Bản án số 26/2025/DS-PT ngày 22/01/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 26/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 26/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 26/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 26/2025/DS-PT ngày 22/01/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Sóc Trăng |
Số hiệu: | 26/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Hà Kim T - Lâm D |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

-1-
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số: 26/2025/DS-PT
Ngày 22-01-2025.
“Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Nam Trung;
Các Thẩm phán: Ông Hồ Văn Phụng;
Ông Nguyễn Hoàng Thành.
- Thư ký phiên tòa: Ông Trần Thanh Huy, Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Thanh Quyên, Kiểm sát viên.
Trong ngày 22 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc
Trăng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 275/2024/TLPT-DS, ngày 21
tháng 11 năm 2024, về việc: “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 203/2024/DS-ST, ngày 27 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 329/2024/QĐ-PT,
ngày 24/12/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 15/2025/QĐ-PT,
ngày 10/01/2025, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Hà Kim T, sinh năm 1964. Địa chỉ: Số E, đường L,
khóm A, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Khánh T1,
sinh năm 1976. Địa chỉ: Số E, đường P, khóm B, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng, theo văn bản ủy quyền ngày 01/4/2024 (có mặt).
* Các bị đơn:
- Ông Lâm D, sinh năm 1961; Dân tộc: Khmer và bà Thị P, sinh năm 1962; Dân
tộc: Khmer. Cùng địa chỉ: Số F, đường M, khóm F, phường A (trước đây là
phường I), thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Lâm D: Ông Triệu Du L là
Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh S (có mặt)
-2-
- Ông Đinh P1, sinh năm 1948; Dân tộc: Khmer và bà Thị Ka N, sinh năm
1950; Dân tộc: Khmer. Cùng địa chỉ: Số F, đường M, khóm F, phường A (trước
đây là phường I), thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
Các bị đơn là người dân tộc K nhưng không yêu cầu người phiên dịch tiếng
Khmer.
Người kháng cáo: Ông Lâm D, bà Thị P, ông Đinh P1 và bà Thị Ka N là
các bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và theo kết quả xét xử sơ
thẩm, thì vụ án có nội dung như sau:
* Nguyên đơn hà Kim T trình bày và yêu cầu Tòa án giải quyết:
Vào ngày 28/6/2022, nguyên đơn bà Hà Kim T với các bị đơn ông Lâm D,
bà Thị P và ông Đinh P1, bà Thị Ka N có thỏa thuận giao dịch đặt cọc để bảo
đảm và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có diện tích
khoảng 500m
2
đến 560m
2
, (loại đất cây lâu năm), thuộc một phần thửa số 132, tờ
bản đồ số 20, tọa lạc tại khóm F, Phường I, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân thị xã S cấp cho hộ ông Đinh
P1, bà Thị Ka N vào ngày 28/12/2001, giá thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất là 1.650.000.000 đồng.
Sau khi hai bên thỏa thuận xong thì lần 1, bà T đã đặt cọc cho ông D, bà P
và ông P1, bà N số tiền 400.000.000 đồng, có làm biên nhận nhận tiền đặt cọc
vào ngày 28/6/2022. Tiếp tục cùng ngày bên chuyển nhượng yêu cầu đặt cọc
thêm số tiền 350.000.000 đồng, nên bà T đồng ý đặt cọc thêm số tiền 350.000.000
đồng, nên làm biên nhận đặt cọc với tổng số tiền là 750.000.000 đồng.
Đến ngày 05/9/2023 thì hai bên tiến hành đo đạc, xác định ranh giới phần
đất chuyển nhượng thì phía bên chuyển nhượng các ông D, bà P và ông P1, bà N
có thỏa thuận chuyển nhượng thêm phần diện tích 30m
2
để đảm bảo đủ diện tích
đất để tách thửa và bà T đã tiếp tục đặt cọc thêm số tiền 103.000.000 đồng cho
ông D, bà P và ông P1, bà N.
Đến tháng 10/2023, khi bà T làm thủ tục nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nêu trên thì bên chuyển nhượng là ông P1, bà N đưa xem giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mới được cấp đổi lại vào ngày 07/7/2022 thì phát hiện
phần diện tích đất thỏa thuận chuyển nhượng cho bà T nằm trong phạm vi hành
lang lộ giới, nên phát sinh tranh chấp và được Tổ hòa giải khóm F, phường I,
thành phố S tiến hành hòa giải không thành, do các bị đơn ông D, bà P và ông P1,
bà N không còn tiền để trả lại số tiền đặt cọc đã nhận.
Vì vậy, nguyên đơn bà Hà Kim T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
Tuyên bố giao dịch đặt cọc ngày 28/6/2022 và giao dịch đặt cọc bổ sung
ngày 05/9/2023 bị vô hiệu toàn bộ.
- Buộc các bị đơn ông Lâm D, bà Thị P trả lại số tiền đặt cọc đã nhận
753.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi, không yêu cầu phạt cọc.
-3-
- Buộc các bị đơn ông Đinh P1, bà Thị Ka N trả lại số tiền đặt cọc đã nhận
100.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi, không yêu cầu phạt cọc.
* Trong quá trình giải quyết vụ án và cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, các
bị đơn ông Lâm D, bà Thị P trình bày:
Vào ngày 28/6/2022, vợ chồng ông Lâm D, bà Thị P với bà Hà Kim T có
thỏa thuận đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất có diện tích khoảng
500m
2
, (loại đất cây lâu năm), thuộc một phần thửa số 132, tờ bản đồ số 20, tọa
lạc tại khóm F, Phường I, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do hộ ông Đinh P1 đứng tên, được Ủy ban nhân dân thị xã S
cấp vào ngày 28/12/2001, nhưng thực tế phần diện tích đất chuyển nhượng này là
của vợ chồng ông quản lý, sử dụng và giá thỏa thuận chuyển nhượng đất giữa hai
bên là 1.650.000.000 đồng. Tuy nhiên, sau đó đo đạc lại phần đất để làm thủ tục
tách thửa chuyển nhượng cho bà T thì không đủ diện tích tách thửa theo quy định
của Nhà nước, nên vợ chồng ông cùng với bà T thỏa thuận nhận chuyển nhượng
thêm phần đất cặp ranh của vợ chồng ông P1 với diện tích khoảng 30m
2
(ngang
02m x dài 15m) với số tiền 100.000.000 đồng và được vợ chồng ông P1 đồng ý
chuyển nhượng cho bà T.
Sau khi thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên thì nguyên
đơn T có đặt cọc cho vợ chồng ông 0 lần, với tổng số tiền 853.000.000 đồng, vợ
chồng ông bà nhận 753.000.000 đồng của bà Hà Kim T, còn vợ chồng ông P1
100.000.000 đồng và hai bên hẹn khi nào ra Văn phòng Công chứng làm thủ tục
chuyển nhượng xong thì bà T trả số tiền mua đất còn lại, nhưng sau đó bà T
không đồng ý tiếp tục chuyển nhượng và cứ hẹn làm thủ tục chuyển nhượng
nhiều lần không thực hiện. Vì vậy, vợ chồng ông bà không đồng ý trả lại tiền cọc
đã nhận 753.000.000 cho bà T, vì đã tiêu xài hết số tiền nhận cọc.
* Trong quá trình giải quyết vụ án và cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, các
bị đơn ông Đinh P1, bà Thị Ka N trình bày:
Thống nhất với nội dung trình bày nêu trên của vợ chồng ông Lâm D về
nội dung thỏa thuận đặt cọc và phần diện tích đất thỏa thuận chuyển nhượng.
Phần đất vợ chồng ông Lâm D thỏa thuận chuyển nhượng cho bà Hà Kim T là do
ông Đinh P1 đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng thực tế một
phần diện tích thửa đất 132 là của vợ chồng ông Lâm D quản lý, sử dụng. Sau khi
vợ chồng ông D thỏa thuận chuyển nhượng cho bà T thì có tiến hành đo đạc diện
tích cụ thể nhưng do không đủ diện tích tách thửa nên có thỏa thuận với vợ chồng
ông bà để mua thêm phần đất của ông bà ngang 02m x dài 15m để đủ diện tích
tách thửa với giá là 100.000.000 đồng, nên ông bà đồng ý và nhận số tiền đặt cọc
100.000.000 đồng của bà T đã đưa cho vợ chồng ông D. Nay bà T khởi kiện yêu
cầu vợ chồng ông bà trả lại số tiền 100.000.000 đồng đặt cọc thì ông bà không
đồng ý, vì vợ chồng ông D không đồng ý trả lại tiền đặt cọc cho bà T, nên vợ
chồng ông cũng không đồng ý.
-4-
Sự việc được Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng thụ lý,
giải quyết. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 203/2024/DS-ST, ngày 27/9/2024 đã
quyết định như sau:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1
Điều 39; khoản 1 Điều 147; khoản 1 Điều 157; Điều 271; khoản 1, 3 Điều 273 và
khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12;
khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án;
- Căn cứ Điều 117, 328 và 502 Bộ luật dân sự năm 2015;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hà Kim T đối
với các bị đơn ông Lâm D, bà Thị P và ông Đinh P1, bà Thị Ka N.
2. Tuyên bố giao dịch theo “Giấy biên nhận đặt cọc bán đất ngày
28/6/2022 và “Biên nhận đặt cọc tiền bán đất ngày 05/9/2023” bị vô hiệu từ thời
điểm hai bên xác lập.
2.1. Buộc các bị đơn ông Lâm D, bà Thị P có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn
bà Hà Kim T số tiền đặt cọc 753.000.000 đồng (B trăm năm mươi ba triệu đồng).
2.2. Buộc các bị đơn ông Đinh P1, bà Thị Ka N có nghĩa vụ trả cho
nguyên đơn bà Hà Kim T số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng (Một trăm triệu
đồng).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí xem xét thẩm định tại
chỗ và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
- Ngày 08/10/2024, bị đơn Lâm D và Thị P, kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn T về việc đòi số tiền đã giao cho ông D
và bà P để chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
- Ngày 08/10/2024, bị đơn Đinh P1 và Thị Ka N, kháng cáo toàn bộ bản án
sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn T về việc đòi số tiền đã giao cho
ông P1 và bà N để chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn T
không rút lại đơn khởi kiện, các bị đơn không rút lại đơn kháng cáo, các đương
sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
* Ý kiến của Kiểm sát viên, phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Sóc Trăng, về tính có căn cứ và hợp pháp của kháng cáo, về việc tuân thủ và
chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của những người tiến hành tố tụng, những
người tham gia tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và
tại phiên tòa phúc thẩm. Đồng thời, phát biểu quan điểm giải quyết vụ án, cụ thể
như sau:
-5-
+ Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán - Chủ
tọa phiên tòa, thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, các đương sự đã
tuân thủ và chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
+ Về nội dung kháng cáo: Các bị đơn không chứng minh được yêu cầu
kháng cáo của các bị đơn là có căn cứ pháp luật, trong khi người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn không đồng ý theo nội dung kháng cáo của các bị đơn. Vì
vậy, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ kháng cáo
của các bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra các
chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, ý kiến phát biểu và đề nghị
của Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Nội dung và hình thức đơn kháng cáo, thời hạn kháng cáo của các bị đơn
D, P, P1 và N là đúng quy định tại Điều 271, Điều 272 và khoản 1 Điều 273 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015. Vì vậy, kháng cáo của các bị đơn D, P, P1 và N là
hợp lệ, được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận và tiến hành giải quyết theo trình
tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung kháng cáo:
[2-1] Bị đơn Lâm D và Thị P kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm
sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn T về việc đòi số tiền đã giao cho ông D và bà P để chuyển nhượng quyền sử
dụng đất.
Luật sư của bị đơn Lâm D đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm, chấp
nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn D, vì các căn cứ sau:
- Các đương sự không tranh chấp về diện tích đất chuyển nhượng cũng như
số tiền chuyển nhượng đất.
- Khi ký thỏa thuận đặt cọc, các đương sự đều có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự; việc ký kết là hoàn toàn tự nguyện; nội dung thỏa thuận đặt cọc không
trái pháp luật và đạo đức xã hội. Vì vậy, thỏa thuận đặt cọc giữa các bên là hợp
pháp được pháp luật bảo vệ, bên nào vi phạm thì sẽ bị xử lý theo quy định của
pháp luật.
- Bà T không thực hiện việc sang tên và trả số tiền chuyển nhượng còn lại
cho bên bán là lỗi của bà T, các bị đơn đều đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng
nên các bị đơn không có lỗi. Do bà T không tiếp tục thực hiện hợp đồng. Vì vậy,
bà T phải mất tiền đặt cọc theo quy định tại Điều 328 của Bộ luật dân sự năm
2015.
[2-2] Bị đơn Đinh P1 và Thị Ka N kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc
thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn T về việc đòi số tiền đã giao cho ông P1 và bà N để chuyển nhượng
quyền sử dụng đất.
-6-
Xét kháng cáo của các bị đơn thì thấy rằng:
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị đơn Diệm và P thừa nhận có nhận tiền cọc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của nguyên đơn T2 tổng cộng là 753.000.000
đồng, các bị đơn P và N thừa nhận có nhận tiền cọc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất của nguyên đơn T tổng cộng là 100.000.000 đồng. Vì vậy, đây là sự kiện
không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015.
Hồ sơ vụ án thể hiện:
- Ngày 28/6/2022 các bên thỏa thuận đặt cọc để chuyển nhượng 01 phần
của thửa đất số 132, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại khóm F, phường I, thành phố S,
tỉnh Sóc Trăng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân thị
xã S cấp cho hộ ông Đinh P1, bà Thị Ka N vào ngày 28/12/2001. Khi các bên
thỏa thuận chuyển nhượng đất, thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên,
không thể hiện phần đất các bên thỏa thuận chuyển nhượng, thuộc hành lang bảo
vệ an toàn công trình cặp Kênh 3/2.
- Ngày 07/7/2022, Sở T4 cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Đinh P1 và và Thị
Ka N, thể hiện: Toàn bộ phần đất các bên thỏa thuận chuyển thuộc hành lang bảo
vệ an toàn công trình cặp Kênh 3/2.
Như vậy, khi các bên thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thì các
bên đều không biết, phần đất chuyển nhượng thuộc hành lang bảo vệ an toàn
công trình cặp Kênh 3/2. Vì vậy, nguyên đơn T có quyền đề nghị, không tiếp tục
thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, theo giấy đặt cọc mà các
bên đã ký, do bị nhầm lẫn về đối tượng chuyển nhượng, nên bị vô hiệu theo quy
định tại Điều 126 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Việc chấm dứt thỏa thuận này
không bên nào có lỗi, vì đây là sự kiện mới phát sinh mà các bên đều không biết.
Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn T là có
căn cứ như những phân tích nêu trên.
Các bị đơn và Luật sư của bị đơn Diệm không chứng minh được, kháng
cáo của các bị đơn là có căn cứ, trong khi người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn T không đồng ý theo nội dung kháng cáo của các bị đơn. Vì vậy, Hội
đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ kháng của các bị đơn D, P,
T3 và N.
Đề nghị của Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc
Trăng, về việc không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của các bị đơn D, P,
T3 và N, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ, phù hợp với các chứng cứ đã
được viện dẫn nêu trên, nên được Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Các bị đơn được miễn tiền án phí phúc
thẩm do thuộc đối tượng người cao tuổi theo quy định tại tại điểm đ, khoản 01
Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.

-7-
Các phần khác được nêu trong phần quyết định của bản án sơ thẩm không
bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 và khoản 6 Điều 313 của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Tuyên xử:
Không chấp nhận kháng cáo của các bị đơn L, Thị P và Đinh P1 và Thị Ka
N.
I- Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 203/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
II- Án phí dân sự phúc thẩm: Các bị đơn Lâm Diệm, Thị P, Đinh P1 và Thị
Ka N được miễn tiền án phí dân sự phúc thẩm, do thuộc đối tượng người cao tuổi.
Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung) thì người được thi hành án dân sự, người
phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành
án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các
Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung); thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự
(đã được sửa đổi, bổ sung)./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- TAND thành phố Sóc Trăng;
- Chi cục THADS thành phố Sóc Trăng;
- Lưu hồ sơ vụ án, Tòa DS.
Trần Nam Trung
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm