Bản án số 131/2025/DS-PT ngày 03/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 131/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 131/2025/DS-PT ngày 03/04/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 131/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 03/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ngày 28/3/2022, ông Huỳnh Thanh P ký kết với bà H D Bkrông hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng diện tích 94m2, thửa đất số 34, tờ bản đồ số 26, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AP 913396 do UBND thành phố B cấp ngày 19/11/2009 cho hộ H D Bkrông, ông Y B N2. Hai bên thỏa thuận giá chuyển nhượng QSDĐ là 1.530.000.000 đồng; ông P đã đặt cọc số tiền 200.000.000 đồng, còn lại 1.330.000.000 đồng ông P sẽ giao đủ cho bà H D sau khi hoàn tất thủ tục công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại cơ quan có thẩm quyền; thời hạn đặt cọc là 25 ngày, kể từ ngày 28/3/2022 đến hết 24 giờ ngày 23/4/2022; toàn bộ tiền thuế và lệ phí do phía bà H D1 nộp. Hai bên thỏa thuận sau khi ký hợp đồng đặt cọc nếu bên bán không bán thì phải trả lại tiền cọc và phạt gấp 03 lần tiền cọc, tức là trả tiền cọc 200.000.000 đồng và phạt cọc 400.000.000 đồng, tổng cộng là 600.000.000 đồng; ngược lại bên mua không mua nữa thì mất cọc 200.000.000 đồng.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 131/2025/DS-PT
Ngày 03 - 4 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng đặt cọc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Thị Tuyết
Các Thẩm phán: Ông NguyễnVăn Bằng.
Ông Võ Thanh Hà.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Mai Loan, Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm t nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa:
Lê Thị Bích Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 03 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét x
phúc thẩm công khai ván dân sự thụ số: 49/2025/TLPT-DS ngày 06/01/2025
về việc Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số:
255/2024/DS-ST ngày 18/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột
bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 97/2025/QĐ-PT
ngày 25/02/2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Huỳnh Thanh P; nơi đăng HKTT: Buôn E, E,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ: Số D Đ, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;
Vắng mặt.
Người đại diện ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh S; địa chỉ:
Tổ dân phố H, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Văn bản ủy quyền ngày
09/7/2024); Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: H D Bkrông; địa chỉ: Số B đường B, phường E, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk; Có mặt.
Người đại diện ủy quyền của bị đơn: Ông Tiến D; địa chỉ: Số E M,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Văn bản ủy quyền ngày 01/3/2025);
mặt.
- Người c quyền lợi, ngha v liên quan:
1. Cháu Y H N, sinh năm 2017; Vắng mặt.
2. Bà H Y Niê, sinh năm 1988 (Là mẹ của cháu Y H N); Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Buôn A, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
2
- Người làm chứng:
1. Ông Y K B; địa chỉ: Tổ dân phố C, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk; Có mặt.
2. Bà H N Niê Buôn R; địa chỉ: Tổ dân phố C, phường E, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk; Vắng mặt.
3. Ông Y N1 B1; địa chỉ: SB đường B, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk; Có mặt.
4. H T Niê; địa chỉ: Số B đường B, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk
Lắk; Có mặt.
- Người kháng cáo: Người đại diện ủy quyền của nguyên đơn ông Huỳnh
Thanh P là ông Nguyễn Thanh S; bị đơn bà H D B2.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Huỳnh
Thanh P có người đại diện ủy quyền là ông Nguyễn Thanh S trình bày:
Thông qua bà H N N1 Buôn Rít giới thiệu, ông P có biết bà H D B2 có nhu
cầu chuyển nhượng QSD đất. Ngày 28/3/2022, ông P cùng H N N1 Buôn Rít
tới nhà H D Bkrông tại số B đường B, thành phB để xem Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất bản gốc, khi xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông
P không ý kiến gì. Ông P cùng H D1 đi đo đạc lại kích thước đất bằng
thước dây. Sau đó quay lại nhà H D1 để lập hợp đồng đặt cọc giữa bên chuyển
nhượng là H D B2 bên nhận chuyển nhượng là ông Huỳnh Thanh P. Ông P
người viết trong Hợp đồng đặt cọc, có nội dung chuyển nhượng quyền sử dụng
đất tài sản gắn liền trên đất đối với thửa đất số 34, tbản đồ số 26, diện tích
94m
2
, đất tọa lạc tại phường E, thành phố B, theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số AP 913396 do UBND thành phố B cấp ngày 19/11/2009 cho hộ bà H
D Bkrông ông Y B N2, với gchuyển nhượng 1.530.000.000 đồng. Tại Điều
3 Hợp đồng đặt cọc nội dung Thời hạn đặt cọc 25 ngày, kể từ ngày
28/3/2022 đến hết 24 giờ ngày 23/4/2022, bên A nhận đủ tiền đặt cọc sẽ cùng với
bên B làm thủ tục công chứng, chuyển nhượng tại quan Nhà nước thẩm
quyền. Khi thủ tục công chứng hoàn tất, bên B phải giao đsố tiền còn lại cho
bên A”. Cùng ngày 28/3/2022 ông P đặt cọc stiền 200.000.000 đồng đưa
bằng tiền mặt cho bà H D Bkrông trực tiếp nhận.
Sau ngày đặt cọc tiền, ông P nhắc nhở H N N1 Buôn Rít làm thủ tục
giấy tờ cho xong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ bà H D
Bkrông ông Y B N2, mà ông Y B N2 đã chết nên phải làm thủ tục thừa kế lại
thì mới làm thủ tục ký kết hợp đồng chuyển nhượng tại Văn phòng công chứng
được.
3
Đến ngày 23/4/2022, bà H D B2 không làm thủ tục ký kết hợp đồng chuyển
nhượng tại Văn phòng công chứng, H D1 nói với ông P giấy tchưa làm
xong. Ông P nói bà H D1 trả lại 200.000.000 đồng tiền cọc cho ông P nhưng bà H
D1 không trả. Sau đó ông P có qua nhà bà H D1 nhiều lần và nói là ông P chỉ cần
lấy lại 190.000.000 đồng cho H D 10.000.000 đồng để H D chữa bệnh,
nhưng đến nay H D1 vẫn chưa thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cho ông P, cũng không chịu trả lại tiền cọc cho ông P vi phạm Điều 3 của hợp
đồng đặt cọc tại mục Cam kết chung trong hợp đồng đặt cọc, làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lợi ích công sức tài sản của ông P. Tại mục Cam kết chung
có nội dung: “Sau khi hợp đồng được ký kết, quá thời hạn thỏa thuận trên nếu bên
A không bán, chuyển nhượng tài sản đặt cọc trên cho bên B, thì bên A phải bồi
thường cho bên B gấp 3 lần số tiền bên B đã đặt cọc cho bên A. Tổng số tiền
hoàn trả và bồi thường = 600.000.000 đồng”.
Ông Huỳnh Thanh P khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc H D
Bkrông trả lại cho ông P số tiền đặt cọc 200.000.000 đồng vào ngày 28/3/2022 và
400.000.000 đồng tiền phạt cọc, tổng cộng H D B2 phải trả cho ông P
600.000.000 đồng. Nếu H D1 yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì ông P không đồng ý.
Bị đơn bà H D Bkrông trình bày:
Năm 2022, do bà H D1 còn nợ và bị bệnh cần tiền chữa bệnh, nên bà H D1
nói với H N Niê Buôn Rít (Là hàng xóm cùng đường B) về việc bà H D1
có nhu cầu chuyển nhượng đất. Bà H N N1 Buôn Rít hỏi bà H D1 chuyển nhượng
giá bao nhiêu, bà H D1 nói giá chuyển nhượng 1.700.000.000 đồng. H N6 nói giá
này bán không được mấy hôm sau H N quay lại cùng với ông P bảo đúng
giá 1.530.000.000 đồng thì ông P nhận chuyển nhượng. Ngày 28/3/2022, ông P
tới nhà H D1 thì H D cho ông P xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cùng nhau đi xem đất, mang thước dây đi đo lại kích thước đất, xong thì
cùng quay trở lại nhà H D1 tại số B đường B. Khi xem Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất mà bà H D đưa thì ông P không có ý kiến gì. Ông P đặt cọc cho bà H
D1 số tiền 200.000.000 đồng bằng tiền mặt H D1 người trực tiếp nhận
tiền. Hợp đồng đặt cọc ngày 28/3/2022 do ông P mang tới, chuẩn bị sẵn theo mẫu
tới nhà H D thì ông P mới điền vào, H D1 chỉ đọc nội dung
trong Hợp đồng đặt cọc. Hợp đồng đặt cọc nội dung chuyển nhượng cho ông
Huỳnh Thanh P thửa đất số 34, tờ bản đồ số 26, diện tích 94m
2
, địa chỉ phường E,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AP
913396 do Ủy ban nhân dân thành phố B cấp ngày 19/11/2009 cho hộ bà H D B2,
ông Y B N2. Gchuyển nhượng thỏa thuận 1.530.000.000 đồng. Khi đọc thời
hạn đặt cọc 25 ngày thì H D nói với ông P không kịp làm giấy tờ thì
4
ông P nói là 01 tháng cũng được. Tuy nhiên các bên chỉ nói miệng chứ không sửa
trong Hợp đồng đặt cọc. H D1 ông P mỗi người giữ một bản Hợp đồng đặt
cọc. Sau khi đặt cọc xong thì ông P yêu cầu H D1 phải đầy đủ các giấy tờ
như hộ khẩu của Y N3 và H Y, chứng tử của Y Q, chứng tử của Y B N2, đăng ký
kết hôn của vợ chồng Y Q, khai sinh của con Y Q. Ngoài ra ông P không yêu cầu
cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì cũng không yêu cầu làm thủ tục gì khác.
Trong Hợp đồng đặt cọc đề ngày 28/3/2022 có H D1, con trai H D
ông Y N1 B1, con dâu bà H D là H T Niê, anh trai của H D1 ông Y K B
H N Niê Buôn R (Là môi giới giới thiệu ông P tới mua đất) cùng làm
chứng.
Giữa bà H D1 và ông P thỏa thuận miệng với nhau khi nào xong giấy tờ đất
thì ông P sẽ đưa nốt số tiền còn lại và hợp đồng chuyển nhượng. Giấy tờ đất
bao gồm: Giấy đăng kết hôn của ông Y Q B3 (con trai của bà H D1 và đã chết
năm 2017), Giấy khai sinh của Y H N (con trai ruột của Y Q B3), Giấy khai tử
của ông Y Q B3, Giấy khai tử của ông Y B N2. Do ông Y B N2 chết năm 2008 và
ông Y Q B3 chết năm 2017 nên phải làm thủ tục thừa kế đất xong thì mới làm thủ
tục chuyển nhượng cho ông P được.
Đến ngày 23/4/2022, do chưa làm xong thủ tục giấy tờ đất nên chưa
được hợp đồng chuyển nhượng và ông P cũng chưa trả hết số tiền chuyển nhượng
còn lại cho H D1. Ông P mới đặt cọc được 02 tuần đã tới nhà đòi tiền, yêu cầu
H D1 phải trả số tiền 190.000.000 đồng, còn 10.000.000 đồng thì cho H D
chữa bệnh.
Ngày 16/5/2022, khi đã hoàn tất xong thủ tục thừa kế ghi nhận biến
động trang 4 tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các tài liệu kèm theo, thì
H D1 gọi điện cho ông P để các bên hợp đồng chuyển nhượng nhưng
ông P không nghe máy. Ngày hôm sau H D1 gọi điện cho ông P thì ông P nói
không mua nữa, không tiền. Ông P nói mua cho người khác chkhông phải
mua cho ông P, giờ người ta không mua nữa. Ông P nói với bà H D1 là khi nào bà
H D bán được đất cho người khác thì trả tiền cọc lại cho ông P. Khi đó bà H D1
không đồng ý với yêu cầu của ông P.
Từ đó đến nay, H D1 vẫn chưa chuyển nhượng được thửa đất nói trên
cho ai nên cũng chưa có tiền trả cho ông P. Nay ông P khởi kiện yêu cầu bà H D1
phải trả tiền cọc và tiền phạt cọc tổng cộng 600.000.000 đồng thì H D không
đồng ý, H D1 đã dùng số tiền này để đi chữa bệnh. Nếu bây giờ ông P vẫn
có ý muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc và hợp đồng chuyển nhượng, đồng
thời giao đủ số tiền chuyển nhượng như đã thỏa thuận thì bà H D1 đồng ý tiếp tục
thực hiện thỏa thuận chuyển nhượng trong hợp đồng đặt cọc. Hiện nay Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất bản gốc H D1 vẫn đang cất giữ, bảo quản
5
diện tích đất này hiện nay vẫn đang do H D1 trực tiếp quản lý, sử dụng. H
D1 không còn yêu cầu gì khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà H Y N4 trình bày:
Bà H Y con dâu của bà H D B2, bà H Y lấy ông Y Q B3 con đẻ của bà
H D B2. Cháu Y H N con trai chung của H Y ông Y Q B3. Ông Y Q B3
đã chết năm 2017. Thửa đất số 34, tờ bản đồ số 26, diện tích 94m
2
theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AP 913396 do UBND thành phố B cấp ngày
19/11/2009 của hộ H D Bkrông, ông Y B N2, ngày 16/5/2022 ghi nhận biến
động để thừa kế cho H D Bkrông; cùng thừa kế sử dụng với cháu Y H N, sinh
năm 2016; Bà H Y N5, sinh năm 1988 là người đại diện theo pháp luật cho con là
Y H N.
Việc H D1 hợp đồng đặt cọc ngày 28/3/2022 nhận tiền đặt cọc
200.000.000 đồng từ ông Huỳnh Thanh P để chuyển nhượng thửa đất nói trên thì
bà H Y không biết, không chứng kiến và cũng không sử dụng số tiền này. Bà H Y
xác định đây đất của H D B2, việc H D chuyển nhượng, thế chấp, tặng
cho, cầm cố hay để thừa kế cho ai thì đó quyền của H D1, H Y đại diện
cho cháu Y H N không có ý kiến gì, cũng không có yêu cầu gì.
Người làm chứng ông Y N1 B1, H T Niê Buôn R1, ông Y K B trình
bày: H D Bkrông mẹ đẻ của ông Y N3; mẹ chồng của H T em
ruột của ông Y K . Việc ông P đặt cọc 200.000.000 đồng cho H D để chuyển
nhượng cho ông P thửa đất số 34, tờ bản đồ số 26, diện tích 94m
2
đúng như
trình bày của ông P và bà H D1. Các ông bà có chứng kiến việc lập Hợp đồng đặt
cọc và giao nhận 200.000.000 đồng tiền đặt cọc tại nhà bà H D1 Giữa bà H D1 và
ông P thỏa thuận khi nào xong giấy tờ, thủ tục về thừa kế QSD đất thì ông P sẽ
đưa nốt số tiền còn lại hợp đồng chuyển nhượng. H D1 nói với các
ông do ông P chưa đưa hết tiền cho H D1 nên không được hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Đến khi H D1 hoàn tất xong thủ tục thừa
kế ghi nhận biến động trang 4 của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông P
nói không mua nữa đòi tiền cọc yêu cầu bồi thường cọc. Từ đó đến nay,
H D Bkrông vẫn chưa chuyển nhượng được thửa đất nói trên cho ai nên cũng
chưa có tiền trả tiền cọc 200.000.000 đồng cho ông P. Vì vậy, ông Y N3, H T,
Y K đồng ý với bà H D1 về việc không đồng ý trả cho ông P tổng cộng
600.000.000 đồng, không có yêu cầu gì khác.
Người làm chứng bà H N N1 Buôn Rít trình bày:
H N6 là chị gái ruột của H T Niê Buôn Rít, còn ông Huỳnh Thanh P
là chỗ quan hệ quen biết, là người cùng buôn với bà H N6. Năm 2022 (không nhớ
cụ thể), H N6 đăng bài trên mạng hội Zalo đối với nhu cầu cần chuyển
nhượng thửa đất của H D Bkrông, thửa đất số 34, tờ bn đồ số 26, diện tích
6
94m
2
, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số AP 913396 do Ủy ban nhân dân thành phố B cấp ngày 19/11/2009 cho hộ
H D B2, ông Y B N2. Ông Huỳnh Thanh P gọi điện thoại cho H N để
muốn nhận chuyển nhượng thửa đất này. H N6 dẫn ông Huỳnh Thanh P đi
xem đất. Sau ngày xem đất 01 ngày, ông Huỳnh Thanh P gặp H D Bkrông
tại nhà H D1, hai n thỏa thuận ông P đồng ý nhận chuyển nhượng của H
D Bkrông thửa đất nên trên với giá chuyển nhượng 1.530.000.000 đồng. Ngày
28/3/2022, tại nhà H D1, ông P đặt cọc 200.000.000 đồng cho H D để
nhận chuyển nhượng thửa đất nói trên, bà H D1 là người trực tiếp nhận tiền. Thời
hạn đặt cọc từ ngày 28/3/2022 đến hết ngày 23/4/2022. H D B2 và ông P thỏa
thuận khi nào xong giấy tờ đất và thủ tục thừa kế QSD đất thì ông P sẽ đưa nốt số
tiền còn lại hợp đồng chuyển nhượng. Đến khi H D1 hoàn tất xong thủ
tục giấy tờ đất thì ông P nói không mua nữa đòi tiền cọc, bồi thường cọc đã
quá thời hạn đặt cọc. H N6 đồng ý với H D1 về việc không đồng ý trả cho
ông P tổng cộng 600.000.000 đồng, không có yêu cầu gì khác.
Tại Bản án dân sự thẩm số 255/2024/DS-ST ngày 18/9/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ Điều 274, Điều 275, Điều 328, Điều 418, Điều 422, Điều 423, Điều
427 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh
Thanh P.
Huỷ hợp đồng đặt cọc ngày 28/3/2022 gia ông Huỳnh Thanh P H D
Bkrông về việc đặt cọc để chuyển nhượng thửa đất số 34, tờ bản đsố 26, diện
tích 94m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AP 913396 do UBND
thành phố B cấp ngày 19/11/2009 cho hộ H D Bkrông, ông Y B N2; ghi nhận
biến động trang 04 để thừa kế cho bà H D Bkrông cùng thừa kế sử dụng với cháu
là Y H N.
Buộc H D B2 phải trả lại cho ông Huỳnh Thanh P số tiền đặt cọc đã
nhận là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).
2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Huỳnh Thanh P về việc buộc H D
B2 phải bồi thường tiền cọc là 400.000.000 đồng (Bốn trăm triệu đồng).
3. Về chi phí tố tụng: Bà H D Bkrông phải chịu 2.000.000 đồng tiền chi phí
xem xét, thẩm định tại chỗ; 400.000 đồng chi phí thu thập tài liệu, chứng cứ tại
Chi nhánh văn phòng đăng đất đai thành phố B. Ông Huỳnh Thanh P được
7
nhận lại tổng cộng 2.400.000 đồng tiền tạm ứng chi phí tố tụng sau khi thu được
của bà H D B2.
4. Về án phí:
Bà H D Bkrông phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Huỳnh Thanh P phải chịu 20.000.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm,
được khấu trừ 14.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số
AA/2023/0010158 ngày 24/5/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Ông Huỳnh Thanh P còn phải nộp 6.000.000 đồng
tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Ngoài ra bản án thẩm n tuyên về quyền yêu cầu thi hành án quyền
kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 01/10/2024, bị đơn H D Bkrông đơn kháng cáo toàn bộ bản án
dân sự thẩm, nội dung: Đề nghị cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Thanh P.
Ngày 28/10/2024, người đại diện ủy quyền của nguyên đơn ông Huỳnh
Thanh P là ông Nguyễn Thanh S đơn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm với nội
dung: Đề nghị cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn ông Huỳnh Thanh P để buộc bị đơn H D B2 phải trả cho ông P tổng cộng
600.000.000 đồng, trong đó gồm 200.000.000 đồng tiền đặt cọc 400.000.000
đồng tiền phạt cọc.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện
và nội dung đơn kháng cáo; bị đơn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư Tòa án các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật
tố tụng dân sự.
Về nội dung: Qua phân tích đánh gcác tài liệu, chứng cứ trong hồ
vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xcăn cứ khoản 1 Điều 308
Bộ luật tố tụng dân sự – Không chấp nhận kháng cáo của người đại diện ủy quyền
của nguyên đơn ông Huỳnh Thanh P ông Nguyễn Thanh S; Không chấp nhận
kháng cáo của bị đơn bà H D B2; Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số
255/2024/DS-ST ngày 18/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ ván đã
được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
8
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn làm trong hạn luật
định đã nộp tiền tạm ứng án phí nên được xem xét, giải quyết theo trình tự
phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét kháng cáo của bị đơn H D B2 đề nghị không chấp nhận toàn
bộ đơn khởi kiện của nguyên đơn kháng cáo của người đại diện ủy quyền của
nguyên đơn ông Huỳnh Thanh P ông Nguyễn Thanh S đề nghị chấp nhận yêu
cầu H D1 bồi thường tiền phạt cọc 400.000.000 đồng, Hội đồng xét xử xét
thấy:
Tại Hợp đồng đặt cọc thể hiện ngày 28/3/2022, ông Huỳnh Thanh P ký kết
với H D Bkrông hợp đồng đặt cọc đchuyển nhượng diện tích 94m
2
, thửa đất
số 34, tờ bản đồ số 26, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AP 913396 do
UBND thành phố B cấp ngày 19/11/2009 cho hộ H D Bkrông, ông Y B N2. Hai
bên thỏa thuận giá chuyển nhượng QSDĐ 1.530.000.000 đồng; ông P đã đặt
cọc số tiền 200.000.000 đồng, còn lại 1.330.000.000 đồng ông P sẽ giao đủ cho bà
H D sau khi hoàn tất thủ tục công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất tại quan thẩm quyền; thời hạn đặt cọc 25 ngày, kể từ ngày
28/3/2022 đến hết 24 giờ ngày 23/4/2022; toàn bộ tiền thuế và lệ phí do phía bà H
D1 nộp. Hai bên thỏa thuận sau khi hợp đồng đặt cọc nếu bên bán không bán
thì phải trả lại tiền cọc và phạt gấp 03 lần tiền cọc, tức là trả tiền cọc 200.000.000
đồng phạt cọc 400.000.000 đồng, tổng cộng 600.000.000 đồng; ngược lại
bên mua không mua nữa thì mất cọc 200.000.000 đồng.
Hợp đồng đặt cọc nói trên được xác lập trên cơ sở tự nguyện nhằm đảm bảo
cho việc thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên,
được các bên thừa nhận tuân thủ đúng hình thức hợp đồng nên hiệu lực
pháp luật.
Ông P thừa nhận tại thời điểm ký kết hợp đồng đặt cọc ngày 28/3/2022, ông
P biết quyền sử dụng đất được cấp cho hộ H D Bkrông ông Y B N2,
nhưng ông Y B4 đã chết và hộ bà H D1 chưa làm thủ tục nhận thừa kế, nên hộ
H D1 chưa đủ điều kiện để kết hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ nhưng ông P
vẫn đồng ý đặt cọc để nhận chuyển nhượng QSDĐ nói trên. Khi hộ H D1 thực
hiện thủ tục thừa kế tại quan nhà nước thẩm quyền thì bị vướng mắc nên
mất nhiều thời gian hơn so với dự kiến. Đến ngày 16/5/2022 mới thực hiện xong
thủ tục đăng biến động nhận thừa kế tại trang 04 của GCNQSDĐ, nội dung để
thừa kế cho H D Bkrông cùng thừa kế sử dụng với cháu Y H N. Lúc này đã
quá thời hạn cam kết trong hợp đồng đặt cọc nhưng bà H D1 và đồng thừa kế vẫn
đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng, còn ông P không đồng ý tiếp tục thực hiện
9
hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ với do đã quá thời hạn thỏa thuận trong hợp
đồng đặt cọc.
Theo hướng dẫn tại điểm b, khoản 1 phần I của Nghị quyết số 01/2003/NQ-
HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao Án
lệ số 25/2018/AL về không phạt cọc do khách quan được Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2018 được công bố theo
Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06/11/2018 của Chánh án Toà án nhân dân tối
cao, thì việc bà H D Bkrông vi phạm thời hạn tiến hành thủ tục chuyển nhượng là
lý do khách quan và các bên đều có lỗi trong việc không ký kết được hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Do đó, Tòa án cấp thẩm chấp nhận một
phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Thanh P để buộc H D Bkrông phải trả
cho ông P số tiền đặt cọc 200.000.000 đồng đã nhận; không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông P về việc buộc H D B2 phải trả 400.000.000 đồng tiền phạt
cọc là có căn cứ, đúng pháp luật.
Từ những phân tích nhận định như trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét
thấy không có n cứ chấp nhận đơn kháng cáo của ông Huỳnh Thanh P H
D B2 - Giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.
[2.2] Tuy nhiên, tại bản án thẩm không tuyên về mức lãi suất trong quá
trình thi hành án là thiếu sót, chưa tuyên đầy đủ quyền nghĩa vụ của đương sự.
Do đó, cấp phúc thẩm cần tuyên bổ sung cho đầy đủ.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông
Huỳnh Thanh P H D B2 phải chịu tiền án phí dân s phúc thẩm theo quy
định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của người đại diện ủy quyền của nguyên đơn
ông Huỳnh Thanh P là ông Nguyễn Thanh S;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà H D B2.
Giữ nguyên bản án dân s thẩm số: 255/2024/DS-ST ngày 18/9/2024
của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Điều luật áp dụng: Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35,
điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều 220, Điều 227, Điều 228,
Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 274, Điều
275, Điều 328, Điều 418, Điều 422, Điều 423, Điều 427 của Bộ luật dân sự năm
2015; Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
10
[3] Tuyên xử:
[3.1] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh
Thanh P.
Chấm dứt hợp đồng đặt cọc ngày 28/3/2022 giữa ông Huỳnh Thanh P và bà
H D Bkrông về việc đặt cọc đchuyển nhượng thửa đất số 34, tờ bản đồ số 26,
diện tích 94m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AP 913396 do UBND
thành phố B cấp ngày 19/11/2009 cho hộ H D Bkrông, ông Y B N2; ghi nhận
biến động trang 04 để thừa kế cho bà H D Bkrông cùng thừa kế sử dụng với cháu
là Y H N.
Buộc H D B2 phải trả lại cho ông Huỳnh Thanh P số tiền đặt cọc đã
nhận là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).
Kể từ ngày c đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ
luật dân sự năm 2015.
[3.2] Không chấp nhận yêu cầu của ông Huỳnh Thanh P về việc buộc H
D Bkrông phải bồi thường tiền phạt cọc 400.000.000 đồng (Bốn trăm triệu
đồng).
[4] Về chi phí tố tụng, án phí:
[4.1] Về chi phí tố tụng: H D Bkrông phải chịu 2.000.000 đồng (Hai
triệu đồng) tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ; 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn
đồng) tiền chi phí thu thập tài liệu, chứng cứ tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất
đai thành phố B. Ông Huỳnh Thanh P được nhận lại tổng cộng 2.400.000 đồng
(Hai triệu bốn trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng chi phí tố tụng sau khi thu được của
bà H D B2.
[4.2] Án phí dân sự sơ thẩm:
H D Bkrông phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí
dân sự sơ thẩm.
Ông Huỳnh Thanh P phải chịu 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu) tiền án
phí dân sự thẩm, được khấu trừ 14.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp
theo biên lai thu số AA/2023/0010158 ngày 24/5/2024 tại Chi cục Thi hành án
dân sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Ông Huỳnh Thanh P còn phải
nộp 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
[4.3] Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Huỳnh Thanh P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án
phí dân sphúc thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự
phúc thẩm (Do ông Nguyễn Thanh S đã nộp) theo biên lai thu số
11
AA/2023/0012408 ngày 20/11/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Bà H D B2 phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự
phúc thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã
nộp theo biên lai thu số AA/2023/0013686 ngày 09/10/2024 tại Chi cục Thi hành
án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án người phải thi hành án
dân sự c quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7
Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND thành phố Buôn Ma Thuột;
- Chi cc THADS thành phố Buôn Ma Thuột;
- Các đương sự; (Đã ký)
- Lưu hồ sơ.
Đinh Thị Tuyết
12
13
14
15
Tải về
Bản án số 131/2025/DS-PT Bản án số 131/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 131/2025/DS-PT Bản án số 131/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất