Bản án số 71/2025/DS-ST ngày 27/03/2025 của TAND TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 71/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 71/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 71/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 71/2025/DS-ST ngày 27/03/2025 của TAND TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Thủ Dầu Một (TAND tỉnh Bình Dương) |
Số hiệu: | 71/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | 1. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT
TỈNH BÌNH DƯƠNG
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 71/2025/DS-ST
Ngày: 27 - 3 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng đặt cọc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trần Thanh Bình
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Huỳnh Thị Thùy Dương
2. Bà Nguyễn Thị Thu Hương
- Thư ký phiên toà: Ông Hoàng Văn Quyết - Thư ký Toà án nhân dân thành
phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương tham gia phiên tòa: Bà Lê Thị Hoài - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thủ Dầu
Một xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 914/2024/TLST-DS ngày 08
tháng 11 năm 2024 về việc “tranh chấp hợp đồng đặt cọc” theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số 73/2025/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 3 năm 2025, giữa các đương
sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm: 1996; địa chỉ thường trú:
Tổ G, Ấp A, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Nai; địa chỉ liên hệ: N, đường N, Khu đô
thị T, phường L, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Yến N, sinh năm
1999; địa chỉ: ấp B, xã N, huyện M, tỉnh Bến Tre. Là người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn (hợp đồng ủy quyền ngày 11/9/2024)., sđt 0352.771.478,
có mặt
2. Bị đơn: Công ty Cổ phần Đ (viết tắt Công ty Đ); địa chỉ trụ sở: Số B
đường Đ, Khu phố C, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; địa chỉ chi nhánh
A: Số C Đường C, Khu A, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Chánh T, sinh năm
1988; địa chỉ: Số E Đại lộ B, Khu phố G, phường H, thành phố T, tỉnh Bình
Dương, là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (Hợp đồng ủy quyền ngày
24/02/2025), sđt 0935.372.752, có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn T1, sinh năm 1998;
địa chỉ thường trú: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; địa chỉ liên hệ:Tiệm
2
N1, số H, Đường số I, Khu phố A, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương, sđt
0909.861.961, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Tại Đơn khởi kiện đề ngày 10/9/2024 và quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn và đại diện nguyên đơn trình bày:
Ngày 05/7/2023, ông Nguyễn Thanh H có ký Phiếu xác nhận đăng ký giao
dịch bất động sản tọa lạc tại: dự án E, thuộc ấp T, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước
(sau đây gọi là “Hợp đồng đặt cọc”) với Công ty Cổ phần Đ (sau đây gọi là "Công
ty Đ”), địa chỉ: số C Đường C, Khu A, P. P, TP ., tỉnh Bình Dương để nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất lô đất C6, số thửa: 3537, tờ bản đồ số: TĐ 706-
2022, diện tích 1021,2 m² tọa lạc tại dự án E, ấp T, xã L, huyện L, tỉnh Bình
Phước.
Trước khi ký Hợp đồng đặt cọc, ông H được nhân viên của Công ty Đ tư
vấn lô đất C6 thuộc dự án Khu đô thị E, đây là “dự án” do chính Công ty Đ là chủ
đầu tư và trực tiếp mở bán, do vậy mới có giá bán rẻ hơn trên thị trường với giá là
289.000.000 đồng và đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
Công ty Đ Đất Việt. Tin lời nhân viên tư vấn, ông H đã đặt cọc trước 50.000.000
đồng, phần còn lại 239.000.000 đồng sẽ thanh toán vào thời điểm 2 bên ký kết
Hợp đồng công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Theo Hợp đồng đặt cọc thì đất thuộc Dự án Ecolake Valley, nhưng khi đến
Địa chính xã L để tìm hiểu thì ông H được biết tại địa phương không có dự án nào
có tên là Ecolake V do Công ty Đ làm chủ đầu. Như vậy, tên dự án Ecolake
Valley do Công ty Đ Đất Việt tự tạo và lập ảo, tại thời điểm ký kết Hợp đồng đặt
cọc nhân viên đã cố ý lừa dối, tư vấn làm cho ông H tin rằng lô đất C6 thuộc dự
án khu sinh thái đã được Nhà nước cấp nên ông H mới đồng ý giao dịch.
Đồng thời, lô đất ông H mua thuộc quyền sử dụng của ông Bùi Văn K, sinh
năm 1975, địa chỉ ấp T, xã Đ, huyện T, tỉnh Đồng Nai, đến ngày 29/5/2023 ông K
chuyển nhượng thửa đất trên cho ông Lê Văn T1, sinh năm 1998, thôn T, xã H,
huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Công ty Đ không phải là chủ sử dụng đất, không có
thẩm quyền để chuyển nhượng, không được chủ đất là ông Lê Văn T1 ủy quyền
nhưng lại ký kết Hợp đồng đặt cọc và nhận tiền của ông H là hoàn toàn trái quy
định của pháp luật. Thời điểm đặt cọc, ông H không được thông tin hay nhận bất
cứ giấy tờ gì liên quan đến giao dịch giữa Công ty Đ và ông Lê Văn T1.
Vì vậy, ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một,
tỉnh Bình Dương giải quyết:
- Tuyên “vô hiệu” Hợp đồng đặt cọc (V/v: giao dịch bất động sản tọa lạc
tại: dự án E, ấp T, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước) ký ngày 05/7/2023 giữa ông H
và Công ty Đ do Công ty Đ đã cố ý lừa dối, cung cấp các thông tin lô đất sai sự
thật.
Buộc Công ty Cổ phần Đ phải hoàn trả cho ông H số tiền 50.000.000 đồng
(năm mươi triệu đồng) và một khoản tiền lời theo Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015
3
tạm tính trong vòng 12 tháng là 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) và được tính
tiếp đến ngày Tòa án đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.
Nguyên đơn giao nộp các tài liệu, chứng cứ sau: Hợp đồng ủy quyền ngày
11/9/2024 của ông H cho bà N (Bản chính); 01 Phiếu thu số PT 39/2023 ngày
05/7/2023 của Công ty Cổ phần Đ (bản photo); 01 Phiếu xác nhận đăng ký giao dịch
ngày 05/7/2023 giữa Công ty Cổ phần Đ và ông Nguyễn Thanh H (bản photo); Công
văn số 287 ngày 22/3/2023 của Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh B về việc giải quyết
khó khăn, vướng mắc khi thực hiện nhiệm vụ của Chi nhánh VPĐKĐĐ huyện L (bản
scan).
- Tại Văn bản trình bày ý kiến đề ngày 30/12/2024 và quá trình giải quyết
vụ án, bị đơn và đại diện bị đơn trình bày:
Ngày 05/7/2023 ông Nguyễn Thanh H và Công ty Cổ phần Đ có ký kết
Phiếu xác nhận đăng ký giao dịch về việc giao dịch bất động sản là thửa đất số:
3537, tờ bản đồ số: TĐ 706-2022 tọa lạc tại ấp T, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước
với giá trị giao dịch là 289.000.000 đồng. Ông Nguyễn Thanh H đồng ý ứng tiền
để giao dịch sản phẩm nêu trên với số tiền 50.000.000 đồng. Toàn bộ thông tin,
giấy tờ, hồ sơ tình trạng pháp lý về quyền sử dụng đất nêu trên, công ty đã cung
cấp cho nguyên đơn khi các bên ký Phiếu xác nhận đăng ký giao dịch, ông H đã
đọc hiểu rõ, nhận đầy đủ thông tin;
Căn cứ vào thời hạn ký hợp đồng quy định tại Điều 3 và thời hạn thanh toán
ký công chứng tại Đợt 1 Điều 4 Phiếu xác nhận đăng ký giao dịch, theo đó trong
thời hạn 30 ngày kể từ ngày đặt cọc - tức là chậm nhất vào ngày 05/8/2023, các
bên sẽ tiến hành ký kết hợp đồng và phía ông H có nghĩa vụ thanh toán cho Công
ty Đ Đất Việt 100% giá trị chuyển nhượng, tương ứng số tiền là 234.000.000
đồng. Công ty Đ đã gửi Giấy mời (lần 1, lần 2), khi đã quá 30 ngày kể từ ngày đặt
cọc cho ông H. Thế nhưng ông H không đến Công ty và không có mặt tại tổ chức
hành nghề công chứng theo thông báo từ phía Công ty để tiến hành thủ tục ký hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng như không thanh toán giá trị giao
dịch. Nhân viên của Công ty Đ đã đợi ở tổ chức hành nghề công chứng để hỗ trợ
ký hợp đồng nhưng ông H vẫn vắng mặt không đến và không có bất kỳ thông báo
nào phản hồi lại cho Công ty Đ. Sau đó, mặc dù phía Công ty Đ đã nhiều lần liên
hệ với ông H qua số điện thoại, zalo, facebook, tin nhắn nhưng vẫn không liên lạc
được cũng như không nhận được bất kỳ phản hồi nào về việc thanh toán, ký
chuyển nhượng hay xin lại tiền đã thanh toán của ông H từ đó đến nay.
Căn cứ theo Điều 5 Cam kết chung của Phiếu xác nhận đăng ký giao dịch,
các bên thoả thuận: “Bên B cam kết ứng tiền và thực hiện ký kết các loại Hợp
đồng trong vòng 30 ngày kể từ ngày ký Phiều xác nhận này. Trường hợp bên B
không ký Hợp đồng với Bên A và (hoặc) Chủ đầu tư hoặc không ứng tiền đúng, đủ
theo quy định, thì số tiền bên B đã nộp được xem như bên B chỉ trả cho bên A
trong quá trình tư vấn, chăm sóc và bên B sẽ không nhận lại số tiền đã nộp theo
Phiếu này". Vì vậy, bị đơn đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
ông H.
Bị đơn giao nộp cho tòa án tài liệu, chứng cứ sau: Giấy CNQSD đất số phát
hành DG129312, số vào sổ CS 02891 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp
4
cho ông Bùi Văn K ngày 26/8/2022, biến động sang tên chủ sử dụng đất cho ông Lê
Văn T1 ngày 29/5/2023 (bản photo); Hợp đồng ủy quyền số 01 ngày 30/5/2023 của
ông Lê Văn T1 cho Công ty Cổ phần Đ (bản photo); Phiếu xác nhận đăng ký giao
dịch ngày 05/7/2023 giữa Công ty CP Đ (bản photo); Giấy mời lần 1 ngày
01/8/2023; Giấy mời lần 2 ngày 06/8/2023 và Thông báo số 08 ngày 15/8/2023 của
Công ty CP Đ cho ông Nguyễn Thanh H (bản chính); Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp của Công ty CP Đ (bản đó mộc dấu đỏ của cty); Văn bản trình bày ý
kiến ngày 30/12/2024 của Công ty Đ (bản chính); Giấy ủy quyền ngày 30/12/2024
của Công ty CP Đ cho bà Nguyễn Thị Hồng P (bản chính); CCCD của bà P (bản
photo); Giấy ủy quyền ngày 24/02/2025 của Công ty CP Đ cho ông Nguyễn Chánh T
(bản chính); CCCD của ông T (bản photo); Bản tự khai ngày 31/12/2024 của bà P
(bản chính).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn T1: Quá trình giải
quyết vụ án, ông T1 không đến Tòa án làm việc, không giao nộp văn bản trình bày
ý kiến và chứng cứ cho Tòa án.
Tại phiên tòa,
- Đại diện nguyên đơn trình bày: Rút lại yêu cầu khởi kiện về tiền lãi,
không giao nộp thêm chứng cứ cho Tòa án.
- Đại diện bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giữ
nguyên ý kiến trình bày của bị đơn
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn T1 đã được triệu tập
hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự,
Tòa xét xử vắng mặt ông T1.
- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện tiền lãi, xét thấy
việc rút yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện, phù hợp quy định tại
Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử
phần tiền lãi.
Căn cứ vào lời trình bày của ông H và chứng cứ do ông H giao nộp như
Phiếu xác nhận đăng ký giao dịch ngày 05/7/2023, Phiếu thu số PT 39/2023 ngày
05/7/2023; căn cứ chứng cứ do Tòa án thu thập từ Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai huyện L và sự thừa nhận của bị đơn về việc nhận số tiền cọc 50.000.000
đồng, có căn cứ xác định Công ty Đ đã có hành vi lừa dối ông H để ký kết hợp
đồng đặt cọc. Do đó, căn cứ Điều 127 Bộ luật Dân sự, quy định về giao dịch dân
sự vô hiệu do bị lừa dối, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H, tuyên
Phiếu xác nhận đăng ký giao dịch ngày 05/7/2023 vô hiệu.
5
Căn cứ quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự: “Giao dịch dân sự vô hiệu
không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ
thời điểm giao dịch được xác lập. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi
phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận… Bên có lỗi gây
thiệt hại thì phải bồi thường…”. Do đó, cần buộc Công ty Đ trả lại cho ông H số
tiền cọc đã nhận 50.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên toà, sau khi nghe các đương sự trình bày ý kiến, yêu cầu; ý kiến phát biểu
của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là loại việc thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án (quy định tại khoản 3, Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự). Do bị
đơn có trụ sở chi nhánh tại thành phố T, tỉnh Bình Dương nên thẩm quyền giải
quyết thuộc Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một (quy định tại điểm a khoản
1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự). Về thời hiệu khởi
kiện, quá trình giải quyết vụ án, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
không có yêu cầu Tòa án áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện nên Tòa án
không nhận định về thời hiệu khởi kiện, xác định tranh chấp này thuộc trường hợp
không áp dụng thời hiệu khởi kiện quy định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng
dân sự.
[2] Xét chứng cứ, ý kiến, yêu cầu khởi kiện của các đương sự, thấy rằng:
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn Công ty Đ đều thừa nhận
có ký kết Phiếu xác nhận đăng ký giao dịch ngày 05/7/2023 với nguyên đơn ông
Nguyễn Thanh H và nhận số tiền cọc 50.000.000 đồng của ông H theo Phiếu thu
số PT 39/2023 ngày 05/7/2023 do ông H giao nộp. Sự thừa nhận này là tình tiết
không cần phải chứng minh quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Xét Phiếu xác nhận đăng ký giao dịch ngày 05/7/2023, thấy rằng: Ngày
30/5/2023, ông Lê Văn T1 và Công ty Đ ký kết hợp đồng ủy quyền, nội dung:
Ông T1 ủy quyền cho Công ty Đ (hoặc bên thứ 3 do Công ty Đ làm đại diện) phân
phối, tư vấn, giao dịch môi giới cho khách hàng sản phẩm là thửa đất số 3537, tờ
bản đồ số TĐ 706-2022 diện tích 1.021,2 m
2
, tọa lạc tại ấp T, xã L, huyện L, tỉnh
Bình Phước đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DG
129312, số vào sổ cấp GCN: CS 02891 ngày 26/8/2022 cho ông Bùi Văn K, cập
nhật thay đổi chủ sử dụng đất cho ông Lê Văn T1 ngày 29/5/2023.
Ngày 05/7/2023, Công ty Đ (do bà Đỗ Thị H1, Giám đốc sàn B đại diện) ký
kết Phiếu xác nhận đăng ký giao dịch thửa đất trên với ông H bằng mộc dấu của
Công ty Đ là đúng quy định tại Điều 562 Bộ luật Dân sự. Tại Biên bản kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 25/02/2025 (BL 63) và tại Văn
bản trình bày ý kiến ngày 28/02/2025 (BL 17), đại diện nguyên đơn bà Nguyễn
Thị Yến N cho rằng người ký kết Phiếu xác nhận đăng ký giao dịch ngày
05/7/2023 với ông H không đúng thẩm quyền, bà Đỗ Thị H1 hoặc bà Lê Thị L
(nhân viên bán hàng) không được Công ty Đất Việt ủy quyền để tham gia giao
6
dịch và nhận tiền cọc của ông H là không đúng quy định nêu trên, vì Công ty Đ đã
được ông T1 ký kết hợp đồng ủy quyền, còn bà H1 được Công ty Đ ủy quyền theo
Giấy ủy quyền số 03/2023/GUQ-TGĐV ngày 01/7/2023 ghi rõ trong Phiếu xác
nhận đăng ký giao dịch ngày 05/7/2023.
Theo nội dung ghi trong Phiếu xác nhận đăng ký giao dịch ngày 05/7/2023,
thể hiện: thửa đất 3537 thuộc Block C, mã sản phẩm 06, tọa lạc tại dự án E thuộc
ấp T, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước, mặt trước của thửa đất hướng ra bờ hồ sẽ
được rải đá.
Tuy nhiên, căn cứ tài liệu, chứng cứ do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất
đai huyện L cung cấp (BL 78 - 139), thấy rằng: Thửa đất 3537 là loại đất trồng
cây lâu năm, có tứ cận: hướng Đông giáp thửa đất 3538, hướng Tây giáp thửa đất
3536, hướng Nam giáp thửa đất 3275, hướng Bắc giáp thửa đất 3507. Thửa đất
3537 và các thửa đất giáp với thửa đất 3537 có nguồn gốc đất của ông Bùi Văn K,
được tách thành nhiều thửa để chuyển nhượng cho nhiều người, trong đó thửa
3537 chuyển nhượng cho ông Lê Văn T1, là đất của tư nhân, không phải đất dự án
nên không có Block C, không có dự án E, không có mặt trước giáp bờ hồ như
Công ty Đ đã tư vấn và đưa ra thông tin không đúng sự thật, làm cho ông H hiểu
lầm đất dự án, đồng ý đặt cọc số tiền 50.000.000 đồng cho Công ty Đ là có hành
vi lừa dối trong giao dịch. Do đó, căn cứ Điều 127 Bộ luật Dân sự, quy định về
giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, Tòa chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
H, tuyên Phiếu xác nhận đăng ký giao dịch ngày 05/7/2023 vô hiệu.
Xét yêu cầu khởi kiện buộc Công ty trả lại số tiền cọc 50.000.000 đồng và
tiền lãi 20%/năm trên số tiền đặt cọc, thấy rằng: Tại Điều 131 Bộ luật Dân sự quy
định: “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Khi giao dịch
dân sự vô vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận… Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường…”. Căn cứ quy
định tên, Tòa buộc Công ty Đ trả lại cho ông H số tiền cọc 50.000.000 đồng.
Về tiền lãi, tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn đã rút yêu cầu khởi kiện về
tiền. Việc rút yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không vượt quá phạm vi khởi
kiện ban đầu, phù hợp Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự nên Tòa chấp nhận, đình
chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện về tiền lãi của ông H.
[3] Từ những nhận định trên, xét thấy ý kiến phát biểu về quan điểm giải
quyết vụ án của Kiểm sát viên có căn cứ chấp nhận.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Công ty Đ phải chịu án phí đối với yêu cầu
khởi kiện của ông H được Tòa án chấp nhận. Ông H được nhận lại số tiền tạm ứng
án phí đã nộp trước đây tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều
40, các điều 92, 95, 147, 227, 228, 244, 266, 271, 273, 278, 280 Bộ luật Tố tụng
dân sự;

7
- Căn cứ các điều 116, 127, 131, 562 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn ông Nguyễn Thanh H đối với bị đơn Công ty Đ về việc tranh chấp
hợp đồng đặt cọc.
Tuyên: Phiếu xác nhận đăng ký giao dịch ngày 05/7/2023 giữa ông H và
Công ty Đ vô hiệu. Buộc Công ty Đ trả lại ông H số tiền cọc: 50.000.000đ (năm
mươi triệu đồng) theo Phiếu xác nhận đăng ký giao dịch ngày 05/7/2023.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ
luật Dân sự năm 2015.
2. Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện về tiền lãi của ông H đối với C Đất
Việt.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Cty Đất Việt chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), nộp tại Chi cục Thi hành
án dân sự thành phố Thủ Dầu Một.
- Ông H được nhận lại số tiền 1.800.000đ (một triệu tám trăm ngàn đồng)
đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003269 ngày
22/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một.
4. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo
bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền
kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết
bản án. Viện Kiểm sát có quyền kháng nghị bản án theo quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND TP. Thủ Dầu Một;
- Các đương sự;
- Lưu HS, VP
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
8
Trần Thanh Bình
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm