nói cụ
H4 sống với người khác, bỏ đi khỏi địa phương là không có căn cứ xác định. Đất
này không phải khai mở là ông bà để lại nên đây tài sản chung, tuy không
đăng ký kết hôn nhưng đâyhôn nhân thực tế. Do đó, việc cụ M lập di chúc cho
20
02 nguyên đơn là không phù hợp vì đã quyết định cả di sản của cụ H4, trong khi
các đồng thừa kế khác lại không có. Đề nghị hủy bản án sơ thẩm vì trong đó còn
thiếu người được hưởng di sản thừa kế nhưng không được triệu tập và làm việc.
Nguyễn Thị Xuân T8 trình bày: Đề nghị chia thừa kế theo hiện vật.
Ông Nguyễn Minh T1 đại diện cho ông Trương Quốc T trình bày: Không
đồng ý với kháng cáo của các đương sự, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ông Trương Văn T3 trình bày: Năm 2007, cụ M lập di chúc cho ông T7
nhưng ông T7 bạc đãi cụ M nên năm 2011, cụ M lập di chúc cho ông ông Quốc
T. Di chúc 2007 khi lập thu hồi Di chúc năm 2006 nên ông không có để nộp. Đề
nghị y án sơ thẩm.
Trần Thị N1 trình bày: Không có ý kiến.
Trương Thị Đ, Đỗ ThMinh P1, Đỗ ThMinh H1, Phạm Thị
Thu H2, ông Trương Văn Đ2 Trương Thị Hồng T12 thống nhất trình bày:
Đề nghị được chia thừa kế theo quy định pháp luật.
Ông Trương Văn T3 trình bày: Lớn lên ông sống với mẹ cụ Đỗ Thị M. Cụ
M người trực tiếp canh tác nên ông biết đất thuộc quyền sử dụng của cụ. Chữ
trong đơn khởi kiện của ông. Ông S về túc tại đất của cụ M, cất 01 căn
nhà ở và 05 căn cho thuê. Cụ M hay đi khởi kiện ông S. Ông biết ông S được cấp
giấy năm 2008. Ông đã canh tác trên đất từ m 1992, giấy tờ còn nằm chung.
Ông S được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên phần đất do ông T7 quản
lý. Ông có biết về Giấy chứng tử cụ H4. Cụ H4 đi ra ngoài và chết nhưng vì bổn
phận làm con nên ông mang cụ H4 về lo mai táng vì cụ H4 người sau không
con.
Ông Trương Văn T7 trình bày: Ông S cấp đất năm 2008, ông S ông đã
tranh chp ti UBND phường H. Ông không thng nht vic cp giấy trên đất nên
xy ra tranh chp. Tranh chp tài sản trên đất không tranh chp. Nay quyn s
dụng đất công nhn cho ông S, không có ý kiến và không tranh chp.
Ông Nguyễn Minh T1 đại diện cho ông Trương Quốc T trình bày: Trình tự
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là phù hợp, quá trình khai không có ai
khiếu nại nên giấy là của cụ M. Di chúc năm 2007, sau này phát sinh tranh chấp
mới biết, lúc hoà giải sở, ông Quốc T mới biết. Ông Quốc T không biết Di chúc
năm 2006.
21
Ông Trần Lâm S1 đại diện cho ông Trương Văn T7 trình bày: Đề nghị Hội
đồng xét xử huỷ bản án sơ thẩm.
Luật Nguyễn Huy K bảo vệ cho bị đơn ông Trương Văn S trình bày: Đề
nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Trương Văn
S, sửa Bản án thẩm số: 27/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân
thành phố Cần Thơ bởi các lý do như sau:
Thứ nhất: Căn cứ Đơn khởi kiện ngày 03/5/2017 của ông Trương Quốc T
(BL 53) nội dung: “Nguyên mẹ tôi phần đất hương hỏa từ nguồn gốc ông
bà để lại, được cấp Giấy chứng nhận QSD đất số 01521.QSDĐ cấp ngày
10/4/2000 diện tích 5635,0m
2
(L, CLN) do UBND tỉnh C (cũ) cấp, tọa lạc
phường H, quận N, TP .” và Biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 05/01/2022
của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ (BL 566) ông Trương Văn T3 trình bày:
“Đất này có nguồn gốc của ông bà nội tôi để lại nhưng cha tôi là Trương Văn H4
chung sống với mẹ tôi đến năm 1966 thì bỏ nhà đi chung sống với người vợ khác”.
Như vậy phía nguyên đơn (ông Trương Quốc TTrương Văn T3) ngay từ đầu
đã thừa nhận phần đất với diện tích 5.635,0 m
2
nguồn gốc từ cha mẹ của cụ
Trương Văn H4 để lại chứ không phải là tài sản riêng của c Đỗ Thị M.
Thứ hai: Căn cứ Biên lai thu thuế sử dụng đất ngày 10/4/1997 (BL 176) ghi
nhận tên người nộp thuế là ông “Trương Văn H4” với diện tích khoảng 5.700m
2
.
Như vậy, đối với phần đất nêu trên cho đến năm 1997 vẫn được Cơ quan thuế ghi
nhận người đứng tên sử dụng đất vẫn là cụ Trương Văn H4 chồng của cụ Đỗ Thị
M.
Thứ ba: Căn cứ Công văn số: 17/TTCNTT ngày 27/01/2022 của Trung tâm
K4 (BL 294) ghi nhận nội dung: Qua soát hồ sơ, hiện Trung tâm chỉ lưu giữ số
mục kê, Sổ đăng ruộng đất năm 1985 của phường H không tên cụ Đỗ Thị
M đứng tên trong sổ”.
Theo Đơn xin đăng cấp giấy chứng nhận QSH nhà - QSD đất ngày
18/6/1999 của cụ ĐThị M (BL 102) với nội dung: “Cụ Đỗ Thị M chồng
cụ Trương Văn H4, sinh năm: 1929 (chết) đăng xin cấp giấy chứng nhận
QSH nhà ở và QSD đất ở tọa lạc tại số A đường T, khu V, phường H, thành phố
Cần Thơ với diện tích sử dụng và diện tích xây dựng: 57,54m
2
. Nguồn gốc đất ở:
Đất gốc sử dụng trước 1975 do ông bà để lại”.
Theo Tờ tường trình nguồn gốc nhà ở - đất ở ngày 18/6/1999 của cụ Đỗ Thị
22
M (BL 100) với nội dung: “Cụ Đỗ Thị M phần đất sử dụng 7.000m
2
tọa lạc tại
số : đường T, khu V, phường H, thành phố Cần Thơ sử dụng trước năm 1975 do
ông bà để lại”.
Theo Đơn xin hợp thức hóa QSH nhà - QSD đất ngày 18/6/1999 của cụ
Đỗ Thị M khai nhận: “Cụ Đỗ Thị M chồng cụ Trương Văn H4, sinh năm:
1929 (chết). Đề nghị UBND các cấp và cơ quan chức năng cho tôi được hợp thức
hóa QSH nhà ở và QSD đất ở + vườn”.
Từ những căn cứ trên thấy rằng phần đất cụ Đỗ Thị M khai đăng được
cấp GCNQSDĐ tại thửa đất số: 8D; 25B; 10; 21A; 45; 47; 83; 104, tờ bản đồ số
66 số 67 với diện tích 5.635,0 m
2
nguồn gốc từ cha mẹ cụ Trương Văn
H4 để lại chứ không phải do cụ M tự khai phá nên tài sản này đúng ra phải được
cấp cho cụ Trương Văn H4 nhưng do cụ H4 chết (năm 1994) nên cụ M đã làm
đơn xin hợp thức hóa đối với các quyền sử dụng đất nêu trên được cấp Giấy
chứng nhận QSD đất ngày 10/4/2000 chưa đảm bảo theo quy định pháp luật.
Đồng thời, tài sản này nguồn gốc từ cha mcụ H4 nhưng Tòa án nhân dân
thành phố Cần Thơ lại cho rằng hôn nhân giữa cụ H4 cụ M đã chấm dứt năm
1966 nên không công nhận phần đất với diện tích 5.635m
2
là tài sản chung của cụ
H4 và cụ M là chưa phù hợp theo quy định pháp luật.
Ngoài ra, theo Di chúc của cụ Đỗ Thị M được Phòng C5 thành phố Cần T
công chứng ngày 25/01/2007 nội dung: “Tôi: Đỗ Thị M, có lai lịch ghi trên,
chồng ông Trương Văn H4, sinh năm 1920, chết ngày 29/12/1994 tại phường
H, thành phố Cần Thơ. Vợ chồng tôi chung quyền sử dụng đối với: Các thửa
đất LNK, tổng diện tích 5.635m
2
(Năm ngàn sáu trăm ba mươi lăm mét vuông),
số thửa 8D + 25B + 10 + 21A +45 +47 + 83 + 104, tờ bản đồ số 66 + 67, tọa lạc
tại phường H, thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ (nay phường H, quận N, thành
phố Cần Thơ). Chiếu theo: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01521.QSDĐ,
do UBND tỉnh C cấp ngày 10/04/2000”. Như vậy, chính cụ Đỗ Thị M đã thừa
nhận phần đất trên tài sản chung của cụ M cụ H4 chứ không phải của
nhân cụ M nên việc cụ M lập Di chúc ngày 29/9/2011 để lại toàn bộ tài sản nêu
trên cho ông Trương Quốc T và ông Trương Văn T3 hoàn toàn không phù hợp
theo quy định pháp luật.
Thứ tư: Căn cứ Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa cụ Đỗ Thị M
ông Trương Văn S được UBND phường H chứng thực ngày 08/7/2008 thể hiện:
23
“Ông Trương Văn S được tặng cho phần đất tại thửa: 45, tờ bản đồ: 66, diện tích:
141,0m
2
theo GCN QSDĐ số: H02912 do UBND quận N cấp lại lần 2 ngày
04/7/2008, đất tọa lạc tại số: 128 đường T, Khu V, phường H, thành phố Cần T
và ông Trương Văn S đã được cấp Giấy chứng nhận QSD đất số: H03043.QSDĐ
ngày 04/9/2008 tại thửa 178, tờ bản đồ số: 67, diện tích: 1232,22m
2
. Theo Đơn
yêu cầu ngày 05/11/2008 của cụ Đỗ Thị M gửi TAND quận Ninh Kiều nội
dung: “Tôi cho con trai tôi TRƯƠNG VĂN SANG một phần đất được sử
dụng giấy chứng nhận số AN226224 cấp ngày 04/9/2008, trên phần đất có 3 n
nhà trọ của tôi, nhà trnóc Tol, cây ván ép trên 20 năm đã mục, tôi kêu nó sửa lại
đặng ở, bởi chưa nhà, khi sửa gần xong thì Trương Văn T7 cố tình ra
ngăn cản không cho sửa chữa, diện lý do giấy tờ không rõ ràng, chữ ký giáp ranh
thay tôi ký, Trương Văn T3 không đồng ý qua biên bản phường giải quyết, nên
hòa giải không thành. Tôi xét thấy, i là mẹ đã đồng ý cho con thứ bảy Trương
Văn S một phần đất căn nhà hỏng, nhưng Trương n T7 Trương Văn
T3 lại gây khó khăn cho anh nó, xét thấy những bất đồng trong anh em. Nay tôi
yêu cầu quý cơ quan cho con tôi Trương Văn S được sử dụng phần đất và căn
nhà nói trên”.
Tuy nhiên, sau đó cụ Đỗ Thị M phát sinh tranh chấp đơn khởi kiện ông
Trương Văn S tại Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều nhưng sau đó rút đơn yêu cầu
khởi kiện nên TAND quận Ninh Kiều đã ban hành Quyết định số: 89/2013/QĐST-
DS ngày 01/8/2013 đình chỉ giải quyết vụ án dân sự giữa cụ ĐThị M ông
Trương Văn S.
Đến năm 2016, cụ Đỗ Thị M lại đơn khởi kiện ông Trương Văn S đến
Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều nhưng đến ngày 04/4/2017 thì cụ Đỗ Thị M chết
(Trích lục khai tử ngày 04/4/2017 - BL 48) nên những người thừa kế quyền, nghĩa
vụ tố tụng của nguyên đơn (cụ Đỗ Thị M) đơn rút yêu cầu khởi kiện gồm
Trương Văn S; Trương Văn T3 (BL 30); Trương Thị Đ, Trương Quốc T, Trương
Văn T7 (BL 31) TAND quận Ninh Kiều đã ban hành Quyết định số:
60/2017/QĐST-DS ngày 28/4/2017 đình chỉ giải quyết vụ án dân sự giữa cụ Đỗ
Thị M và ông Trương Văn S.
Từ căn cứ trên xác định rằng việc cụ Đỗ Thị M tặng cho ông Trương Văn S
phần đất thửa 178, tờ bản đồ số: 67, diện tích: 1.232,22m
2
từ năm 2008 và cụ M
hoàn toàn biết được sự việc tặng cho này thông qua Đơn yêu cầu ngày 05/11/2008
của cụ ĐThị M gửi TAND quận Ninh Kiều; Quyết định đình chỉ giải quyết vụ
24
án dân sự số: 89/2013/QĐST-DS ngày 01/8/2013 và khi TAND quận Ninh Kiều
ban hành Quyết định số: 60/2017/QĐST-DS ngày 28/4/2017 đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự giữa cụ Đỗ Thị M và ông Trương Văn S là đã hết thời hiệu khởi kiện
theo Điều 427 Bộ luật Dân sự năm 2005, cũng như Điều 429 Bộ luật n sự năm
2015.
Đồng thời, theo Công văn số: 441/UBND-HC ngày 19/6/2023 của Ủy ban
nhân dân phường H, quận N, thành phố Cần Thơ (BL 290) thể hiện nội dung: “Tại
thời điểm chứng thực hợp đồng, cụ M năng lực hành vi dân sự đầy đủ UBND
phường thực hiện chứng thực đúng quy định pháp luật” và Công văn số:
823/UBND-NC ngày 25/02/2022 của UBND quận N (BL 272) nội dung: Việc
UBND quận N cấp Giấy chứng nhận QSD đất số: H03043.QSDĐ cho ông Trương
Văn S ngày 04/9/2008 là đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật tại thời
điểm cấp giấy chứng nhận”.
UBND quận N quan quản Nhà nước thực hiện chức năng cấp giấy
chứng nhận QSD đất đã văn bản xác định việc cấp giấy chứng nhận QSD đất
cho ông Trương Văn S đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật nên yêu
cầu của phía nguyên đơn là không có căn cứ để chấp nhận.
Thứ năm: Theo Giấy chứng nhận Bệnh viện Tâm thần thành phố C ngày
21/9/2011 (BL 40) với chuẩn đoán: Cụ Đỗ Thị M hiện không rối loạn tâm thần
(chứng nhận này chỉ có giá trị 03 tháng kể từ ngày ký) do Bác sĩ Vương Ngọc H6
xác nhận và Bác sĩ Võ Cánh S3 - Giám đốc Bệnh viện T18.
Tuy nhiên, đến ngày 11/10/2011 (tức sau 20 ngày kể tngày cấp giấy chứng
nhận Bệnh viện Tâm thần thành phố C ngày 21/9/2011) với chuẩn đoán: “Cụ Đỗ
Thị M hiện sa sút tâm thần tuổi già (chứng nhận này chỉ có giá trị 03 tháng kể từ
ngày ký) do bác sĩ Vương Ngọc H6 xác nhận bác Nguyễn Tiến A - Giám
đốc Bệnh viện T18”.
Cùng một bệnh viện chỉ cách nhau thời hạn 20 ngày nhưng lại cho ra 02 kết
quả khác nhau đối với cụ Đỗ Thị M là hoàn toàn có dấu hiệu không khách quan.
Một người đang minh mẫn, sáng suốt (có giấy chứng nhận giá trị 03 tháng kế từ
ngày ký) nhưng chỉ vỏn vẹn 20 ngày sau lại bị sa sút tâm thần tuổi già thì rõ ràng
có căn cứ để khẳng định rằng Giấy chứng nhận Bệnh viện Tâm thần thành phố C
ngày 21/9/2011 (BL 40) của Bệnh viện Tâm thần thành phố C là chưa chính xác,
dấu hiệu hợp thức hóa hồ Di chúc năm 2011 nên Di chúc này hiệu theo
25
quy định pháp luật.
Ông T7 thừa nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp cho ông
S, không tranh chấp. Di chúc năm 2011 thể hiện nguyên đơn được thừa kế luôn
phần diện tích đất của ông S. Nguyên đơn yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất của ông S chưa đảm bảo quyền của ông S. Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cấp cho ông S chưa bị thu hồi. Đất ông S cấp năm 2008, di chúc lập
năm 2011. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 308 sửa bản án
thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu kháng cáo của phía bị đơn bác yêu cầu
khởi kiện của phía nguyên đơn.
Trương Thị Kiều T4 đại diện cho ông Trương Văn S trình bày: Thống
nhất ý kiến của Luật sư K.
Ông Trương Văn T3 trình bày: Phần diện tích đất của ông S đã bị cụ M khởi
kiện ra Tòa khi cụ còn sống. Việc đo đạc không đúng thực tế. Hợp đồng tặng cho
1.400m
2
, ra giấy 1.200m
2
, giả mạo chữ giáp ranh. UBND đã văn bản yêu
cầu thu hồi giấy đã cấp. Ông S cũng thừa nhận cắt vi tính, không đo đạc thực tế.
Ông Nguyễn Minh T1 đại diện cho ông Trương Quốc T trình bày: Việc đăng
ký quyền sử dụng đất luật sư đưa ra, người sống đăng ký, cơ quan Nhà nước ghi
công nhận. Di chúc ngày 29/9/2011 ghi rõ: “….Tôi chồng cụ Trương Văn
H4, sinh năm 1920, chết ngày 29/12/1994 tại phường H, thành phố Cần T. Sau
khi tôi qua đời, thì toàn bquyền sử dụng đất của tôi nói trên được giao lại cho
hai người con của tôi lai lịch sau đây…” Quyền sử dụng đất tài sản thuộc về
nhân của cụ M. Nguyên đơn cho rằng tài sản riêng của cụ M sở. Cụ
H4 bỏ đi từ năm 1966, bị đơn cũng trình bày đi từ năm 1966 đến năm 1985 không
thông tin. Năm 2000, UBND cấp giấy lần đầu, không cấp cho hộ cấp cho
nhân cụ M. Cụ M cho riêng hai ông T phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử
xem xét đánh giá chứng cứ khách quan, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ông Trần Lâm S1 đại diện cho ông Trương Văn T7 trình bày: Ginguyên ý
kiến đã trình bày. Di chúc cụ M để lại cho nguyên đơn không phù hợp. Ông Quốc
T không biết Di chúc năm 2011, tranh chấp mới biết. Ông Văn T3 biết Di chúc
năm 2011. Di chúc năm 2011 mâu thuẫn, vi phạm. Cụ M không biết đọc, không
biết chữ, phải người làm chứng nhưng người làm chứng em vợ ông T3.
Người làm chứng phải người không liên quan đến tài sản. Di chúc cho tài
sản cho 02 nguyên đơn vi phạm quy định. Di chúc lập ngày 25/11/2007, cụ M
26
ghi rõ: Phần di sản của i và phần được hưởng của chồng…” Di chúc năm 2011
thì “… Sau khi tôi qua đời, thì toàn bộ quyền sử dụng đất của tôi nói trên được
giao lại cho hai người con của tôi lai lịch sau đây…”. Nguồn gốc đất tài sản
không phải của cụ M, di sản của cha mẹ cụ H4. Di chúc năm 2011 thể hiện nội
dung tài sản của cụ M cho hai ông T3, điều này làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
ông T7 những người đồng thừa kế. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu
cầu kháng cáo của ông T7. Việc cấp giấy chứng nhận có thiếu sót của cơ quan
thẩm quyền, huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm để giải quyết lại để làm rõ các khuất tất.
Hình ảnh đám ma của cụ H4 mất tại nhà, cụ không đi đâu nên không căn cứ cụ
H4 có người đàn bà khác hay bỏ nhà đi.
Luật sư Nguyễn Huy K bảo vệ cho bđơn ông Trương Văn S trình bày: Trình
tự cấp giấy cho ông S đúng quy định. Di chúc năm 2011 để lại cho hai ông T3
không đúng quy định. Năm 2008, đất của ông S được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Cụ M khởi kiện sau đó đã rút đơn. Nguyên đơn không có quyền khởi
kiện.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc
tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự tham gia tố tụng chấp hành
đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Nội dung: Cụ M chết năm 2017, cụ H4 chết năm 1994. Hai người chung
sống có 07 con chung, bao gồm: Ông Trương Quốc T, ông Trương Văn T3, ông
Trương n S, Trương Thị Đ, ông Trương Văn T7, ông Đỗ Văn T10 (ông T10
đã chết, có 03 người con là Đỗ Thị Minh P1, Đỗ Minh T11, Đỗ Thị Minh H1) và
Trương Thị L1 đã chết khoảng năm 1986 (không con). Trước khi chung
sống với cụ M, cụ H4 có 01 người con riêng là bà Trương Thị S2 (bà S2 đã chết,
có 02 người con là bà Phạm Thị Thu H2, ông Trương Văn Đ2). Còn cụ M thì
02 người con riêng là Trương Thị Đ1 Chim Thị (bà đã chết, có 05
người con là bà Nguyễn Thị Xuân H, bà Nguyễn Thị Xuân L, ông Nguyễn Xuân
T9, bà Nguyễn Thị Xuân T8, bà Nguyễn Thị Xuân D).
Phần đất tranh chấp thuộc thửa 8D, 25B, 10, 21A, 45, 47, 83, 104 diện tích
5.635m
2
thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01521 UBND thành phố C
cấp ngày 10 tháng 4 năm 2000 cho cụ Đỗ Thị M. Sau đó, cụ M bị thất lạc Giấy
27
chứng nhận này và được cấp lại Giấy chứng nhận số AI546786 UBND thành phố
C cấp ngày 04/7/2008( 5.299 m
2
).
Ngày 25/01/2007, cụ M lập di chúc để lại phần diện tích đất 5.635m
2
thuộc
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01521 cho con Trương Văn T7. Di chúc
công chứng tại Phòng C5. Giấy y chứng 1518 (12/12/2006) của Bệnh viện T xác
định cụ M minh mẫn, sáng suốt.
Ngày 29/9/2011, cụ M lập di chúc thứ 2 cho diện tích 5.299m
2
Giấy chứng
nhận sAI 546786 cho hai con là Trương Quốc T (quốc tịch Mỹ) và Trương Văn
T3. Di chúc được công chng tại Phòng C4. Giấy chứng nhận tâm thần 1455
(21/9/2011) của Bệnh viện T xác định cụ M minh mẫn, sáng suốt.
Căn cứ Tờ tường trình nguồn gốc nhà ở, đất ngày 18/6/1999, cụ M khai
nguồn gốc đất sử dụng trước năm 1975 do ông bà để lại.
Căn cứ Biên lai thu thuế sử dụng đất ngày 20/4/1999 có ghi người nộp là cụ
Trương Văn H4.
Căn cứ Đơn xin đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở đất
ngày 18/6/1999 thể hiện là nguồn gốc đất sử dụng trước năm 1975, do ông bà để
lại.
Căn cứ Văn bản số 17 (27/01/2022) thể hiện “Trung tâm lưu giữ sổ mục kê,
sổ đăng ruộng đất năm 1985 của phường H không tên cụ M đứng tên trên
sổ”.
Như vậy, nguồn gốc đất tranh chấp do ông để lại, không phải do cụ M
khai phá. Cụ H4 có đi nộp thuế. Cụ H4 và cM hôn nhân thực tế, có 07 người
con chung. Quá trình giải quyết vụ án, các con cụ H4 khai cụ H4 không có bỏ đi
khỏi địa phương mà vẫn cùng địa phương, nhưng không chung nhà với cụ M.
Đám tang của cH4 do cụ M tổ chức. Do đó, phần đất tranh chấp tài sản chung
của cụ H4 cụ M. Cụ M chỉ được quyền định đoạt ½ tài sản chung của vchồng
nhưng cụ M làm di chúc cho toàn bộ di sản xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của các đồng thừa kế khác của cụ H4. vậy, cần phải huỷ một phần một
trong hai di chúc ngày 25/01/2007 29/9/2011 liên quan đến di sản của cụ
H4.
Cụ M lập hai di chúc: Di chúc ngày 25/1/2007 cho ông T7. Di chúc ngày
29/9/2011 thì lại cho ông Trương Quốc T Trương Văn T3. Quá trình giải quyết
28
vụ án, ông Trương Văn T3 khai có biết di chúc ngày 25/01/2007 cho ông T7.
Lẽ ra, khi công chứng di chúc mà trước đó có tồn tại di chúc khác cùng nội dung
thì đương sự và Phòng Công chứng phải huỷ di chúc cũ, để đảm bảo di chúc mới
hiệu lực. Ông Trương Văn T3 không yêu cầu huỷ Di chúc trước chứng tỏ
ông Trương n T3 có hành vi gian dối khi lập di chúc. Mặt khác tại đơn yêu cầu
ngày 05/11/2008, cụ M có khai: Ông Trương Văn T3 lại gây khó khăn cho anh
nó... nói Văn Thắng không nghe” bởi lý do “tôi còn ba con nữa sau này sẽ bị thiệt
thòi”. Ông Trương Quốc T người sinh sống ở Mỹ rất lâu thì được lập di chúc,
còn những người con của cụ M Việt Nam lại không được hưởng di sản do ba
mẹ để lại. Việc tồn tại hai di chúc còn hiệu lực, dấu hiệu gian dối khi lập di
chúc nên cần thiết phải huỷ 02 di chúc để các đương sự tự thoả thuận phân chia
di sản nhất là với di sản cụ H4 để lại.
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của các đương sự,
huỷ toàn bbản án sơ thẩm, giao hồ để Tòa án cấp thẩm giải quyết lại đúng
quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Tòa án cấp thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ
giải quyết ván đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
Các đương sự đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nên Hội đồng xét
xử tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của ông Trương Văn S, ông Trương Văn T7 Nguyễn
Thị Xuân T8, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế:
Các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu được nhận di sản là bất động sản theo di
chúc do cụ Đỗ Thị M lập. Còn bị đơn ông Trương Văn S yêu cầu phản tố
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Văn T7 yêu cầu độc lập
đều cho rằng tài sản quyền sử dụng đất do cụ M chỉ định người thừa hưởng
trong di chúc không phải tài sản riêng của nhân cụ M thuộc quyền sở hữu
chung của vợ chồng cM cụ Trương Văn H4. Cụ H4 mất ngày 29/12/1994, cụ
M mất ngày 04/4/2017, thời điểm các đương sự khởi kiện tranh chấp thừa kế, yêu
cầu phân chia di sản là từ tháng 5/2017 (sau thời điểm cụ M mất) là không quá 30
29
năm kể từ thời điểm mở thừa kế đối với cụ H4 và cụ M nên còn thời hiệu thừa kế
theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[2.2] Về xác định hàng thừa kế:
Theo các tài liệu, chứng cứ thu thập trong hồ vụ án, lời trình bày của
các đương sự, có cơ sở xác định:
Cụ Trương Văn H4 chung sống với cụ Đỗ Thị Mcó 07 người con chung
gồm: Ông Trương Quốc T, ông Trương Văn T3, ông Trương Văn S, Trương
Thị Đ, ông Trương Văn T7, ông Đỗ Văn T10 (ông T10 đã chết, có 03 người con
Đỗ Thị Minh P1, ĐMinh T11, ĐThị Minh H1) và Trương Thị L1 đã chết
khoảng năm 1986 (không có con).
Trước khi chung sống với cụ M, cụ H4 có 01 người con riêng là bà Trương
Thị S2 (bà S2 đã chết, có 02 người con là bà Phạm Thị Thu H2, ông Trương Văn
Đ2). Còn cụ M thì có 02 người con riêng là bà Trương Thị Đ1 và bà Chim Thị Ấ
(bà đã chết, có 05 người con Nguyễn Thị Xuân H, Nguyễn Thị Xuân
L, ông Nguyễn Xuân T9, bà Nguyễn Thị Xuân T8, bà Nguyễn Thị Xuân D).
vậy, hàng thừa kế thứ nhất của cụ M được xác định gồm: 06 người con
chung của cụ H4 cụ M như nêu trên (trừ L1 đã mất vào khoảng năm 1986
nhưng không người thừa kế thế vị) 02 người con riêng của cụ M
Trương Thị Đ1Chim Thị (đã chết, có các thừa kế thế vị). Còn hàng thừa
kế thứ nhất của cụ H4 gồm 06 người con chung của cụ H4 cụ M (trừ L1) và
người con riêng của cụ H4 là bà Trương Thị S2 (đã chết, có các người thừa kế thế
vị).
[2.3] Về xác định tài sản là di sản thừa kế:
Theo hồ địa chính được trích lục, năm 1999, cụ Đỗ Thị M lập hồ xin
được hợp thức hóa quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất. Sau đó, cụ M được
Ủy ban nhân dân tỉnh C (cũ) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01521,
ngày 10 tháng 11 năm 2000, diện tích 5.635m
2
, loại LNK (gồm các thửa: 8D, 25B,
10, 21A, 45, 47, 83, 104), tờ bản đồ số 66, 67, tọa lạc tại phường H, thành phố
Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ (cũ), nay là phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
Do nhận thức, Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá chng cứ chưa toàn diện, cụ
thể Toà án cấp thẩm cho rằng: Bị đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là ông Trương Văn T7 cho rằng, diện tích đất do cụ M được cấp nêu trên
30
nguồn gốc do cha mẹ của cụ Trương Văn H4 (chồng cụ M) để lại nhưng không
có giấy tờ gì về đất đai. Khi cH4 không còn chung sống với cM từ năm 1966,
cụ M người trực tiếp quản lý sử dụng đất nên việc cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ M đứng tên vào năm 2000
cấp lần đầu cho người trực tiếp quản sử dụng đất ổn định, liên tục, lâu dài,
phù hợp với quy định của Luật Đất đai năm 1993. Cụ H4 cũng không có giấy tờ
gì về đất đai và tại thời điểm cụ M được cấp giấy đất vào năm 2000 thì cụ H4 đã
mất trước đó vào năm 1994, giữa hai cụ cũng đã tự chấm dứt quan hệ hôn nhân
vào năm 1966 nên Toà án cấp thẩm chưa đủ căn cứ xác định diện tích đất
5.635m
2
tài sản chung của cụ H4, cụ M đất này là tài sản riêng của cụ M
theo quy định pháp luật về đất đai.
Thực tế, theo các tài liệu trong hồ đóng dấu bút lục, Biên bn thu
thuế ruộng đt ngày 10/4/1999 đương sự xuất trình, quan Nhà nước vn ghi
tên c H4. Theo Trích lục địa chính về nộp thuế tại thửa đất tại địa chỉ số A T, thì
năm 1999 về trước cụ H4, tới tháng 12/1999 mới để tên cụ M. Biên lai số
N0005036 người nộp thuế là cụ Trương Văn H4 (đã chết). Thời điểmkhai xin
cấp giấy chứng nhận, cụ H4 đã chết, các đương sự trong gia đình chưa văn bản
thoả thuận phân chia. Di chúc cụ M quyết định luôn phần di sản của cụ H4 không
phải di chúc hợp pháp toàn bộ. Tranh chấp liên quan đến quyền lợi của vợ
của ông T7 không được mời tham gia tố tụng.
Công văn s 17 ca Trung tâm Công ngh thông tin thuc S T ngày
27/01/2022 cũng thể hin ni dung rng sau khi soát h sơ, sổ mục kê… thì
không th hin tên c M trong sổ; đơn đăng cấp GCNQSDĐ ngày 16/8/1999
thì c M cũng khai căn nhà diện tích 57,54m
2
ngun gc t ông đ li; t
ng trình ti bút lục 100 cũng khai nguồn gốc đất là ông bà để lại…
(BL 181) Di chúc ngày 25/01/2007 các bên đương sự tha nhn thì trong Di
chúc này, c M đã nêu rõ: “Tôi: Đỗ Thị M, lai lịch ghi trên, chồng ông
Trương Văn H4, sinh năm 1920, chết ngày 29/12/1994 tại phường H, thành phố
Cần Thơ.
Vợ chồng tôi chung quyền sử dụng đối với: các thửa đất LNK, tổng
diện tích 5.635m
2
(Năm ngàn sáu trăm ba mươi lăm mét vuông), số thửa 8D+25B
+ 10 + 21A + 45 + 47 + 83 + 104, tờ bản đồ số 66 + 67, tọa lạc tại phường H,
thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ (nay phường H, quận N, thành phố Cần Thơ).
31
Chiếu theo: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01521.QSDĐ, do UBND tỉnh
C cấp ngày 10/04/2000.
Tôi người con ruột tên Trương Văn T7, nam, sinh năm 1966, hiện thường
trú tại nhà số A, đường T, phường H, quận N, thành phố Cần T.
Nay, tôi lập di chúc này để quyết định rằng: Sau khi tôi qua đời thì toàn bộ
phần quyền sử dụng đất của tôi (kể cả k phần thụ hưởng của tôi đối với di sản
của chồng tôi chết để lại) đối với các thửa đất LNK, tổng diện tích 5.635m
2
(Năm ngàn sáu trăm ba mươi m mét vuông), số thửa 8D + 25B + 10 + 21A + 45
+ 47 + 83 + 104, tờ bản đồ số 66 + 67, tọa lạc tại phường H, lai lịch ghi trên
thừa hưởng và được quyền lập thủ tục đăng ký quyền sử dụng theo quy định của
pháp luật.
Tôi lập di chúc này trong tình trạng tâm thần kinh hoàn toàn minh mẫn, tinh
thần sáng suốt (có Giấy y chứng số 1518/CN/BVTT ngày 12/12/2006 của Bệnh
viện Tâm thần thành phố C) và lập một cách tự nguyện, không bị ai lừa dối, đe
dọa hay ép buộc.
Di chúc này tôi nói cho ông Trần Văn M2 - Công chứng viên Phòng C5 thành
phố Cần Thơ nghe ghi lại. Tôi đã nghe 02 (hai) nhân chứng đọc lại nguyên n
di chúc đồng ý giữ nguyên nội dung di chúc này vì đã thể hiện đầy đủ
chính xác ý nguyện của tôi.
Di chúc này giá trị thay thế di chúc do tôi lập ngày 02/03/2006, được ng
chứng viên Phòng C5 thành phố Cần Thơ chứng nhận số 12, ngày 02/03/2006 và
được lập thành 02 (hai) bản như nhau, tôi giữ 01 (một) bản, còn 01 (một) bản
được lưu giữ tại Phòng C5 thành phố Cần Thơ”.
(BL 41-42) Di chúc ngày 29/9/2011 cụ M lần nữa khẳng định: “Trong tình
trạng tâm thần kinh hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt, Giấy chứng nhận số
1454/2011/CN-BVTT ngày 21/9/2011 của Bệnh viện Tâm thần thành phố C.
Không bị ai ép buộc, lừa dối, tôi lập tờ Di chúc này để quyết định rằng:
Quyền sử dụng đất của các thửa đất s8D + 25B + 10 + 21A + 45, tờ bản đồ
số 66 + 67, diện tích 5.299,57 m
2
(Năm ngàn hai trăm chín mươi chín phẩy năm
mươi bảy mét vuông), mục đích sử dụng: Trồng cây lâu năm. Đất tọa lạc tại đường
T, phường H, quận N. Chiếu theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: AL
546786, số vào sổ: H02912.QSDĐ, do UBND quận N, thành phố Cần Thơ cấp
ngày 04/7/2008.
32
Tôi chồng cụ Trương Văn H4, sinh năm 1920, chết ngày 29/12/1994
tại phường H, thành phố Cần Thơ.
Sau khi tôi qua đời, thì toàn bộ quyền sử dụng đất của tôi nói trên được giao
lại cho hai người con của tôi có lai lịch sau đây:
1/ Trương Quốc T (Truong Thang Q1) sinh năm 1959
Địa chỉ: A- US-HWY 19 S-GA C -USA.
2/ Trương Văn T3, sinh năm 1961.
CMND số: 360076355, do Công an T19 cấp ngày 02/04/2009.
Địa chỉ: A T, P. H, Q. N, TP ..
Hai người con của tôi được thừa hưởng phần bằng nhau quyền sử dụng đất
của tôi nói trên, không ai được tranh cản…
Như vậy, trong hai Di chúc nói trên, cụ M đều khẳng định chồng
Trương Văn H4. Di chúc ngày 25/01/2007 cụ M khẳng định quyền sử dụng đối
với: các thửa đất LNK, tổng diện tích 5.635m
2
(Năm ngàn sáu trăm ba mươi
lăm mét vuông), số thửa 8D+25B + 10 + 21A + 45 + 47 + 83 + 104, tờ bản đồ số
66 + 67, tọa lạc tại phường H, thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ (nayphường
H, quận N, thành phố Cần Thơ). Chiếu theo: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số 01521.QSDĐ do UBND tỉnh C cấp ngày 10/04/2000 là của chung vợ chồng.
Do đó, tài sn tranh chp không phi do c M khai phá mà là tài sn chung
ca c M c H4. C M kê khai và được cấp GCNQSDĐ. Cha mcủa cụ H4,
cụ M đều đã chết trước hai cụ. Cụ H4 cụ M chung sống với nhau không đăng
kết hôn 07 con chung. Việc cụ H4 nhiều người xác nhận ông
địa phương, không hề đi xa, đi đi về về liên tục, ngay khi cụ H4 mất thì cụ M
người tổ chức mai táng cho cụ H4 phần đất phía sau. Do Toà án cấp sơ thẩm
xác định không chính xác Di sản thừa kế để lại tài sản chung hay riêng, từ đó
chia thừa kế không đúng.
Di sản của cụ H4 yêu cầu chia theo pháp luật không thể tính theo lược đồ mà
Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định được, tại cấp phúc thẩm không thể bổ sung được
nên cần phải huỷ bản án thẩm, giao hồ lại cho Tòa án cấp thẩm xét xử
lại theo quy định pháp luật.
[3] Từ những phân tích trên, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận một phần
33
kháng cáo của ông Trương Văn S, ông Trương Văn T7 Nguyễn Thị Xuân
T8, huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ lại cho Tòa án cấp sơ thẩm xử lại theo
quy định pháp luật.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh tham gia phiên tòa đề nghị phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên
được chấp nhận.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do huỷ án nên các đương sự không phải
chịu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/NQ-ƯBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Tơng Văn S, ông Trương Văn T7
và bà Nguyễn Thị Xuân T8.
Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2023/DS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án
nhân dân thành phố Cần Thơ:
Giao hồ cho Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết lại theo thủ
tục sơ thẩm.
Án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự không phải chịu.
Hoàn tạm nộp án phí 300.000 đồng cho Nguyễn Thị Xuân T8 theo Biên
lai thu số 0000195 ngày 23/01/2024 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Cần
Thơ.
Hoàn tạm nộp án phí 300.000 đồng cho ông Trương Văn T7 theo Biên lai
thu số 0001927 ngày 04/10/2023 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Cần Thơ.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND thành phố Cần Thơ;
- VKSND thành phố Cần Thơ;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký tên và đóng du)
34
- Cục THADS thành phố Cần Thơ;
- Đương sự;
- Lưu HSVA (NTCL)(40).
Đinh Ngọc Thu Hương
Tải về
Bản án số 17/2025/DS-PT Bản án số 17/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 17/2025/DS-PT Bản án số 17/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất