Bản án số 137/2025/DS-PT ngày 08/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 137/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 137/2025/DS-PT ngày 08/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 137/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 08/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Không chấp nhận kháng cáo bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN N CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
Bản án số:137/2025/DS-PT
Ngày: 08 - 4 - 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử Phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Nhung.
Các Thẩm phán: Lưu Thị Thu Hường và ông Nguyễn Sỹ Thành
- Thư ký phiên toà: Ông Đức Anh - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Ông Nguyễn Chí Hiếu - Kiểm
sát viên.
Ngày 08 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xphúc
thẩm công khai vụ án n sự thụ số: 46/2025/TLPT-DS ngày 06 tháng 01 năm 2025,
về việcTranh chấp hợp đồng đặt cọc”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 302/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024 của
Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 121/2025/QĐ-PT ngày 04
tháng 03 năm 2025 Quyết định hoãn phiên tòa số: 122/2025/QĐ-PT ngày 25/3/2025,
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Lê Viết H, sinh năm 1982; Vắng mặt
Địa chỉ: Số 04-06 V, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Văn C, sinh năm 1985; mặt (Theo văn
bản ủy quyền ngày 12/12/2023).
Địa chỉ: Số 05 đường A, buôn K, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
2. Bị đơn: Ông Đào Văn P, sinh năm 1968 Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm
1973; Ông P vắng mặt, bà T có mặt.
Cùng địa chỉ: Tổ dân phố 9, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Nguyễn
Thị Ngọc T người đại diện theo ủy quyền của ông Đào Văn P (Theo văn bản ủy
quyền ngày 19/9/2024).
Người bảo vquyền và lợi ích hợp pháp của Nguyễn Thị Ngọc T: Hoàng
Thị Thanh T1 - Luật sư Văn phòng Luật sư H thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk; Vắng
mặt.
Địa chỉ: 81/6 G, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
2
3.1 Ông Đào Văn K, sinh năm 1976 bà Uông Thị T2, sinh năm 1986; Ông K
mặt, bà T2 vắng mặt.
Địa chỉ: Số nhà 237/22 P, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
3.2 Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1980; Vắng mặt
Địa chỉ: Tổ dân phố 9, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
4. Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn và người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn cùng trình bày:
Do có mối quan hệ quen biết nên ông Đào Văn P và bà Nguyễn Thị Ngọc T giới
thiệu cho ông Lê Viết H 02 thửa đất cần bán là thửa đất số 321 và 322, tờ bản đồ số 26,
diện tích mỗi thửa 223m
2
, tại C, huyện C1, tỉnh Đắk Lắk. Để đảm bảo cho việc
giao kết hợp đồng chuyển nhượng, ngày 05/4/2022 vợ chồng ông Đào Văn P,
Nguyễn Thị Ngọc T và ông Viết H thống nhất hợp đồng đặt cọc (hợp đồng đặt
cọc được in theo mẫu, ông Lê Viết H viết tay các nội dung thỏa thuận cụ thể), với nội
dung thỏa thuận như sau:
+ Tài sản thỏa thuận chuyển nhượng: Thửa đất số 321 và 322 nêu trên.
+ Thỏa thuận tr giá 02 quyền sử dụng đất: 4.650.000.000 đồng.
+ Tổng số tiền ông Lê Viết H đã đặt cọc: 800.000.000 đồng (ngày 05/4/2022 ông
H trực tiếp đặt cọc 200.000.000 đồng cho T ông P, đến ngày 06/5/2022 ông H
nhờ ông Nguyễn Văn D đặt cọc thêm bà T và ông P số tiền 600.000.000 đồng); số tiền
đặt cọc được khấu trừ vào tiền chuyển nhượng, khi thủ tục công chứng hợp đồng hoàn
tất bên mua có nghĩa vụ giao đủ số tiền chuyển nhượng còn lại cho bên bán.
+ Thời hạn đặt cọc: 45 ngày, kể từ ngày 05/4/2022 đến ngày 20/5/2022.
Sau khi ông H đặt cọc số tiền nêu trên cho vợ chồng ông P, qua tìm hiểu thực tế
hai thửa đất nêu trên thì được biết vợ chồng ông P, T không phải chủ sở hữu
quyền sử dụng đất thửa số 321 322, quyền sử dụng đất thỏa thuận chuyển nhượng
thuộc sở hữu của người khác. Sau đó, ông H có yêu cầu ông P, bà T phải trả lại số tiền
800.000.000 đồng mà ông P, bà T đã nhận của ông H nhưng phía bị đơn không trả tiền
mà cho rằng ông H không mua đất nữa nên mất tiền cọc.
Trong quá trình giải quyết v án, nguyên đơn mới biết thửa đất số 321 và 322 do
vợ chồng ông Đào Văn K và bà Uông Thị T2 đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Nguyên đơn xác định bị đơn không phải là chủ sở hữu quyền sử dụng
đất nên không có quyền ký hợp đồng đặt cọc và giao dịch chuyển nhượng, nhưng đã
đưa ra thông tin gian dối mình là chủ sở hữu tài sản để nhận số tiền đặt cọc
800.000.000 đng của ông Lê Viết H.
vậy, nguyên đơn ông H khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết: Tuyên bố vô hiệu
đối với Hợp đồng đặt cọc ngày 05/4/2022 giữa bên đặt cọc ông Lê Viết H và bên nhận
cọc ông Đào Văn P, Nguyễn Thị Ngọc T; buộc vchồng ông Đào Văn P và
Nguyễn Thị Ngọc T phải trả lại cho ông Lê Viết H số tiền đã nhận cọc là 800.000.000
3
đồng; Nguyên đơn tự nguyện rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu tính tiền
lãi (theo mức lãi suất 10%/năm) trên số tiền đặt cọc, tương ứng số tiền 127.620.000
đồng.
* Quá trình tham gia ttụng bđơn Nguyễn Thị Thanh T (đồng thời đại diện
theo ủy quyền của bị đơn ông Đào Văn P) trình bày:
Vào khoảng tháng 01/2022, vchồng Nguyễn Thị Ngọc T, ông Đào Văn P
nhận chuyển nhượng (hình thức giấy viết tay, không công chứng, chứng thực) của
vợ chồng ông Đào Văn K, bà Uông Thị T2 02 thửa đất gồm: Thửa đất số 321 và 322,
tờ bản đồ 26, mỗi thửa có diện tích 223m
2
, tại xã C1, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Khi nhận
chuyển nhượng, vợ chồng T thỏa thuận với vợ chồng ông K nếu vợ chồng bà T tiếp
tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác thì vợ chồng ông K sẽ ra Văn
phòng Công chứng ký sang nhượng 02 quyền sử dụng đất cho người mua.
Đến tháng 4/2022, ông Viết H liên hệ với gia đình T mục đích muốn
mua 02 thửa đất nêu trên và hai bên có ký hợp đồng đặt cọc, về nội dung hợp đồng đặt
cọc đúng như bản gốc hợp đồng nguyên đơn giao nộp cho Tòa án. Thực hiện hợp
đồng đặt cọc, ông H đã đặt cọc cho vợ chồng T tổng số tiền 800.000.000 đồng (ngày
05/4/2022 ông H trực tiếp đặt cọc 200.000.000 đồng, đến ngày 06/5/2022 ông H nhờ
ông Nguyễn Văn D đặt cọc thêm số tiền 600.000.000 đồng).
Sau đó, ông H biết được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của 02 thửa đất nêu
trên không phải đứng tên vợ chồng bà T nên không muốn mua nữa và đòi lại tiền cọc.
Tuy nhiên, vợ chồngT không đồng ý vì khi đặt cọc, bị đơn đã cho ông H xem giấy
tờ mua bán đất giữa bị đơn ông K cùng với bản phô 02 Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất của các thửa đất nêu trên. Sau khi đặt cọc, vợ chồng T đã hẹn ông
Viết H ra Văn phòng Công chứng và ông K sẽ trực tiếp ký sang tên quyền sử dụng đất
cho ông H, nhưng ông H không thực hiện nội dung cam kết. Hiện nay, vợ chồng bà T
vẫn đang quản lý, sử dụng thửa đất số 321 322, nhưng Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất do ông Đào Văn K Uông Thị T2 đứng tên, chưa chỉnh biến động
chuyển nhượng cho ai.
Bị đơn bà T và ông P không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc
tuyên bố hợp đồng đặt cọc ngày 05/4/2022 hiệu không đồng ý trả lại số tiền
800.000.000 đng, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
* Quá trình tham gia tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
1. Ông Nguyễn Văn D trình bày: Ông D có mối quan hệ bạn bè m ăn chung với
ông Lê Viết H. Vào tháng 4/2022, ông D có nghe ông H nói là ông H muốn mua thửa
đất số 321 và 322, tờ bản đồ số 26, tại xã Cư Suê, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk của
vợ chồng ông Đào Văn P và Nguyễn Thị Ngọc T. Theo ông D được biết thì giữa
ông H vợ chồng ông P thỏa thuận đặt cọc trước số tiền 800.000.000 đồng, khi
nào giao kết hợp đồng chuyển nhượng tại Văn phòng Công chứng sẽ trả số tiền còn lại.
Ngày 06/5/2022, ông H việc bận nên nhờ ông D thay mặt ông H đặt cọc cho vợ
chồng ông P số tiền 600.000.000 đồng. Trước đó, ông H đã đặt cọc số tiền 200.000.000
đồng cho vợ chồng ông P để mua 02 thửa đất trên. Số tiền này đều là của ông H, ông
D chỉngười giao số tiền 600.000.000 đồng giúp cho ông H. Sau đó thì ông D nghe
4
ông H kể lại 02 thửa đất đó không thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông P, bà Tn
không mua nữa. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Viết H, ông D đề nghị Tòa án
giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
2. Ông Đào Văn K trình bày: Ông Đào Văn K em ruột của ông Đào Văn P, ông
K chủ sở hữu 02 quyền sử dụng đất thửa số 321 và 322, tờ bản đồ số 26, cùng diện
tích 223m
2
, tại xã Cư Suê, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk. Từ năm 2013 cho đến nay,
ông K và vợ là bà Uông Thị T2 vẫn đang là chủ sở hữu, quản lý 02 quyền sử dụng đất
nêu trên và chưa chuyển nhượng cho ai khác.
Vào khoảng tháng 3/2022, ông K bán 02 thửa đất nêu trên cho ông Đào Văn P
và bà Nguyễn Thị Ngọc T, khi bán có viết giấy tay, đã nhận tiền cọc nhưng không ký
công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Sau đó, ông P và T tìm
người để bán 02 thửa đất nêu trên, ông K vợ chồng ông P thỏa thuận nếu vợ
chồng ông P bán đất cho người khác thì ông K sẽ ra Văn phòng Công chứng sang
nhượng 02 quyền sử dụng đất cho người mua. Ông K không biết việc vchồng ông
Đào Văn P nhận số tiền cọc 800.000.000 đồng của ông Lê Viết H không liên quan
đến việc mua bán, đặt cọc giữa ông H và ông P, bà T.
Ông Đào Văn K xác định Uông Thị T2 cũng đồng ý với ý kiến của ông K, bà
Thơ vì lý do công việc nên không thể tham gia tố tụng theo giấy triệu tập của Tòa án.
Vợ chồng ông K đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án, đề nghị Tòa án giải
quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
3. Đối với người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Uông Thị T2 không tham gia
tố tụng theo giấy triệu tập của Tòa án, không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn và không giao nộp tài liệu, chứng cứ.
Tại Bản án dân sự thẩm số 302/2024/DS-ST, ngày 27/9/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đk Lắk đã quyết định:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; các
Điều 147, 161, 162, 266, 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Áp dụng Điều 117, 122, 123, 131, 328 và 407 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2
Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường v
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí và l
phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chp nhận yêu cầu khi kin của nguyên đơn ông Lê Viết H.
1.1. Tuyên bố vô hiệu đối với Hợp đồng đặt cọc ngày 05/4/2022, giữa bên đặt cọc
ông Lê Viết H và bên nhận cọc là vợ chồng ông Đào Văn P, bà Nguyễn Thị Ngọc T.
1.2. Buộc vợ chồng ông Đào Văn P và bà Nguyễn Thị Ngọc T phải trả lại cho ông
Lê Viết H số tiền đã nhận cọc là 800.000.000 đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi nh
án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành
án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp
5
luật; trường hợp không thỏa thuận về mức lãi suất tquyết định theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Viết H,
về nội dung yêu cầu bị đơn phải trả số tiền lãi 127.620.000 đồng.
Ngoài ra bản án thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo
theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 01/10/2024 bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T kháng cáo
toàn bộ bản án thẩm, đề nghị sửa bản án thẩm theo hướng không chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện, bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T giữ nguyên nội
dung đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm:
Vtố tụng: Trong quá trình thụ giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử,
Thư ký phiên tòa và các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
Về ni dung: Đại diện Viện kiểm sát đánh giá các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ
vụ án, xét thấy kháng cáo của bị đơn Nguyễn Thị Ngọc T không căn cứ đề
nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, gi nguyên Bản án dân sự thẩm số:
302/2024/DS-ST, ngày 27/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh
Đắk Lắk.
NHẬN ĐNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ
vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài liệu chứng cứ, lời
trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T được nộp
trong thời hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật. Do đó,
Tòa án nhân n tỉnh Đắk Lắk thụ giải quyết phù hợp với quy định của pháp
luật.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn Nguyễn Thị Ngọc T, Hội đồng xét xử,
nhận thấy:
Đối với thửa đất thửa đất số 321 322, tờ bản đồ số 26, diện tích mỗi thửa
223m
2
, tại xã C1, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, được Ủy ban nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh
Đắk Lắk cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BL 186213 ngày 24/01/2013 mang
tên ông Nguyễn Thanh N và bà Ngô Thị Hải Â, được Chi nhánh đăng ký đất đai huyện
C chỉnh lý biến động chuyển nhượng cho ông Phan Thùy N, ngày 12/10/2018 và chỉnh
lý biến động chuyển nhượng cho ông Đào Văn K, Uông Thị T2 ngày 17/6/2020; Đối
với thửa 322 được Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Đắk Lắk cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số: BL 186212 ngày 25/01/2013 mang tên ông Phan Hiền V Thị
6
Kim D, được Chi nhánh đăng đấy đai huyện M’gar chỉnh biến động chuyển
nhượng cho ông Phan Thùy N, ngày 12/10/2018 và chỉnh lý biến động chuyển nhượng
cho ông Đào Văn K, Uông Thị T2 ngày 17/6/2020. Theo kết quả thu thập tài liệu
chứng cứ tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C (bút lục 31-36)quá trình
giải quyết vụ kiện tại cấp thẩm, tại phiên tòa phúc thẩm thì người quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan ông Đào Văn K khai nhận đối với quyền sử dụng đất thửa số 321 và
322 thì từ năm 2020 cho đến nay người đứng tên quyền sử dụng đất là Đào Văn K và bà
Uông Thị T2.
Quá trình giải quyết vkiện ông Đào Văn P, Nguyễn ThNgọc T ông
Viết H đều thừa nhận vào ngày 05/4/2022, các bên có kết hợp đồng đặt cọc, với nội
dung thỏa thuận chuyển nhượng: Thửa đất số 321 322 nêu trên; Giá trị thỏa thuận
chuyển nhượng 02 thửa đất là: 4.650.000.000 đồng; Thời hạn đặt cọc: 45 ngày, ktừ
ngày 05/4/2022 đến ngày 20/5/2022. Hợp đồng được các bên thỏa thuận bằng văn bản
tại Hợp đồng đặt cọc ngày 05/4/2022. Quá trình thực hiện hợp đồng đặt cọc thì ông
Viết H đã đặt cọc cho ông P, bà T số tiền 800.000.000 đồng, cụ thể ngày 05/4/2022 ông
H trực tiếp đặt cọc 200.000.000 đồng cho T ông P, đến ngày 06/5/2022 ông H nhờ
ông Nguyễn Văn D đặt cọc thêm T ông P số tiền 600.000.000 đồng; Stiền đặt
cọc được khấu trừ vào tiền chuyển nhượng, khi thủ tục công chứng hợp đồng hoàn tất
bên mua nghĩa vụ giao đủ số tiền chuyển nhượng n lại cho n bán. Tuy nhiên,
thấy rằng tại thời điểm ký kết hợp đồng đặt cọc thì ông P và bà T chưa được công nhận
quyền sử dụng đất hợp pháp đối với 02 thửa đất số 321 322, các thửa đất đang
đứng tên ông K Thơ, do đó ông P, T chưa có quyền tham gia giao kết hợp đồng
đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất của người sdụng đất theo quy định tại
Điều 168 Luật Đất đai. Do vậy, hợp đồng đặt cọc ngày 05/4/2022 giữa ông Đào Văn P,
Nguyễn Thị Ngọc T và ông Lê Viết H vi phạm điều cấm của pháp luật nên vô hiệu
theo Điều 123 Bộ luật Dân sự.
Tại thời điểm ký kết hợp đồng đặt cọc, bên đặt cọc bên nhận cọc đều biết thửa
đất 321 322 đang đứng tên ông Đào Văn K Uông Thị T2, nhưng vẫn kết hợp
đồng hợp đặt cọc, nội dung này được thể hiện tại hợp đồng đặt cọc ngày 05/4/2022, cụ
thể các bên xác lập nội dung: “ông Đào Văn P đại diện nhận cọc cho ông Đào Văn
K. Như vậy, lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu là do lỗi của cả hai bên.
Do xác định hợp đồng vô hiệu nên không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền
nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập giao dịch. Buộc các bên khôi phục lại
tình trạng ban đầu hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố
hợp đồng đặt cọc ngày 05/4/2022 giữa ông Đào Văn P, bà Nguyễn Thị Ngọc T ông
Viết H hiệu; Đồng thời buộc ông P, T phải trả lại cho ông H số tiền
800.000.000 đồng tiền cọc là phù hợp với Điều 123, Điều 131 Bộ luật Dân sự.
[3]. Từ những phân tích, nhận định trên, Hội đồng xét xử nhận thấy không có căn
cứ chấp nhận kháng cáo của bđơn bà Nguyễn Thị Ngọc T, giữ nguyên phần Quyết định
tại Bản án dân sự thẩm số 302/2024/DS-ST ngày 27/9/2024 của Toà án nhân dân
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
[4]. Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo của bđơn nên Nguyễn Th Ngọc
7
T phải chịu án phí dân sự Pc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo bị đơn Nguyễn Thị Ngọc T. Giữ nguyên Bản án
dân sự thẩm số: 302/2024/DS-ST ngày 27/9/2024 của Toà án nhân dân thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Áp dụng Điều 117, Điều 118, Điều 122, Điều 123, Điều 131, Điều 328 và Điều
407 Bộ luật dân sự; Điều 167, Điều 168, Điều 188 Luật Đất đai năm 2013; Điều 26,
Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ
Quốc hội.
Tuyên xử:
[2.1] Chp nhận yêu cầu khởi kin của nguyên đơn ông Lê Viết H.
Tuyên bố vô hiệu đối với Hợp đồng đặt cọc ngày 05/4/2022, giữa bên đặt cọc ông
Lê Viết H và bên nhận cọc là vợ chồng ông Đào Văn P, bà Nguyễn Thị Ngọc T.
Buộc vợ chồng ông Đào Văn PNguyễn Thị Ngọc T phải trả lại cho ông Lê
Viết H số tiền đã nhận cọc là 800.000.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi
hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án n phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều
468 Bộ luật Dân sự.
[2.2] Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện ca nguyên đơn ông Lê Viết
H, về nội dung yêu cầu bị đơn phải trả số tiền lãi 127.620.000 đồng.
[3] Về chi phí giám định chký: Vợ chng ông Đào Văn P Nguyễn Thị Ngọc
T nghĩa vụ trả lại cho ông Viết H số tiền 5.670.000 đồng (chi phí giám định chữ
ký, chữ viết mà nguyên đơn đã nộp).
[4] Về án phí:
[4.1] Án phí dân sự thẩm: Nguyên đơn ông Viết H không phải chịu án p
dân sự thẩm được nhận lại số tiền 19.914.300 đồng tạm ứng án phí đã nộp (ông
Bùi Văn Cảnh nộp thay) theo Biên lai số AA/2023/0005026 ngày 27/12/2023, tại Chi
cục Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Buộc bị đơn v chồng ông Đào Văn P và Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu
36.300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
[4.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu 300.000 đồng án
phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tạmng đã nộp theo biên lai thu
số: AA/2023/0013670 ngày 08/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Buôn
Ma
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
8
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
[5]. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PC THẨM
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND THADS TP. Buôn Ma Thuột;
- Chi cục THADS TP. Buôn Ma Thuột;
- Các đương sự;
- Công thông tin điện tử Tòa án; (đã ký)
- Lưu hồ sơ vụ án
Nguyễn Thị Nhung
Tải về
Bản án số 137/2025/DS-PT Bản án số 137/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 137/2025/DS-PT Bản án số 137/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất