Bản án số 69/2025/DS-PT ngày 21/04/2025 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 69/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 69/2025/DS-PT ngày 21/04/2025 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Phước
Số hiệu: 69/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Đặt cọc nhưng đất có biến động cần điều chỉnh lại nên không tiếp tục thực hiện hợp đồng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Bản án số: 69/2025/DS-PT
Ngày: 21 - 04 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng đặt cọc
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Đinh Thị Quý Chi
Bà Nguyễn Thị Nga
Ông Nguyễn Văn Nhân
- Thư phiên tòa: Ông Trần Minh - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Phước.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước: Đỗ Thị Hoa -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 15 21 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Phước xét x phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số
09/2025/TLPT-DS ngày 09 tháng 01 năm 2025 vTranh chấp hợp đồng đặt
cọc”. Do Bản án dân sthẩm số 68/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa
vụ án ra t xử phúc thẩm số 52/2025/QĐXX-PT ngày 27/2/2025, giữa các
đương sự:
* Nguyên đơn: Cao Thị Thanh U, sinh năm 1985; địa chỉ: tổ A, ấp A,
xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước (có mặt).
* Bị đơn:
Tạ Thị H, sinh năm 1963; địa chỉ: tổ D, ấp A, xã T, huyện H, tỉnh Bình
Phước (có mặt).
Người đại diện theo uỷ quyền của H: ông Tạ Hữu H1, sinh năm 1966;
địa chỉ: số nhà A đường B, phường P, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (có
mặt).
* Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Chị Đoàn Thị Thu H2, sinh năm 1990 (xin vắng mặt);
- Anh Đoàn Đình S, sinh năm 1994 (xin vắng mặt);
- Anh Đoàn Đình B, sinh năm 2003 (xin vắng mặt);
2
Cùng địa chỉ: Tổ D, ấp A, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước.
Người kháng cáo: bị đơn bà Tạ Thị H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 18/10/2023, đơn khởi kiện bổ sung ngày
31/5/2024, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Cao Thị Thanh U trình
bày:
Ngày 20/6/2022, bà Cao Thị Thanh U hợp đồng đặt cọc với ông Đoàn
Đình H3 (đã chết ngày 15/12/2022), Tạ Thị H, người làm chứng Đào
Thị Thu H4, H4 xác nhận chữ trong hợp đồng đặt cọc của ông H3
H4. Đồng thời, H4 khẳng định những nội dung kết, thỏa thuận trong
hợp đồng đặt cọc các bên kết tự nguyện cùng thống nhất. Sau khi hợp
đồng đặt cọc phía U là người thực hiện việc thủ tục tách thửa để thực hiện
việc tách thửa. Sau khi nộp hồ sơ tách thửa thì Chi nhánh VPĐKĐĐ huyện Hớn
Quản trả hồ do đất biến động. Sau khi văn bản của Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai huyện H hướng dẫn chủ sử dụng liên hệ để xác định lại
nguyên nhân đất bị biến động thì Cao Thị Thanh U gặp ông Đoàn Đình
H3, Tạ Thị H thỏa thuận xin lại tiền cọc nhưng ông H3 H không đồng ý
nên U khởi kiện ra Tòa án yêu cầu H3 H cùng có nghĩa vtrả lại tiền cọc
cho Cao Thị Thanh U. Do ông H3 chết nên những người kế thừa quyền
nghĩa vụ tố tụng của ông H3 Tạ Thị H, chị Đoàn Thị Thu H2, anh Đoàn
Đình S, anh Đoàn Đình B phải nghĩa vụ liên đới với TThị H hoàn trả số
tiền cọc 500.000.000 đồng cho Cao Thị Thanh U. U yêu cầu a án giải
quyết như sau:
- Hủy hợp đồng đặt cọc ngày 20/6/2022 giữa bà Cao Thị Thanh U với ông
Đoàn Định H5, bà Tạ Thị H.
-Yêu cầu bà Tạ Thị H cùng với những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng của ông Đoàn Đình H3 liên đới trả lại số tiền 500.000.000 đồng cho bà Cao
Thị Thanh U.
- Giả sử hợp đồng hiệu thì Cao Thị Thanh U đề nghị Tòa án tuyên
hợp đồng vô hiệu và không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu.
Quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa bị đơn Tạ Thị H cùng với
người đại diện theo ủy quyền ông Tạ Hữu H1 thống nhất trình bày:
Tạ Thị H, ông Tạ Hữu H1 thống nhất với những nội dung trình bày
của U về việc hợp đồng đặt cọc những nội dung ghi trong hợp đồng là
hoàn toàn tự nguyện. Tạ Thị H, ông Đoàn Đình H3 (đã chết ngày
15/12/2022) người tên trong hợp đồng đặt cọc đã nhận từ U số tiền
cọc là 500.000.000 đồng.
Sau khi hợp đồng đặt cọc thì thủ tục tách thửa do U thực hiện.
Khoảng hơn 3 tháng sau khi hợp đồng đặt cọc thì bà U sang nhà nói phải
uỷ quyền cho U tbà U mới đủ điều kiện làm sổ nhưng chưa hiện thì ông
3
H3 bị chết thì bà H cầm sổ ra làm thủ tục thừa kế thì phát hiện mất trang bổ sung
xoá thế chấp. Sau đó đã khắc phục và bây giờ đứng tên một mình bà H. H
xác nhận đã nhận được từ U số tiền 500.000.000 đồng.Thực tế đất biến
động, sau này khi làm thtục thừa kế thì vẫn phải làm biến động. Sau khi làm
thủ tục xong thừa kế thì bà H vẫn muốn chuyển nhượng cho U nhưng U
không mua nữ.
H vẫn muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc các bên đã kết
không đồng ý trả số tiền 500.000.000 đồng. Theo bản chất của vụ án đề nghị
Toà án giải quyết theo pháp luật, nếu căn cứ hợp hiệu thì đề nghị giải
quyết trong vụ án khác khi có căn cứ rõ ràng.
Người kế thừa quyền và nghĩa của ông Đoàn Đình H3, ông Đoàn Đình B,
ông Đoàn Đình S trình bày:
Thửa đất số 99, tờ bản đồ số 09 tọa lạc tại ấp A, T, huyện H tài sản
của ông H3 bà H không liên quan đến các con. Đối với yêu cầu tranh chấp
của bà U đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 68/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”
của nguyên đơn bà Cao Thị Thanh U.
Tuyên bố chấm dứt hợp đồng đặt cọc ngày 20/5/2022 giữa Cao Thị
Thanh U với bà Tạ Thị H, ông Đoàn Đình H3.
Buộc Tạ Thị H, những người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của
ông H3 bao gồm: Tạ Thị H, anh Đoàn Đình S, anh Đoàn Đình B, chị Đoàn
Thị Thu H2 trong giới hạn tài sản do ông Đoàn Đình H3 để lại phải nghĩa vụ
trả lại cho bà Cao Thị Thanh U số tiền 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu
đồng).
Ngoài ra, Bản án còn tuyên phần án phí, nghĩa vụ thi hành án quyền
kháng cáo của các đương sự theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn bà Tạ Thị H có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa
án cấp phúc thẩm giải quyết sửa Bản án thẩm theo hướng không chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xác định bà U yêu cầu bà
H cùng các anh chị Đoàn Đình S, anh Đoàn Đình B, chị Đoàn Thị Thu H2 phải
liên đới trả lại cho bà U số tiền cọc 500.000.000 đồng.
- Bị đơn giữ nguyên kháng cáo.
- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước:
Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng: quá trình giải quyết vụ án của Tòa án
từ khi thụ lý đến khi xét xử phúc thẩm của Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội đồng
4
xét xử các đương sự đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
Về nội dung giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản
1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của
bị đơn bà Tạ Thị H. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 68/2024/DS-ST ngày
25/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra công khai tại phiên toà
và kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
* Về tố tụng:
[1] Đơn kháng o của bị đơn làm trong thời hạn luật định, hình thức,
nội dung và phạm vi kháng cáo phù hợp với quy định tại các điều 271, 272, 273
của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 nên đđiều kiện được xem xét giải quyết
theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về cách tham gia tố tụng của các anh chị Đoàn Đình S, anh Đoàn
Đình B, chị Đoàn Thị Thu H2: Bản án thẩm xác định các anh chị này
người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông Đoàn Đình H3 không chính
xác. Bởi lẽ, trước khi nguyên đơn Cao Thị Thanh U khởi kiện tông H3 đã
chết vào ngày 15/12/2022 (bút lục 83), thời điểm Tòa thụ vụ án thì ông H3
không tham gia tố tụng. Do đó, các anh chị Sĩ, B H2 không phải những
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H3. Bên cạnh đó, Hội đồng xét
xử thấy rằng, mặc trong đơn khởi kiện bsung đề ngày 31/5/2024 nguyên
đơn U trình bày yêu cầu những người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng
của ông H3 liên đới trả cho tôi số tiền 500.000.000 đồng cùng với H(bút
lục 38) nhưng bà U lại không nêu cụ thể những người kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng của ông H3 những ai (họ tên, năm sinh, địa chỉ cụ thể) nên cũng
không thể xác định những người này bị đơn. vậy, các anh chị Đoàn Đình
S, anh Đoàn Đình B, chị Đoàn Thị Thu H2 được xác định những người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phù hợp. Do đó, cần sửa một phần Bản án
thẩm về xác định lại tư cách tham gia tố tụng của những người này.
* Về nội dung tranh chấp:
Xét đơn kháng cáo của bị đơn bà Tạ Thị H, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[3] Đối với yêu cầu khởi kiện về việc hủy hợp đồng đặt cọc ngày
20/6/2022 giữa Tạ Thị H, ông Đoàn Đình H3 với Cao Thị Thanh U: U
yêu cầu Tòa án tuyên hủy hợp đồng này cho rằng không muốn tiếp tục
thực hiện hợp đồng. Còn bđơn H tcho rằng vẫn muốn tiếp tục thực
hiện hợp đồng nhưng nếu bà U không muốn tiếp tục thì bà cũng đồng ý hủy hợp
đồng. vậy, Hội đồng xét xử thấy cần giữ nguyên quyết định của Bản án
thẩm về phần này, tuyên hủy Hợp đồng đặt cọc ngày 20/6/2022 giữa Tạ Thị
H, ông Đoàn Đình H3 với bà Cao Thị Thanh U.
5
[4] Đối với yêu cầu buộc bị đơn H những người con của H ông
H3 các anh chị Đoàn Đình S, anh Đoàn Đình B, chị Đoàn Thị Thu H2 phải
liên đới trả lại cho bà U số tiền cọc 500.000.000 đồng: tại phiên toà, các bên đều
thừa nhận do vợ chồng bà Tạ Thị H, ông Đoàn Đình H3 và bà Cao Thị Thanh U
có thỏa thuận bà H ông Hiệp đồng Ý chuyển nhượng cho bà U diện tích đất 20m
x 50m ây một phần trong tổng diện tích đất 5580m
2
thuộc thửa 99, tờ bản
đồ 09 tọa lạc tại ấp A, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước mà bà H ông H3 đã được
UBND huyện H cấp GCNQSDĐ số BO 532421, số vào sổ cấp GCN CH
01293 ngày 30/8/2013- bút lục 55) với giá 2.200.000.000 đồng. Thời điểm này,
thửa đất đang được H ông H3 thế chấp tại ngân hàng. Vào ngày 20/6/2022,
U vợ chồng H ông H3 kết Hợp đồng đặt cọc (bút lục 16) với nội
dung bản: ngày 20/6/2022, U đặt cọc cho H ông H3 số tiền
500.000.000đồng, Trong thời hạn 150 ngày, kể từ ngày 20/6/2022 đến ngày
21/11/2022 hai bên sẽ ra phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng
QSDĐ, khi hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ bên B (tức U- HĐXX) phải
thanh toán số tiền cho bên A là 1.700.000.000 đồng…..Đến thời hạn công chứng
nếu chưa có giấy chứng nhận QSD đất thì đợi có giấy CNQSDĐ sẽ công chứng.
Đất không tranh chấp, không quy hoạch, không thừa kế, cắm mốc ranh giới
ràng, đất đủ diện tích”. Ngay sau khi hai bên kết Hợp đồng đặt cọc, gia đình
H ông H3 tiến hành giải chấp tại ngân hàng đồng thời các bên thỏa thuận
U người chịu trách nhiệm chủ động liên hệ với quan nhà nước thẩm
quyền để làm thủ tục tách thửa. Do đó, bị đơn H ông H3 đã giao bản gốc
GCNQSDĐ cho phía U để làm thủ tục xóa thế chấp. Đến ngày 27/7/2022, bà
U nộp h sơ tách thửa tại Bộ phận Một cửa huyện H. Ngày 18/8/2022, Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai có văn bản số 1512/PTHS-CN.VPĐKĐĐ với
nội dung: Ranh gii thửa đất số 99, tbản đồ 09 của H ông H3 đang s
dụng hiện trạng thay đổi so với GCNQSDĐ (Đính kèm theo đồ đo đạc
hiện trạng thửa đất). Đề nghị …chủ sử dụng liên hệ UBND T xác minh làm
nguồn gốc qtrình thay đổi hiện trạng thửa đất. (Nguyên nhân thay đổi
do đo đạc chính quy sai hay do chủ sử dụng đất thống nhất lại ranh đất)”
(BL 53).
[4] Nguyên đơn U cho rằng: đặt cọc nhận chuyển nhượng diện tích
đất trên nhằm mục đích chuyển nhượng lại cho người khác để hưởng tiền
chênh lệch do thời điểm đó việc mua bán đất trên thị trường diễn ra sôi động.
Ngày 27/7/2022, nộp hồ tách thửa, đến ngày 18/8/2022 thì bà nhận được
Phiếu trả hồ hướng dẫn số 1512/PTHS-CN của Chi nhánh Văn phòng
đăng đất đai huyện H, trong đó thể hiện thửa đất của H ông H3 biến
động, U nghĩ rằng việc điều chỉnh biến động có thể sẽ mất nhiều thời gian để
làm thủ tục tách thửa và ra sổ nên không muốn tiếp tục hợp đng nữa. Khi
đó, đến xin lại tiền cọc nhưng H ông H3 không đồng ý. U không
thừa nhận có việc đồng ý thỏa thuận sẽ giao thêm cho vợ chồng bà H ông H3
số tiền 700.000.000 đồng thì vợ chồng H mới ủy quyền sử dụng đất cho
như H trình bày. bà U cho rằng, sau khi nhận được Phiếu trả hồ
hướng dẫn số 1512 bà đã thông báo cho vợ chồng H ông H3 việc đất có biến
6
động, do H ông H3 không đồng ý trả lại cho tiền cọc nên nói vợ
chồng H ủy quyền cho để đi làm thủ tục tách thửa nhưng vợ chồng bà
H, ông H3 cũng không đồng ý vì vậy bà không làm thủ tục tách thửa được. Bà U
khẳng định, quá trình ông H3 điều trị tại bệnh viện H hỏi vay tiền của
U để chi phí viện phí nên U chuyển khoản cho bà H hai lần, mỗi lần
50.000.000 đồng, tổng cộng 100.000.000 đồng nhưng sau đó H đã trả lại cho
U toàn bộ số tiền 100.000.000 đồng đã vay này. Đồng thời, bà U xác nhận:
mặc trong nội dung chuyển tiền ghi tiền cọc đất nhưng việc ghi này
do bà tự ghi nghĩ rằng sổ đất mình đang giữ thì ghi như vậy cho đảm bảo chứ
hoàn toàn không việc bồi cọc. Theo U, do đất của H ông H3 biến
động, không đúng diện tích được cấp trong GCNQSDĐ nên H ông H3
người có lỗi vì vậy phải có trách nhiệm trả lại cho bà U tiền cọc.
[5] Còn phía bị đơn H người đại diện theo ủy quyền thì cho rằng,
việc các bên không ký kết được hợp đồng chuyển nhượng do U không có
đủ tiền để nhận chuyển nhượng; hơn nữa, sau khi ông H3 bà H giải chấp và giao
bản gốc GCNQSDĐ cho U đi làm thủ tục xóa thế chấp, liên hệ làm thtục
tách thửa thì khoảng hơn 03 tháng sau U mới sang nói là đất biến động, phải
ủy quyền thì mới làm sđược. Lúc này do thấy U chưa trả hết tiền vợ
chồng bà cũng cần tiền để xây nhà nên vợ chồng nói bà U muốn được ủy
quyền thì phải giao thêm cho vợ chồng H 700.000.000 đồng nữa. Lúc này
U đồng ý sẽ đưa trước 200.000.000 đồng, nửa tháng sau sẽ đưa tiếp 500.000.000
đồng. Tuy nhiên, U chưa kịp đưa tiền thì ông H3 bị đột quỵ do tai biến.
Trong thời gian ông H3 điều trị tại bệnh viện thì bà U 02 lần chuyển cho
H, mỗi lần 50.000.000 đồng, tổng cộng 100.000.000 đồng. Sau khi ông H3 chết
thì bà H yêu cầu U giao lại bản gốc GCNQSDĐ để bà đi làm thủ tục thừa kế,
khi làm thủ tục thì lại phát hiện bị mất trang bổ sung xóa thế chấp kèm theo
GCN nên H phải làm thêm thủ tục hành chính theo quy định để được đứng
tên chủ sử dụng đất. Sau đó, bà H đã được cấp GCNQSDĐ số DK919212, số
vào sổ cấp GCNQSDD VP 00305 do Văn phòng đăng đất đai tỉnh B cấp
ngày 31/7/2023 với diện tích 7539,5m
2
, thuộc thửa 99, tbản đồ 09. Sau khi
được cấp GCN mới, đã được điều chỉnh biến động (diện tích tăng lên) H yêu
cầu bà U ký kết hợp đồng chuyển nhượng thì bà U nói không có tiền mua nữa và
xin lại 250.000.000 đồng tiền cọc nhưng bà H không đồng ý mà yêu cầu tiếp tục
hợp đồng chuyển nhượng thì bà U khởi kiện ra Tòa đòi tiền cọc. Do bà U đã o
dài thời gian làm thủ tục tách thửa, cthể sau khi hợp đồng đặt cọc ngày
20/6/2022 giải chấp tmãi tới ngày 27/7/2022 (37 ngày sau) thì U mới
nộp hồ sơ tách thửa tại Bộ phận Một cửa huyện H (bút lục E), sau đó lại giữ bản
gốc GCNQSDĐ không liên hsớm với gia đình H đgia đình bà H đi
làm thủ tục điều chỉnh biến động trong vòng 150 ngày. H luôn nguyện
vọng tiếp tục chuyển nhượng đất, U người không muốn tiếp tục nhận
chuyển nhượng chứ không phải bà nên bà không đồng ý trả lại tiền cọc.
[6] Hội đồng xét xử xét thấy, diện tích 20m x 50m mà các bên đặt cọc để
chuyển nhượng cho nhau chỉ là một phần trong tổng diện tích đất 5580m
2
thuộc
thửa 99, tờ bản đồ 09 H ông H3 được cấp GCNQSDĐ số BO 532421, số
7
vào sổ cấp GCN CH 01293 ngày 30/8/2013. Việc sau khi các bên kết hợp
đồng đặt cọc làm thủ tục tách thửa mới biết diện tích đất H ông H3
được cấp trong GCN trên biến động (tăng) sự kiện khách quan, không
thuộc lỗi của H ông H3. Và, tổng diện tích trong GCNQSDĐ của H ông
H3 biến động tăng cũng không làm ảnh hưởng đến phần đất các bên đặt
cọc để chuyển nhượng cho nhau; H đến nay vẫn thiện chí tiếp tục việc
chuyển nhượng nhưng U không đồng ý. Hơn nữa, tại Tòa chính nguyên đơn
U thừa nhận khi biết diện tích đất bà H ông H3 biến động thì do
không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng chỉ sợ việc điều chỉnh biến
động thể sẽ mất nhiều thời gian mới thể tách thửa sang tên cho bà được
nên yêu cầu H ông H3 trả lại tiền cọc ngừng việc thực hiện hợp đồng.
Như vậy, tnhững nhận định trên căn cứ để khẳng định nguyên đơn U
người tự ý chấm dứt việc thực hiện hợp đồng, H ông H3 không có lỗi nên bà
U phải chịu mất tiền cọc. Do đó, cần chấp nhận kháng cáo của bị đơn H, sửa
một phần Bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của
U, tuyên hủy Hợp đồng đặt cọc lập ngày 20/6/2022 giữa U với H ông
H3; không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của U đối với yêu cầu buộc H và
những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H3 phải trả lại cho bà U
số tiền cọc 500.000.000 đồng.
[7] Ngoài ra, đối vi nội dung mà các đương s tranh chấp như đã nêu tại
đon [3], Hội đồng xét x thy rng cần điều chnh li cách tuyên ni dung này
ti phn Quyết định ca Bản án thẩm cho phù hp. C thể, nguyên đơn khởi
kin yêu cu hy hợp đồng đặt cc, b đơn không phản t nhưng Tòa án cấp
thm lại tuyên chm dt hợp đồng đặt cc...chưa chính xác phi tuyên
là hy hợp đồng đặt cc mới đúng.
[8] Án phí dân s thẩm: Do yêu cu khi kin của nguyên đơn U
không được chp nhn nên phi chịu 24.000.000 đồng. Do U hoàn cnh
gia đình khó khăn có xác nhn ca chính quyền địa phương nên bà U đưc gim
1/2 án phí nên s tin án phí bà U phi chịu là: 12.000.000 đng; bà H và nhng
đương sự khác không phi chu.
[9] Án phí dân sự phúc thẩm: kháng cáo của bị đơn Tạ Thị H được
chấp nhận nên H không phải chịu.
[10] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa căn cứ một
phần nên được Hội đồng xét xử chấp nhận một phần.
[11] Các phần quyết định khác của Bản án thẩm không kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308; Điều 309 của Bộ luật Ttụng dân sự năm
2015;
8
Chấp nhận kháng cáo của bị đơn Tạ Thị H;
Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 68/2024/DS-ST ngày 25/9/2024
của Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước;
Áp dụng các điều 117,129, 156; 328 Bộ luật dân sự năm 2015; các điều
26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản s
dụng án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Cao Thị Thanh
U, hủy Hợp đồng đặt cọc lập ngày 20/5/2022 giữa Cao Thị Thanh U với
Tạ Thị H, ông Đoàn Đình H3.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Cao Thị Thanh U
về yêu cầu buộc TThị H, anh Đoàn Đình S, anh Đoàn Đình B và chị Đoàn
Thị Thu H2 phải có nghĩa vụ liên đới trả lại choCao Thị Thanh U số tiền cọc
500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng).
Án phí dân sự thẩm: Cao Thị Thanh U phải chịu 12.000.000 đồng
(đã miễn giảm 1/2), được trừ vào số tiền 12.000.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp
theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015042 ngày 31/10/2023
của Chi cục thi nh án Dân sự huyện Hớn Quản, tỉnh nh Phước); các đương
sự khác không phải chịu.
Án phí dân sự phúc thẩm: Tạ Thị H được miễn do H người cao
tuổi và có đơn xin miễn.
Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Phước;
- Chi cục THADS huyện Hớn Quản;
- TAND huyện Hớn Quản;
- Các đương sự;
- Lưu: HSVA, Tổ HCTP, Tòa DS.
Tải về
Bản án số 69/2025/DS-PT Bản án số 69/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 69/2025/DS-PT Bản án số 69/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất