Bản án số 260/2025/DS-PT ngày 27/05/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 260/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 260/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 260/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 260/2025/DS-PT ngày 27/05/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 260/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Vũ Thị D. Giữ nguyên quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số 260/2025/DS-PT
Ngày: 27/5/2025
V/v “Tranh chấp về quyền sử dụng
đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Việt Hà;
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Ngọc Hoa;
Ông Ong Thân Thắng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Đặng Thùy Trang, Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên
tòa: Ông Bùi Minh Nghĩa, Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 27 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 124/2025/TLPT-DS ngày 03
tháng 3 năm 2025 về việc “Tranh chấp về quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Do có kháng cáo của nguyên đơn đối với
Bản án dân sự sơ thẩm số 129/2024/DS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Hải Phòng.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 5193/2025/QĐPT-DS
ngày 12 tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Vũ Thị D, sinh năm 1966; địa chỉ: Số nhà A, tổ dân
phố C, phường N, quận Đ, thành phố Hải Phòng; có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Trung D1, sinh năm 1967;
đăng ký thường trú tại: Tổ dân phố H, phường H, quận Đ, thành phố Hải Phòng;
có mặt.
* Bị đơn: Ông Lương Trác K và bà Hoàng Thị T; địa chỉ: Số nhà D, tổ
dân phố C, phường N, quận Đ, thành phố Hải Phòng; đều vắng mặt.
2
Người đại diện theo ủy quyền của ông Lương Trác K: Ông Bùi Công T1,
sinh năm 1987; đăng ký thường trú tại: S2.02 V, phường T, quận N, thành phố
Hà Nội; có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ủy ban nhân dân quận Đ, thành phố Hải Phòng; trụ sở: Số A, L, phường
N, quận Đ, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
- Bà Đinh Thị P, sinh năm 1959; địa chỉ: Tổ A, Cầu T, phường N, quận Đ,
thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
- Ông Đinh Xuân C, sinh năm 1954 và bà Hoàng Thị T2, sinh năm 1955;
địa chỉ: Xóm T, phường N, quận Đ, thành phố Hải Phòng; đều vắng mặt.
- Bà Nguyễn Thị H; địa chỉ: Tổ dân phố B, phường H, quận Đ, thành phố
Hải Phòng; vắng mặt.
- Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1956 và chị Lương Thị B1, sinh năm 1989;
địa chỉ: Khu tái định cư P, tổ A, phường V, quận Đ, thành phố Hải Phòng; đều
vắng mặt.
- Chị Lương Thị Ngọc T3, sinh năm 1991; địa chỉ: Phường H, quận Đ,
thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án và tại
phiên toà, nguyên đơn bà Vũ Thị D trình bày: Bà D là chủ sử dụng diện
tích đất thuộc thửa số 27, tờ bản đồ số 29; địa chỉ: Số A, đường N, phường N,
quận Đ, thành phố Hải Phòng, diện tích 73,9m
2
và tài sản trên đất xây dựng
67,2m
2
, loại nhà bê tông, đã được UBND quận Đ cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất (sau đây viết tắt là GCNQSDĐ) vào ngày 31/3/2008.
Quá trình sử dụng đất, hộ ông Lương Trác K và vợ là bà Hoàng Thị T sau
khi mua lại đất của bà Nguyễn Thị H theo GCNQSDĐ mang tên ông Đinh Xuân
C và bà Hoàng Thị T2 (bà Nguyễn Thị H mua lại của bà Đinh Thị P) đã được
ghi chú vào nội dung thay đổi tại GCNQSDĐ tại thửa số 14, tờ bản đồ số 62; địa
chỉ: Tổ dân phố C, N, Đ, Hải Phòng, đã lấn sang phần diện tích gia đình bà D có
chiều dài 0.9m x chiều rộng 4m = 3,6m
2
và chồng lấn lên cả phần diện tích đất
bà đã mua của bà Nguyễn Thị B vào năm 1999 với diện tích chiều dài 3,2m x
chiều rộng 4,3m = 13,7m
2
. Tổng diện tích gia đình ông Lương Trác K và bà
Hoàng Thị T đã lấn chiếm, chồng lấn sang diện tích gia đình bà là 17,3m
2
.
Nguyên nhân dẫn đến việc chồng lấn nêu trên là do Uỷ ban nhân dân (sau
đây viết tắt là UBND) thị xã Đ khi cấp GCNQSDĐ cho bà Đinh Thị P vào ngày
15/8/2005 thuộc thửa đất số 50a tờ bản đồ số 29-NX tại tổ dân phố C, phường
3
N, Đ, Hải Phòng diện tích 104.3m
2
đã chồng lấn sang diện tích gia đình bà D
mua của ông Lưu Đình H1. Năm 2007 bà D đã có đơn đề nghị UBND phường N
nhập phần diện tích gia đình bà đã được cấp GCNQSDĐ với phần diện tích mua
thêm của bà Nguyễn Thị B để vay vốn ngân hàng nhưng cán bộ địa chính trả lời
sẽ thông báo sau, bà D đã nhiều lần đề nghị UBND phường N giải quyết tranh
chấp giữa bà với bà P, bà H, ông K và bà T nhưng không có kết quả. Vì vậy bà
D có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Hủy GCNQSDĐ mang tên ông Đinh Xuân C và bà Hoàng Thị Tuyết S
vào sổ CH01148 do UBND quận Đ cấp ngày 29/9/2017, đã được đăng ký biến
động sang tên ông Lương Trác K và bà Hoàng Thị T vào ngày 27/7/2022.
2. Buộc ông Lương Trác K và bà Hoàng Thị T phải trả lại cho gia đình bà
D diện tích đất đã chồng lấn, lấn chiếm là 17,3m
2
với trị giá cụ thể là: Đối với
phần đất 3,6m
2
x 40.000.000 đồng/m
2
= 144.000.000 đồng và đối với phần đất
13,7m
2
x 12.000.000 đồng/m
2
= 164.000.000 đồng. Tổng cộng số tiền là
308.400.000 đồng.
Tại các bản tự khai trong quá trình giải quyết và tại phiên toà, Bị đơn
(ông Lương Trác K và bà Hoàng Thị T) và người đại diện theo uỷ quyền
(ông Bùi Công T1) trình bày ý kiến: Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị
D đề nghị gia đình ông K và bà T phải trả lại phần diện tích đất có chiều dài
3,2m x 4,3m và 0,3m x 4m (lưu không của gia đình bà D) hiện đang có tranh
chấp. Ông bà có quan điểm là không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Vũ
Thị D bởi các căn cứ sau: Về nguồn gốc diện tích đất vợ chồng ông bà mua của
bà Nguyễn Thị H và đã được ghi chú trong GCNQSDĐ số CH 891895 mang tên
Đinh Xuân C và Hoàng Thị Tuyết . Do đó ông bà căn cứ vào việc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà D và diện
tích gia đình ông bà đã được ghi chú trong giấy chứng nhận và hiện trạng sử
dụng đất của hai bên từ trước đến nay để xác định: Việc bà D cho rằng cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đã cấp GCNQSDĐ cho ông bà chồng lấn sang đất nhà
bà D với diện tích là 17,3m
2
và bà D khởi kiện yêu cầu ông bà phải trả lại diện
tích đất trên là không có căn cứ. Đối với việc bà D trình bày có việc mua bán với
chị B, anh K2 (anh ruột của ông K) thì ông bà đề nghị Tòa án xác minh, thu thập
tài liệu chứng cứ liên quan đến vấn đề này để chứng minh yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn là không có căn cứ và giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Tại văn bản số 1539/UBND-TN&MT ngày 12/6/2024, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan là UBND quận Đ trình bày quan điểm đối với nội
dung khởi kiện của bà Vũ Thị D yêu cầu huỷ GCNQSDĐ như sau:
1. Nguồn gốc, diễn biến quá trình sử dụng đất thửa đất 14, tờ bản đồ số
62, diện tích 104,3m
2
tại tổ dân phố C, phường N, quận Đ: Thửa đất số 14, tờ
4
bản đồ số 62 (bản đồ năm 2013), diện tích 104,3m
2
(theo bản đồ năm 1990 là
thửa đất số 50a, tờ bản đồ số 29-NX) có nguồn gốc là đất ở của ông Lương Trác
C1 và bà Nguyễn Thị N sử dụng từ trước năm 1980. Năm 1994, ông C1 và bà N
để lại quyền sử dụng đất cho vợ chồng con trai là Lương Trác K1 và vợ là Đinh
Thị P sử dụng.
2. Việc cấp GCNQSDĐ và đăng ký biến động đất đai sau khi chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 14, tờ bản đồ số 62:
a) Việc cấp GCNQSDĐ thửa đất số 14, tờ bản đồ số 62 cho bà Đinh Thị
P: Ngày 20/5/2003, bà Đinh Thị P đăng ký lập hồ sơ đất đai và được UBND
phường N phối hợp với Phòng Địa chính thị xã Đ lập hồ sơ sử dụng đất đai tại
thửa đất số 50a, tờ bản đồ số 29-NX, diện tích 104,3m
2
; giáp ranh với các chủ
liền kề: Phía Bắc tiếp giáp với đất ở của ông Lê Văn L có khoảng cách chiều dài
1,6m và đất ở của bà Vũ Thị D với khoảng cách chiều dài 4,0m; Phía Đông tiếp
giáp với đất ở của bà Lương Thị V có khoảng cách chiều dài 19,0m; Phía Nam
tiếp giáp với ngõ bê tông có khoảng cách chiều dài 5,7m; Phía Tây tiếp giáp với
bà Lương Thị N1 có khoảng cách chiều dài 17,8m.
Việc xác định ranh giới, mốc giới được các chủ sử dụng đất liền kề ký xác
nhận. Ngày 15/8/2005 bà P được UBND thị xã Đ cấp GCNQSDĐ số
AB145524, số vào sổ cấp GCNQSDĐ số: H00259, tại thửa đất thửa số 50a, tờ
bản đồ số 29-NX, diện tích 104,3m2. Việc cấp GCNQSDĐ thửa đất số 14, tờ
bản đồ số 62 cho bà P được UBND thị xã Đ thực hiện theo đúng quy định tại
Điều 50 Luật Đất đai năm 2003.
b) Việc đăng ký biến động đất đai:
b.1 Việc đăng ký biến động đất đai cho ông Đinh Xuân C và bà Hoàng
Thị T:
Ngày 26/3/2007 bà Đinh Thị P chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
ông Đinh Xuân C và bà Hoàng Thị T2 theo Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất
ở được UBND phường N chứng thực số 09/CT-UBND. Ngày 11/7/2017 Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận Đ tiếp nhận hồ sơ đăng ký biến động đất
đai của ông C và bà T2. Ngày 29/9/2017 UBND quận Đ cấp GCNQSDĐ, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CH 891895, số vào sổ cấp
GCN: CH 01148, cho ông C và bà T2.
b.2 Việc đăng ký biến động đất đai cho bà Nguyễn Thị H: Ngày
12/8/2021 Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận Đ xác nhận biến động về
chủ sử dụng đất tại trang 3 GCNQSDĐ số CH 891895, số vào số cấp GCN: CH
01148, cấp ngày 29/9/2017 cho bà H.
b.3 Việc đăng ký biến động đất đai cho ông Lương Trác K và bà Hoàng
5
Thị T:
Ngày 28/6/2022 Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận Đ tiếp nhận
hồ sơ đăng ký biến động đất đai của ông Lương Trác K và bà Hoàng Thị T sau
khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà Nguyễn Thị H tại thửa đất số
14, tờ bản đồ số 62 theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Văn
phòng C3 chứng nhận vào ngày 11/5/2022.
Ngày 27/7/2022 Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận Đ xác nhận
biến động về chủ sử dụng đất tại trang 4 GCNQSDĐ số CH 891895, số vào sổ
cấp GCN: CH 01148, cấp ngày 29/9/2017 đối với ông K và bà T.
b.4 Việc cấp GCNQSDĐ sau khi bà Đinh Thị P chuyển nhượng cho ông
Đinh Xuân C và bà Hoàng Thị T2 và việc xác nhận trang 4 khi đăng ký biến
động đất đai sau khi ông Đinh Xuân C và bà Hoàng Thị T2 chuyển nhượng cho
bà Nguyễn Thị H; bà Nguyễn Thị H chuyển nhượng cho ông Lương Trác K và
bà Hoàng Thị T được thực hiện theo đúng quy định tại khoản 4 Điều 95, Điều
188 Luật Đất đai năm 2013; điểm a, điểm k khoản 1 Điều 17 Thông tư số
23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ T5 quy định về GCNQSDĐ,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Tại bản tự khai ngày 09/8/2024 và tại phiên toà, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị B trình bày: Tôi là vợ của ông Lương
Trác K2 (con trai cụ Nguyễn Trác C2 và Nguyễn Thị N). Cụ C2 và cụ N có thửa
đất diện tích 104,3m
2
tại địa chỉ hiện nay là tổ dân phố C, phường N, quận Đ mà
anh Lương Trác K và vợ là chị Hoàng Thị T đang sử dụng. Trước đây vợ chồng
tôi có ở nhờ cùng với bố mẹ chồng (cụ C2 và cụ N) một thời gian rồi sau đó khi
anh K2 mất thì tôi về nhà bố mẹ đẻ ở. Vợ chồng tôi chỉ ở nhờ trên đất cùng bố
mẹ chồng chứ không có bất cứ một quyền gì cả. Do vậy, có việc mua bán đất
của bố mẹ chồng và chồng tôi là ông Lương Trác K2 với bà D hay không và cụ
thể như thế nào thì tôi hoàn toàn không biết. Tôi không mua bán đất gì với bà
Vũ Thị D. Còn giấy mua bán đất lập năm 1999 mà bà D nộp cho Toà án là do
tôi bị bà D lừa viết vào năm 2017, do khi đó bà D tới gặp và nói tôi giúp viết
giấy đó để bà D hoàn thiện thủ tục cấp bìa đỏ cho đất của bà D đang sử dụng.
Bản thân tôi vào khoảng năm 1999 không hề đứng tên bất cứ một thửa đất nào
tại địa phương nên không thể có việc tôi bán đất cho bà D được. Do vậy tôi
(Bưởi) đề nghị Toà án xét xử không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của bà D.
Tại phiên toà, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Đinh Thị P
trình bày: Bố mẹ chồng tôi là ông Lương Trác C1 và bà Nguyễn Thị N có sử
dụng diện tích đất 104,3m
2
, thửa đất số 50a, tờ bản đồ số 29-NX, từ trước năm
1980 (Sau này đến khi lập bản đồ năm 2013 là thửa đất số 14, tờ bản đồ số 62).
6
Năm 1994, ông C1 và bà N để lại quyền sử dụng đất cho vợ chồng tôi là Lương
Trác K1 và Đinh Thị P tiếp tục sử dụng. Sau khi chồng tôi chết (khoảng năm
1999) thì tôi là người trực tiếp quản lý và sử dụng thửa đất nêu trên.
Ngày 20/5/2003, tôi (P) đăng ký lập hồ sơ đất đai và được UBND phường
N và Phòng Địa chính thị xã Đ lập hồ sơ sử dụng đất đai tại thửa đất số 50a, tờ
bản đồ số 29-NX, diện tích 104,3m
2
; giáp ranh với các chủ liền kề: Phía Bắc
giáp với đất ở của ông Lê Văn L có chiều dài 1,6m và đất ở của bà Vũ Thị D với
chiều dài 4,0m; phía Đông giáp với đất ở của bà Lương Thị V có chiều dài
19,0m; phía Nam giáp với ngõ bê tông có chiều dài 5,7m; phía Tây giáp với bà
Lương Thị N1 có chiều dài 17,8m.
Việc xác định ranh giới, mốc giới được các chủ sử dụng đất liền kề ký xác
nhận. Đến ngày 15/8/2005 tôi (P) được UBND thị xã Đ cấp GCNQSDĐ số
AB145524, số vào số cấp GCNQSDĐ số: H00259, tại thửa đất thửa số 50a, tờ
bản đồ số 29-NX, diện tích 104,3m2.
Ngày 26/3/2007 tôi (P) chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đinh
Xuân C và bà Hoàng Thị T2 theo Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất ở được
UBND phường N chứng thực số 09/CT-UBND.
Suốt quá trình tôi và chồng tôi (ông K1) sử dụng thửa đất nêu trên và đến
tận năm 2005 khi tôi làm các thủ tục và được UBND quận Đ cấp bìa đỏ đối với
thửa đất nêu trên thì không có bất cứ ý kiến hay tranh chấp gì liên quan đến việc
xác định mốc giới cũng như số đo diện tích đất đối với hộ gia đình bà Vũ Thị D.
Tôi khẳng định hoàn toàn không có việc mua bán đất của cụ N với bà D như lời
bà D trình bày tại phiên toà hôm nay. Do vậy tôi đề nghị Toà án bác bỏ toàn bộ
việc khởi kiện của bà D.
Tại phiên toà, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Hoàng Thị
T2 (vợ ông Đinh Xuân C) có mặt và trình bày ý kiến:
Vợ chồng tôi (Đinh Xuân C và Hoàng Thị T2) có nhận chuyển nhượng
diện tích đất 104,3m
2
, thửa đất số 50a, tờ bản đồ số 29-NX của bà Đinh Thị P
theo Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất ở lập ngày 26/3/2007, được UBND
phường N chứng thực số 09/CT-UBND. Đến ngày 11/7/2017 vợ chồng tôi đã
nộp hồ sơ đăng ký biến động đất đai được tiếp nhận tại Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai quận Đ. Ngày 29/9/2017 UBND quận Đ đã cấp GCNQSDĐ,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CH 891895, số vào sổ
cấp GCN: CH 01148, cho vợ chồng tôi.
Quá trình vợ chồng tôi sử dụng thửa đất nêu trên không có tranh chấp gì
về đất đai đối với hộ bà Vũ Thị D. Sau đó, đến năm 2021 thì vợ chồng tôi đã bán
lại toàn bộ nhà và đất nêu trên cho bà Nguyễn Thị H và dọn về sinh sống tại địa
7
chỉ: Xóm T, phường N, quận Đ đến nay. Do vậy việc bà D khởi kiện đòi đất đối
với anh K và chị T thì chúng tôi không có ý kiến gì và đề nghị Toà án giải quyết
theo quy định của pháp luật.
Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị H:
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã gửi, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng
của Toà án cho bà H nhưng bà H đều vắng mặt không có lý do và cũng không có
văn bản gửi cho Toà án để nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà
Vũ Thị D. Tại phiên toà bà H vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 129/2024/DS-ST ngày 29 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, đã quyết định:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 4 Điều 34, Điều 37, điểm a khoản 1 Điều
39 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành
chính;
Căn cứ vào Điều 166 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-
12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; cụ thể:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị D về việc buộc ông
Lương Trác K và bà Hoàng Thị T phải trả lại diện tích đất đã được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất chồng lấn lên diện tích đất của bà Vũ Thị D đã
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, với diện tích là 17,3m
2
.
2. Không chấp nhận yêu cầu của bà Vũ Thị D đề nghị hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đinh Xuân C và bà Hoàng Thị Tuyết S
vào sổ CH01148, do UBND quận Đ cấp ngày 29/9/2017 và đã được đăng ký
biến động sang tên ông Lương Trác K và vợ là bà Hoàng Thị T vào ngày
27/7/2022.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định án phí và thông báo quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 30/9/2024, nguyên đơn bà Vũ Thị D kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn bà Vũ Thị D vẫn giữ nguyên yêu
cầu kháng cáo.
Nguyên đơn bà Vũ Thị D, người đại diện theo ủy quyền trình bày: Đề
nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm hủy toàn bộ các quyết định của bản án sơ
8
thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục
sơ thẩm.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Đề nghị Hội đồng xét
xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm:
- Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và
thư ký đã thực hiện đúng và đầy đủ quy định của pháp luật, về quyền và nghĩa
vụ của người tham gia tố tụng được đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự. Kháng cáo trong hạn luật định, đảm bảo thủ tục theo quy định tại
các Điều 271, 272, 273, 276 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận xem
xét theo trình tự phúc thẩm.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều
308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của nguyên
đơn, giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo nộp trong thời hạn và đúng với quy định tại Điều
272, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên hợp lệ, được Hội đồng xét xử xem xét
giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Hội đồng xét xử sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, thời
hiệu khởi kiện, tư cách đương sự, thẩm quyền giải quyết là đúng quy định của
pháp luật.
[1.3] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Tại phiên tòa ngày hôm nay, các
đương sự được Tòa án triệu tập tuy nhiên vắng mặt bị đơn và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan. Căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án
tiến hành xét xử vắng mặt những người này.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm của nguyên đơn
bà Vũ Thị D, Hội đồng xét xử thấy:
[2.1] Về nguồn gốc đất của bà Vũ Thị D: Do bà D mua của ông Lưu Đình
H1, quá trình sử dụng đất bà D đã được UBND quận Đ cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất vào ngày 31/3/2008 thuộc thửa số 27 tờ bản đồ số 29; địa chỉ:
Số A, đường N, phường N, quận Đ, thành phố Hải Phòng, diện tích 73,9m
2
và
tài sản trên đất nhà ở 2 tầng diện tích 67,2m
2
loại nhà bê tông.
9
[2.2] Về nguồn gốc đất của ông Lương Trác K và bà Hoàng Thị T:
Thửa đất số 14, tờ bản đồ số 62 (bản đồ năm 2013), diện tích 104,3m
2
(Theo bản đồ năm 1990 là thửa đất số 50a, tờ bản đồ số 29-NX) có nguồn gốc là
đất ở của ông Lương Trác C1 và bà Nguyễn Thị N sử dụng từ trước năm 1980.
Năm 1994 ông C1 và bà N để lại quyền sử dụng đất cho vợ chồng con trai là
ông Lương Trác K1 và vợ là bà Đinh Thị P sử dụng.
Ngày 20/5/2003, bà Đinh Thị P đã đăng ký lập hồ sơ đất đai và được
UBND phường N và Phòng Địa chính thị xã Đ lập hồ sơ sử dụng đất đai tại thửa
đất số 50a, tờ bản đồ số 29-NX, diện tích 104,3m
2
; giáp ranh với các chủ liền kề:
Phía Bắc giáp đất ở của ông Lê Văn L có khoảng cách chiều dài 1,6m và đất ở
của bà Vũ Thị D với khoảng cách chiều dài 4,0m; phía Đông giáp với đất ở của
bà Lương Thị V có khoảng cách chiều dài 19,0m; phía Nam giáp với ngõ đi có
khoảng cách chiều dài 5,7m và phía Tây giáp với đất của bà Lương Thị N1 có
khoảng cách chiều dài 17,8m. Việc xác định ranh giới, mốc giới đã được các chủ
sử dụng đất liền kề ký xác nhận. Ngày 15/8/2005 bà P đã được UBND thị xã Đ
cấp GCNQSD đất số AB145524, số vào số cấp GCNQSDĐ số: H00259, tại thửa
đất thửa số 50a, tờ bản đồ số 29-NX, diện tích 104,3m
2
.
Ngày 26/3/2007 bà P chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đinh
Xuân C và bà Hoàng Thị T2 theo Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất ở, được
UBND phường N chứng thực số 09/CT-UBND. Ngày 11/7/2017 Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai quận Đ tiếp nhận hồ sơ đăng ký biến động đất đai của
ông C và bà T2. Ngày 29/9/2017 UBND quận Đ cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CH 891895, số vào số cấp GCN: CH
01148 cho ông C và bà T2. Sau đó ông C và bà T2 bán lại cho bà Nguyễn Thị H.
Ngày 12/8/2021 Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận Đ xác nhận biến
động về chủ sử dụng đất tại trang 3 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH
891895, số vào số cấp GCN: CH 01148, cấp ngày 29/9/2017 cho bà H.
Sau đó bà H bán lại diện tích đất nêu trên cho ông K và bà T. Ngày
28/6/2022 Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận Đ tiếp nhận hồ sơ đăng
ký biến động đất đai của ông K và bà T sau khi nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất từ bà H tại thửa đất số 14, tờ bản đồ số 62, theo Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất được Văn phòng C3 chứng nhận vào ngày 11/5/2022.
Ngày 27/7/2022 Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận Đ xác nhận biến
động về chủ sử dụng đất tại trang 4 GCNQSDĐ số CH 891895, số vào sổ cấp
GCN CH 01148, cấp ngày 29/9/2017 đối với ông K và bà T.
[2.3] Nguyên đơn cho rằng ông K và bà T đã lấn chiếm một phần diện
tích đất có chiều dài 0.9m, chiều rộng 4m = 3,6m
2
, thấy:
10
Phần diện tích gia đình bà Vũ Thị D khi được UBND quận Đ cấp
GCNQSDĐ vào ngày 31/3/2008 có chiều dài 16,8m và chiều rộng 4,0m; phía
Đông giáp với nhà ông Lương Duy T4; phía Nam giáp với nhà ông Lê Văn L;
phía Bắc giáp với vỉa hè; phía Nam giáp với nhà bà Đinh Thị P; tổng diện tích
đất của bà D sử dụng là 73,9m
2
.
Căn cứ vào biên bản xem xét thẩm định tại chỗ lập ngày 13/6/2024 của
Toà án nhân dân quận Đồ Sơn (Công ty Cổ phần T6 là đơn vị được ký hợp đồng
thực hiện việc đo đạc và vẽ sơ đồ hiện trạng các thửa đất đang có tranh chấp) thể
hiện:
Thửa đất bà Vũ Thị D đang sử dụng có chiều dài là 16,92m và chiều rộng
là 4,0m; tổng diện tích đất bà D đang thực tế sử dụng là 76,67m
2
, là lớn hơn
2.77m
2
so với diện tích bà D đã được cấp GCNQSDĐ (73,9m
2
). Mặc dù bà Vũ
Thị D không thừa nhận diện tích nêu trên, tuy nhiên căn cứ vào đơn xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và hiện trạng bà Vũ Thị D đã xây dựng nhà kiên
cố từ năm 2008 đến năm 2017 không có bất kỳ ý kiến khiếu nại gì liên quan đến
quyền sử dụng đất và GCNQSDĐ do UBND quận Đ đã cấp. Do đó không có đủ
căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bà Vũ Thị D về việc đề nghị xem xét lại buổi
thẩm định tại chỗ.
Đối với diện tích thửa đất số 50a đã được đăng ký biến động cho ông
Lương Trác K và bà Hoàng Thị T có diện tích là 105,77m
2
so với diện tích trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông C và bà T2 là 104,3m
2
có sự
chênh lệch tăng thêm là 1,47m
2
nhưng chưa trừ đi chỉ giới hành lang giao thông
là 1,7m (mốc 6,7).
Do đó không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà D buộc gia
đình ông K và bà T phải trả lại phần diện tích đất là 3,6m
2
.
[2.4] Đối với yêu cầu của bà D đề nghị buộc ông K và bà T phải trả lại
phần diện tích 13,7m
2
mà bà D đã mua của bà Nguyễn Thị B, thấy:
Việc mua bán đất theo nội dung “Giấy bán đất ở” ghi ngày 06/8/1999
giữa bà D và bà Nguyễn Thị B không thể hiện rõ vị trí diện tích đất có kích
thước 3,2m x 4,3m mà bà B viết giấy bán cho bà D nằm ở vị trí nào và thuộc
thửa đất cụ thể nào. Qua điều tra, xác minh thì vào thời điểm năm 1999 bà B
không đứng tên bất cứ một thửa đất nào tại địa phương. Do vậy cần xác định
đây là quan hệ khác, không liên quan đến vụ án và không làm phát sinh quyền
và nghĩa vụ của ông K và bà T trong vụ án này. Mặt khác hiện bà D chưa có yêu
cầu cụ thể đối với bà B về việc mua bán diện tích đất này nên trường hợp sau
này có phát sinh tranh chấp và các bên có yêu cầu Toà án giải quyết thì sẽ được
giải quyết bằng vụ án dân sự khác.
[2.5] Đối với yêu cầu của bà D buộc ông K và bà T phải trả lại diện tích
đất đã chồng lấn là 17,3m
2
với trị giá tính bằng tiền là: Diện tích đất 3,6m
2
x
11
40.000.000 đồng/m
2
= 144.000.000 đồng và diện tích đất 13,7m
2
x 12.000.000
đồng/m
2
= 164.000.000 đồng. Tổng số tiền là 308.400.000 đồng:
Tại Kết luận của Hội đồng định giá đã thể hiện giá thị trường thời điểm
hiện tại đối với diện tích đất 13,2m
2
nêu trên tại vị trí đất mặt ngõ có giá khoảng
từ 17.000.000 đồng/m
2
đến 20.000.000 đồng/m
2
nên Hội đồng định giá đã xác
định diện tích đất này có giá là 20.000.000 đồng/m
2
để đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự. Còn đất mặt đường 353 (vị trí tương tự thửa đất bà
D đang sử dụng) có giá khoảng 55.000.000 đồng/m
2
. Hiện diện tích đất này
đang thuộc thửa đất mà ông K và bà T đang sở hữu nên cần xác định số tiền là:
13,2m
2
x 20.000.000 đồng/m
2
= 264.000.000 đồng, theo Kết luận định giá tài
sản sẽ được làm căn cứ để xác định khoản án phí mà một trong các bên đương
sự phải chịu theo quy định của pháp luật.
Tại phiên toà sơ thẩm, bà D nêu ý kiến cho rằng việc định giá tài sản là
không chính xác khi xác định giá của vị trí tương tự thửa đất bà D đang sử dụng
có giá khoảng 55.000.000 đồng/m
2
. Xét thấy ngoài lời trình bày thì bà D không
có tài liệu chứng cứ gì để chứng minh diện tích đất đang có tranh chấp có giá trị
cao hơn so với Kết luận định giá tài sản. Mặt khác, theo yêu cầu khởi kiện thì
chính bà D đã đưa ra giá là 40.000.000 đồng/m
2
x
3,6m
2
= 144.000.000 đồng. Do
vậy Tòa án cấp sơ thẩm xác định không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu tiến
hành việc định giá tài sản lại của bà D là phù hợp.
[2.6] Đối với yêu cầu hủy GCNQSDĐ mang tên ông Đinh Xuân C và bà
Hoàng Thị Tuyết S vào sổ CH01148, do UBND quận Đ cấp ngày 29/9/2017 và
đã được đăng ký biến động sang tên ông K và bà T vào ngày 27/7/2022: Do
không có căn cứ xác định ông K bà T lấn chiếm đất của gia đình bà D như đã
phân tích ở trên nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc
yêu cầu hủy GCNQSDĐ của ông K bà T.
[3] Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn bà Vũ Thị D không cung cấp được
thêm chứng cứ mới làm thay đổi bản chất vụ án. Với những nhận định trên, Tòa
án cấp sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đúng
quy định của pháp luật. Do vậy, cấp phúc thẩm bác kháng cáo của nguyên đơn
và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa
phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên đơn bà
Vũ Thị D phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
12
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy
định về án phí và lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Vũ Thị D.
2. Giữ nguyên quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số 129/2024/DS-ST
ngày 29 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.
3. Về án phí: Bà Vũ Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc
thẩm, được đối trừ số tiền tạm ứng đã nộp theo biên lai thu số 0000819 ngày
25/10/2024 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND thành phố Hải Phòng;
- VKSND thành phố Hải Phòng;
- Cục THADS thành phố Hải Phòng;
- Các đương sự (theo đ/c);
- Lưu hồ sơ vụ án, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Việt Hà
13
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm