Bản án số 19/2024/DS-ST ngày 25/07/2024 của TAND huyện M'Drăk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 19/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 19/2024/DS-ST ngày 25/07/2024 của TAND huyện M'Drăk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện M'Drăk (TAND tỉnh Đắk Lắk)
Số hiệu: 19/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/07/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ngày 01/01/1999, vợ chồng ông B bà D nhờ bà Hoàng Thuý V (chị ông B) viết giấy chuyển nhượng cho ông Lý Nghĩa N thửa đất có chiều rộng 06m x chiều dài 50m tại tổ dân phố 8 cũ (nay là tổ dân phố 1), giá chuyển là 05 chỉ vàng 97%. Ông N đã trả đủ 5 chỉ vàng cho ông B. Ngày 12/8/2020, vợ chồng ông B bà D cùng với các con là bà Hoàng Thị Thúy H, bà Hoàng Thị Mỹ L và ông Hoàng Cao Phú C thống nhất ký giấy chuyển nhượng cho ông N diện tích đất 6m x 50m = 300m2 tại thửa đất số 244 ở tổ dân phố 1 thị trấn M’Đrắk. Nhưng đến nay vợ chông ông B bà D cùng các con không làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông N.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN M’ĐRẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 19/2024/DS-ST
Ngày 25 tháng 7 năm 2024
V/v“Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi,
chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M’ĐRĂK, TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Nguyễn Thế Dương.
Các Hội thẩm nhân dân: ông Nguyễn Văn Giang; Bà Bùi Thị Thêm.
- Thư phiên tòa: ông Huỳnh Quốc Thắng, thư Tòa án nhân n huyện
M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk tham gia
phiên tòa: ông Y Gon Niê - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 7 năm 2024 tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk
xét xử sơ thẩm công khai ván dân sự thụ số 71/2022/TLST-DS ngày 13 tháng
7 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng quyền s
dụng đất” theo quyết định đưa vụ án ra xét x số 24/2024/QĐST-DS ngày 08
tháng 7 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nghĩa N sinh năm 1971. Địa chỉ: Thôn 2, xã K, huyện
M, tỉnh Đ. Ông N mặt tại phiên toà.
- Bị đơn: Vợ chồng ông Hoàng B sinh năm 1951 Phạm Thị D sinh năm
1958. Địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn M, huyện M, tỉnh Đ. Ông B vắng mặt, D
có mặt tại phiên toà.
Người đại diện theo uquyền của bị đơn ông Hoàng B: Bà Hoàng Thị Mỹ L
sinh năm 1994. Địa chỉ: tổ 1, phường K, thành phố B, tỉnh Đ. L mặt tại
phiên toà.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Hoàng ThMỹ L sinh năm 1994. Địa chỉ: t1, phường K, thành phố B,
tỉnh Đ. Bà L có mặt tại phiên toà.
2
+ Bà Hoàng Thị Thúy H sinh năm 1987. Địa chỉ 622/12 V, phường K, thành
phố B, tỉnh Đ. H có mặt tại phiên toà.
+ Ông Hoàng Cao Phú C sinh năm 1996. Địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn,
huyện M, tỉnh Đ. Ông C có mặt tại phiên toà.
+ Ông Triệu Hoàng G sinh năm 1973. Địa chỉ: Số nhà 219 đường N, thị trấn
M, huyện M, tỉnh Đ. Ông G vắng mặt tại phiên toà (có đơn đề nghị xét xử vắng
mặt).
+ Bùi Thị M sinh năm 1959. Địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn M, huyện M,
tỉnh Đ. M vắng mặt tại phiên toà (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
+ Ông Nguyễn Ngọc N sinh năm 1984. Địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn M,
huyện M, tỉnh Đ. Ông N vắng mặt tại phiên toà (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
- Những người làm chứng:
+ Bà Lê Thị N sinh năm 1970. Địa chỉ: Tổ dân phố 7, thị trấn M, huyện M, tỉnh
Đ. Bà N vắng mặt tại phiên toà.
+ Phạm Thị D1 sinh năm 1952. Địa chỉ: Số 177/16 đường Y, tổ 4, khối 6,
phường E, thành phố B, tỉnh Đ. D1 có mặt tại phiên toà.
+ Hoàng Thúy V sinh năm 1948. Địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn M, huyện
M, tỉnh Đ. V vắng mặt tại phiên toà.
+ Ông Trịnh Thanh T sinh năm 1988. Địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn M, huyện
M, tỉnh Đ. Ông T vắng mặt tại phiên toà.
NỘI D1 VỤ ÁN:
*Trong đơn khởi kiện, các lời khai tại Toà án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông
Lý Nghĩa N trình bày:
Ông Hoàng B cậu ông N, Phạm Thị D vông B. Ngày 01/01/1999, vợ
chồng ông B D nhờ bà Hoàng Thuý V (chị ông B) viết giấy chuyển nhượng cho
tôi thửa đất chiều rộng 06m x chiều dài 50m tại tổ dân phố 8 (nay tdân
phố 1), giá chuyển nhượng 01 chỉ vàng 97%/m tính theo chiều rộng, nhưng vợ
chồng ông B D cho tôi 1m chiều rộng, chỉ tính 05 chỉ vàng 97%. Vị trí thửa
đất, bà V chỉ viết bên phải giáp nhà cô H, phía sau giáp nhà chú L1.
Tôi bên người được chuyển nhượng, D đại diện bên người chuyển
nhượng. Do tôi và ông B là cậu cháu, nên ông B không ký. Sau khi các bên ký giấy
sang nhượng, tôi đã trực tiếp đưa cho ông B 03 chỉ vàng 97%. Ngày 28/8/2000 tôi
tr cho ông B 02 chỉ vàng 97%, ông B ghi vào giấy chuyển nhượng đất với nội
3
dung “Ngày 28/8/2000, đã trả đủ cho cậu 2 chỉ, tổng cộng 5 chỉ vàng 97%,
Hoàng B cậu nhận đủ”.
Ông Triệu Hoàng G (cháu ông B) em hcủa tôi cũng nhận chuyển nhượng
một thửa đất của vợ chồng ông B D, sát thửa đất vchồng ông B D đã
chuyển nhượng cho tôi, diện tích chiều ngang 6m x chiều sâu hết đất. Không nhớ
năm cụ thể, khi M và ông G thoả thuận mua bán đất với nhau. Ông G tôi
chuyển đổi đất cho nhau, chúng tôi chỉ thoả thuận miệng với nhau, ông G nhận
phần đất của tôi để chuyển nhượng cho M. Sau đó, ông G và M khai đăng
quyền sử dụng đất như thế nào, tôi không biết. Phần đất tôi chuyển đổi cho ông
G, tôi quản lý.
Nhiều lần, tôi yêu cầu vợ chồng ông B D làm thủ tục chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho tôi, nhưng vợ chồng ông B D không thực hiện. Năm
2020, tôi làm đơn khởi kiện vợ chồng ông B D. Sau đó, thì ông B D nói tôi
rút đơn khởi kiện, nên tôi đã rút đơn khởi kiện.
Ngày 12/8/2020, vợ chồng ông B D nhờ D1 (chị của D) đứng ra hòa
giải về việc vợ chồng ông B D chuyển nhượng đất cho tôi, trên sở Giấy
nhượng đất ngày 01/01/1999. Vchồng ông B D cho rằng chỉ bán đất cho tôi
với giá 02 chỉ vàng 97% . Để làm nhanh thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, D1 nói tôi trả thêm cho vợ chồng ông B D 03 chỉ vàng, tôi đồng ý. Tôi
nhờ Thị Đ (chị vợ tôi) đưa cho D1 03 chỉ vàng 9999, đ D1 đưa cho
vợ chồng ông B D. Nên D1 viết thêm vào trang 2 của Giấy nhượng đất
ngày 01/01/1999 với nội D1 “Hôm nay ngày 12/8/2020, tôi Phạm Thị D1 chị
gái cô D đứng nhận ủy quyền thay ông B D nhận tiếp 3 chỉ vàng 4 số 9”
Cùng ngày, vợ chồng ông B D cùng với các con Hoàng Thị Thúy H,
Hoàng Thị Mỹ L ông Hoàng Cao Phú C thống nhất chuyển nhượng cho tôi
phần đất tôi đã chuyển đổi cho ông G. D1 người viết giúp Đơn xin
chuyển nhượng đất thổ cư cho tôi diện tích đất chiều ngang 5m x chiều dài hết đất.
Tôi nhờ bà Đ đưa cho bà D 25.000.000đồng và bà Lê Thị N (chị vợ của tôi) có cho
thêm D 5.000.000đồng, nên bà D1 viết vào phía sau đơn xin chuyển nhượng đất
với nội dung “Đính chính bác D1 nhận thêm 5.000.000, tổng số
30.000.000đồng chẵn”. Đây số tiền để nhờ D1 chi phí để làm thtục chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho tôi.
Vợ chồng ông B D giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ)
cho bà D1, để làm giúp thủ tục chuyển nhượng đất cho tôi. Khoảng 3 ngày sau, gia
đình ông B nói bà D1 không liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
nên D1 đã trả lại 3 chỉ vàng và 25.000.000đồng cho Đỉnh, Đỉnh đã trả lại
4
vàng tiền cho tôi. Còn 5.000.000đồng Nga cho riêng D không liên quan
đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông B D và tôi.
Sau đó, gia đình ông B đưa GCNQSDĐ cho Đỉnh, để Đỉnh liên hệ với
quan thẩm quyền để làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho tôi,
nhưng bà Đỉnh bị ốm và chết. Vợ chồng ông B D lấy lại GCNQSDĐ, mà không
chuyển nhượng đất cho tôi.
Tôi thống nhất với biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ định giá vào ngày
05/9/2023. Theo đơn khởi kiện, tôi yêu cầu vợ chồng ông B D phải chuyển
nhượng cho tôi diện tích đất 6m x 50m = 300m
2
tại thửa đất số 244 ở tổ dân phố 1
thị trấn M’Đrắk. Nay tôi yêu cầu bđơn vợ chồng ông B D cùng với những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan H, bà L và ông C phải chuyển nhượng
cho tôi diện tích đất thực tế còn lại 5m x 32m = 160m
2
(đã trừ diện đất quy hoạch)
tại thửa đất số 244, tờ bản đồ số 12 tọa lạc tại tổ dân phố 1, thị trấn M’Đrắk.
*Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hoà giải, bị đơn vợ chồng
ông Hoàng B Phạm Thị D, tại phiên t D cùng người đại diện cho ông
B, đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Hoàng Thị Mỹ L trình
bày:
Thời điểm ông B thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông N
vào ngày 01/01/1999, vợ chồng ông B D không sống với nhau, nên bà D không
biết việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông B và ông N. Đất thời điểm đó
chưa GCNQSDĐ, nhưng sau đó, D nghe ông B nói chuyển nhượng đất
cho ông N với giá 2 chỉ vàng 97%, ông B đã bán vàng để lấy tiền xây dựng công
trình phụ.
Tại kết luận giám định số 1145/KL-KTHS ngày 31 tháng 10 năm 2023 của
Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk thì kết luận chữ ký, chữ viết họ tên
“Phạm Thị Dtại Giấy nhượng đất ngày 01/01/1999 chữ của D chữ
viết chữ, của ông B. Nhưng D không biết tại sao D lại vào giấy
nhượng đất ngày 01/01/1999. Tuy nhiên, ông B chỉ chuyển nhượng đất cho ông N
với giá 02 chỉ vàng 97%, chứ không phải 05 chỉ vàng 97%, như đã ghi ở trong giấy
chuyển nhượng.
Vợ chồng ông B D chuyển nhượng một thửa đất cho ông G. Sau đó, vợ
chồng ông B D không biết sự việc ông N ông G chuyển đổi đất cho nhau.
Được mt thời gian, ông G bán đất cho Bùi Thị M. Vợ chồng ông B D
hợp đồng chuyển nhượng đất cho bà M.
5
Hiện trạng thửa đất đang tranh chấp hiện nay còn 05m chiều ngang mặt
đường, chiều dài hết đất. Hiện nay các thửa đất liền kề với thửa đất số 244 đang
tranh chấp với ông N, vợ chồng ông B D đã chuyển nhượng cho người khác.
Ngày 12/8/2020, gia đình chúng tôi nhờ bà D1 đứng ra hòa giải về việc vợ
chồng ông B D chuyển nhượng đất cho ông N theo giấy nhượng đất ngày
01/01/1999. Vợ chồng ông B D cùng các con của ông B D cùng đơn vào
Đơn xin chuyển nhượng đất thổ cho ông N với chiều ngang 5m, chiều dài hết
đất giao GCNQSDĐ cho Phạm Thị D1 đi làm giúp thủ tục chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho ông N. Gia đình ông B D biết việc D1 nhận 3 chỉ
vàng 9999 25.000.000đồng của ông N. Đây số vàng tiền ông N bồi dưỡng
riêng cho bà D1.
D1 không làm được thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông N,
nên D1 đã trả lại vàng tiền cho ông N. Sau đó, gia đình ông B D tiếp tục
đưa GCNQSDĐ cho Đ, để nhờ bà Đ liên hệ với các quan để làm thủ tục
chuyển nhượng quyền sdụng đất cho ông N. Nhưng Đ bốm và bchết, nên
thủ tục chuyển nhượng quyền sdụng đất chưa được thực hiện. Ông N lại khởi
kiện vợ chồng ông B D đến Toà án, nên vợ chồng ông B D không đồng ý
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông N tại thửa đất số 244, vchồng ông B
D sẽ trả lại cho ông N 02 chỉ vàng 97%.
Vợ chồng ông B D thống nhất với biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ
định giá vào ngày 05/9/2023. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BT
441028 cấp cho hộ ông B D tại thửa đất số 244, tờ bản đồ số 12, tọa lạc tại tổ
dân phố 1, thị trấn M’Đrắk thì 100m
2
thổ cư, nhưng theo Đơn xin chuyển
nhượng đất thổ ngày 12/8/2020 nội dung chuyển nhượng cho ông N 50m
2
đất thổ cư do D1 viết, chúng tôi không chú ý về nội dung này.
- Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Hoàng Thị Mỹ L,
Hoàng Thị Thúy H và ông Hoàng Cao Phú C cùng trình bày:
Ngày 12/8/2020, chúng i thừa nhận cùng với ông B D ông N vào
Đơn xin chuyển nhượng đất thổ tại thửa 244 do D1 viết giúp, để đi làm thủ
tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông N. Gia đình chúng tôi cũng đã đưa
GCNQSDĐ cho D1 Đ để đi làm thủ tục chuyển nhượng đất cho ông N,
nhưng không làm được, ông N lại kiện gia đình chúng tôi đến Toà án. Mặt khác,
ông N không trung thực, năm 1999 bố chúng tôi (ông B) chỉ bán đất cho ông N với
giá 02 chỉ vàng, chứ không phải 5 chỉ vàng như ông N trình bày. Nay chúng tôi
không đồng ý làm thủ tục chuyển nhượng diện tích đất 5m x 32m cho ông N tại
thửa đất số 244, tờ bản đồ số 12, tọa lạc tại tổ dân phố 1, thị trấn M’Đrắk, đã được
Toà án thẩm định, xem xét tại chỗ.
6
- Tại bản tự ngày 02/01/2024, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Triệu Hoàng G trình bày:
Ông N cháu của ông B, anh họ của ông G. Vào khoảng năm 2005 -2006,
ông G mua của vợ chồng ông B D thửa đất cạnh thửa đất mà vợ chồng ông B
D đã bán cho ông N. Năm 2013 -2014, ông G có ý định bán đất cho bà M, do bà M
thích thửa đất của ông N, nên ông G ông N chuyển đổi đất cho nhau (ông G
thông báo sviệc này cho vợ chồng ông B D biết, ông B D không ý kiến
). Nên, ông G đã bán phần đất của ông N cho bà M (các bên thoả thuận miệng),
vợ chồng ông B D hợp đồng chuyển nhượng đất cho M, M đã được
cấp GCNQSDĐ, còn phần của ông G, ông G giao cho ông N quản lý sử dụng. Ông
G không tranh chấp ý kiến về thửa đất ông G đã chuyển đổi cho ông
N.
-Tại biên bản tự khai ngày 03 tháng 01 năm 2024, người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan bà Bùi Thị M và ông Nguyễn Ngọc N trình bày:
Năm 2013, M thoả thuận miệng mua của ông Triệu Hoàng G 01 thửa đất
giáp với đất của gia đình H (6m x 36m). M không biết ông G ông N
chuyển đổi đất cho nhau. Ông G người đứng ra làm các thủ tục đăng khai
để M được cấp GCNQSDĐ (vợ chồng ông B D các giấy tờ, còn tiền
chuyển nhượng đất thì bà M trả cho ông G). Sau đó, M xây nhà đúng với diện
tích đất đã được cấp, ngày 30/7/2018 bà M tặng nhà đất cho ông Nguyễn Ngọc
N (con M). Ông N sử dụng nhà đất ranh giới, không tranh chấp với hộ
liền kề.
- Tại biên bản ghi lời khai ngày 28 tháng 12 năm 2023, người làm chứng
Hoàng Thuý V (chị ông B) trình bày:
Ngày 01/01/1999 vợ chồng ông B D ông N nhờ tôi viết Giấy nhượng
đất, qua xem lại giấy nhượng đất đngày 01/01/1999 tôi cam đoan Giấy nhượng
đất này tôi viết, các bên đều vào giấy nhượng đất do tôi viết giúp. Vợ chồng
ông B D chuyển nhượng cho ông N diện tích đất chiều rộng theo mặt đường 6
m x 50m (chiều dài chỉ ước lượng chứ không đo cụ thể) ở thôn 8 nay là tổ dân phố
1, thị trấn M với giá 5 chvàng 97%. Sau khi viết giấy xong, ông N đã trả trước
cho ông B 03 chỉ vàng 97%. n nợ lại 2 chỉ ng 97%, ông N đã trả cho ông B
thời gian nào tôi không biết.
-Tại biên bản ghi lời khai ngày 05 tháng 9 năm 2023 tại phiên toà người
làm chứng bà Phạm Thị D1 (chị bà D) trình bày:
Năm 1999 ông B D viết giấy chuyển nhượng đất cho ông N như thế nào i
không biết. Ngày 12/8/2020, qua trao đổi tôi đứng ra giải hòa, ông N đồng ý trả
7
thêm cho ông B 03 chỉ vàng 4 số 9, ông N nhờ Đỉnh (chị vợ anh N) đưa cho
tôi 3 chỉ vàng, để tôi đưa cho ông B. Các bên (vợ chồng ông B D, H, L,
ông C và ông N) cùng vào Đơn xin chuyển nhượng đất thổ do tôi viết giúp
(nếu sau này ông N được cấp trên 50m
2
thì ông N phải trả tiền chênh lệch cho gia
đình ông B). Đồng thời, các bên thỏa thuận ủy quyền cho tôi đứng ra làm thủ tục
chuyển nhượng đất cho ông N. Ông N đưa cho bà Đ 25.000.000đồng, Đ đưa số
tiền này cho tôi để tôi chi phí tiền thuế chuyển nhượng đất. Sau đó, được khoảng 3
ngày, gia đình ông B nói tôi không liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất. Nên tôi đã trả lại 3 chỉ vàng và 25.000.000đồng cho bà Đ, bà Đ đã trả lại
cho ông N. Gia đình ông B đưa GCNQSDĐ cho Đ, để nhờ Đ liên hệ với các
quan nhà nước để làm thtục chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa gia đình
ông B với ông N.
* Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:
- Về tố tụng: Thẩm phán xác định đúng quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải
quyết vụ án; Xác định đúng cách tham gia tố tụng của các đương sự; Việc thu
thập chứng cứ, trình tự giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự (BLTTDS). Trong quá trình thụ lý, giải quyết, xét xử vụ án, Thẩm phán,
Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư phiên tòa, N đơn, bị đơn chấp hành theo đúng
quy định của BLTTDS
- Về nội D1 vụ án: Xét yêu cầu của N đơn là căn cứ, đề nghị HĐXX chấp
nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lý Nghĩa N: Công nhận hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 12/8/2020 giữa, nguyên đơn ông
Nghĩa N với bị đơn vợ chồng ông Hoàng B Phạm Thị D cùng những người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hoàng Thị Mỹ L, Hoàng Thị Th H ông
Hoàng Cao Phú C:
Ông Nghĩa N quyền sử dụng diện tích đất 160m
2
, bao gồm 100m
2
đất
thổ 60m
2
đất trồng cây hàng năm ã trừ diện tích đất quy hoạch) tại tờ bản
đồ số 12, thửa đất số 244, tại tổ dân phố 1, thị trấn M’Đrắk; Đình chỉ một phần yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nghĩa N yêu cầu bị đơn vợ chồng ông
Hoàng B Phạm D phải chuyển nhượng cho ông N diện tích 140m
2
đất tại tờ bản
đồ số 12, thửa đất số 244 tại tổ dân phố 1, thị trấn M’Đrắk; Bị đơn ông B D
cùng những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà L, H ông C phải chịu
tiền án phí Dân sự thẩm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, ông B D
người cao tuổi, đơn đề nghị miễn án phí, nên ông B D được miễn toàn bộ
tiền án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
8
Sau khi nghiên cu các tài liu trong h vụ án được thm tra ti phiên
toà, ý kiến phát biu của đại din Vin kim sát. HĐXX nhận định:
[1]. Về tố tụng và quan hệ pháp luật cần giải quyết:
Nguyên đơn (ông Lý Nghĩa N) khi kin yêu cu Tòa án buc b đơn (vợ
chng ông Hoàng B Phm Th D) những người quyn lợi, nghĩa vụ liên
quan (bà Hoàng Th M L, Hoàng Th Thúy H, ông Hoàng Cao Phú C) phi
làm th tc chuyển nhượng quyn s dụng đất cho nguyên đơn v diện tích đt
nguyên đơn đã chuyn đổi cho ông Triu Hoàng G. Đây tranh chp hợp đồng
chuyn đổi, chuyển nhượng quyn s dụng đất xy ra ti t dân ph 1, th trn M,
huyn M, tỉnh Đ. Căn cứ vào khon 9 Điu 26, đim a khon 1 Điều 35 và Điều 39
ca BLTTDS, v án thuc thm quyn gii quyết ca Tòa án nhân dân huyn
M’Đrk.
Ông Hoàng B uỷ quyền cho bà Hoàng Thị Mỹ L tham gia tố tụng, căn cứ
Điều 85 Bộ luật tố tụng Dân sự, HĐXX chấp nhận việc ủy quyền. Người quyền
lợi nghĩa vụ liên quan ông Triệu Hoàng G, Bùi Thị M ông Nguyễn Ngọc
N đơn yêu cầu Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228
BLTTDS, việc xét xử vẫn được tiến hành.
2. Về nội dung:
[2.1] Nguồn gốc thửa đất số 244, tờ bản đồ số 12, diện tích 1255m
2
tọa lạc tại
tổ dân phố 8 (nay tdân phố 1), thị trấn M, được vợ chồng ông B D nhận
chuyển nhượng của người khác. Khi chuyển nhượng một phần diện tích đất cho
ông N, vợ chồng ông B D chưa được cấp GCNQSDĐ.
Ngày 01/01/1999, nguyên đơn bđơn nhờ Hoàng Thuý V (em ông B)
viết giúp Giấy chuyển nhượng đất. Theo đó, bị đơn chuyển nhượng cho nguyên
đơn một phần diện tích trong thửa đất 244. Diện tích đất chuyển nhượng chiều
rộng 06m x chiều dài 50m (không đo, chỉ ước lượng), giá chuyển nhượng là 05 chỉ
vàng 97. Vị trí thửa đất, V viết n phải giáp nhà H, phía sau giáp nhà chú
L”. Bị đơn ông B thừa nhận giấy chuyển nhượng đất cho ông N với giá chuyển
nhượng 02 chỉ vàng 97% đã nhận của ông N 02 chỉ vàng, còn D cho rằng
không biết việc ông B chuyển nhượng đất cho ông N.
Tại kết luận giám định số 1145/KL-KTHS ngày 31 tháng 10 năm 2023 của
Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chữ ký, chữ viết họ tên
“Phạm Thị Dtại Giấy nhượng đất ngày 01/01/1999 là chữ của D dưới chữ
bên chuyển nhượng và dòng chữ viết chữ ký “Ngày 28/8/2000, đã trả đủ cho cậu 2
chỉ, tổng cộng là 5 chỉ vàng 97%, Hoàng B cậu nhận đủ” do ông B viết tên.
Như vậy, đủ sở kết luận Giấy nhượng đất ngày 01/01/1999 do V viết
9
giúp, vợ chồng ông B D thoả thuận chuyển nhượng diện tích đất nói trên cho
ông N với giá 05 chỉ vàng 97%. Theo Giấy chuyển nhượng đất, ông N đã trả
trước cho ông B 3 chỉ vàng, ngày 28/8/2000 ông N đã trả cho ông B 02 chỉ vàng.
Như vậy, ông N đã thực hiện xong nghĩa vụ trong giao dịch dân sự (ông N đã
trả 05 chỉ vàng 97% cho vợ chồng ông B D). Thời điểm đó, thửa đất vợ chồng
ông B D đang sử dụng chưa GCNQSDĐ, nên chưa đủ điều kiện để làm
thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông N.
[2.2] Ngày 29/6/2004, vợ chồng ông B D được Ủy ban nhân dân huyện
M’Đrắk xét duyệt cấp GCNQSDĐ theo Quyết định số 757/QĐ-UB, theo đó hộ ông
B quyền sử dụng 1255m
2
tại thửa đất số 244 (bao gồm cả diện tích đất mà vợ
chồng ông B D đã viết giấy chuyển nhượng cho ông N).
Vào khoảng năm 2006, vợ chồng ông B D thoả thuận (không lập văn bản)
chuyển nhượng cho ông Triệu Hoàng G (cháu ông B) diện tích đất chiều rộng 6m x
chiều dài 50m (chỉ ước lượng), vị trí thửa đất giáp với thửa đất mà vợ chồng ông B
D đã viết giấy chuyển nhượng cho ông N.
Ngày 30/3/2007 hộ ông B D được cấp GCNQSDĐ, vchồng ông B D
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 244a diện tích 228m
2
(tách từ thửa 244) cho ông Võ Văn Chiến Nguyễn Thị Thanh Nga, hiện nay trên
đất nhà xây, ông Phạm Ngọc Xiêm đang sử dụng sát với thửa đất ông B
D chuyển nhượng cho ông G.
Năm 2014, ông G ý định chuyển nhượng diện tích đất nói trên cho Bùi
Thị M, song M muốn nhận chuyển nhượng diện tích đất vợ chồng ông B
D đã viết giấy sang nhượng cho ông N. Nên ông G ông N chuyển đổi đất cho
nhau (không lập văn bản). Ông G yêu cầu vợ chồng ông B D làm thủ tục
chuyển nhượng quyền sử đụng đất cho M. Nên, ngày 22/12/2014 vợ chồng ông
B D hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa số 244c (thửa đất ông
N chuyển đổi cho ông G) diện tích 218m
2
(tách từ thửa 244) cho M, M xây
nhà và công trình phụ trong diện tích đất tại thửa 244c làm thủ tục tặng cho ông
N (con bà M), đến nay các bên không tranh chấp.
Sau khi chuyển nhượng đất cho ông Chiến Nga M, ngày 27/5/2015
vợ chồng ông B D được UBND huyện M’Đrắk cấp GCNQSDĐ số BT 441028,
theo đó hộ ông B D quyền sử dụng 02 thửa đất: Thửa đất số 244b diện tích
583m
2
, ông B D trực tiếp sử dụng; Thửa đất s244 226m
2
(diện tích đất vợ
chồng ông B D đã chuyển nhượng cho ông G, ông G chuyển đổi cho ông N
quản lý), bao gồm 100m
2
đất thổ tại đô thị (ODT) và 126m
2
đất trồng cây hàng
10
năm, vợ chồng ông B D không làm thủ tục chuyển nhượng thửa đất này cho ông
N, đến nay không ai sử dụng.
[2.3] Sau khi xem xét thửa đất số 244 chỉ còn 5m chiều ngang, ngày
12/8/2020, vợ chồng ông B D cùng với các con H, L và ông C vào
Đơn xin chuyển nhượng đất thổ cư cho ông N (đơn do D1 chị bà D viết giúp)
với nội D1 “chuyển nhượng cho ông N 5m dài, chiều sâu hết diện tích 50m
2
đất
thổ cư, còn lại đất nông nghiệp” uỷ quyền cho bà D1 liên hệ với quan
thẩm quyền để làm thủ tục chuyển nhượng đất cho ông N. Sau đó, ông B D
không uỷ quyền cho D1 nữa, đưa GCNQSDĐ cho Đ đi làm thủ tục
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông N, nhưng chưa kịp làm thì bà Đ bị chết.
Như vậy, vợ chồng ông B D các con của ông vẫn thiện chí
chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất thực tế còn lại tại thửa đất số 244 cho ông N.
Do đợi lâu, chưa làm được thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông N,
ông N khởi kiện đến Toà án. Nên vợ chồng ông B D cùng các con của ông
thay đổi ý kiến không chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông N nữa.
Các đương sự đều thống nhất, phần đất tranh chấp theo đo đạc thực tế có tổng
diện tích là 160m
2
chiều ngang là 05m, chiều dài 32m (đã trừ mốc lộ giới) thuộc tờ
bản đồ số 12, thửa đất số 244 tại tdân phố 1 (tổ dân phố 8 cũ), thị trấn M’Đrắk.
ví t: Phía Đông giáp thửa 244a, đất ông Phạm Ngọc X dài 41,5m (tính ttim
đường Quang Trung), trừ đất quy hoạch, còn 32m; Phía Tây giáp thửa 244c, đất
ông Nguyễn Ngọc N dài 41,5m (tính từ tim đường Quang Trung), trừ đất quy
hoạch, còn 32m; Phía Nam đường Quang Trung dài 5m; Phía Bắc giáp đường liên
thôn dài 5m;
Theo quy đnh ti khoản 5 Điều 98 ca Luật Đất đai năm 2013 thì: Trường
hợp schênh lệch diện tích giữa số liệu đo đạc thực tế với số liệu ghi trên giấy
tờ …không thay đổi so với ranh giới thửa đất…, không tranh chấp với những
người sử dụng đất liền kề thì …xác định theo số liệu đo đạc thực tế...”. HĐXX xét
thấy sự chênh lệch về diện tích đất đo đạc trên thực tế ít hơn so với diện tích đất
ghi trong GCNQSDĐ giấy sang nhượng một phần là do Nhà nước mới làm
đường lớn hơn, không làm thay đổi bản chất của giao dịch chuyển nhượng đất, các
đương sự đồng ý với diện tích đất thực tế đo đạc, hiện không xảy ra tranh chấp về
vị trí, ranh giới với các thửa đất liền kề, p hợp với diễn biến của quá trình
chuyển nhượng đất cũng như lời khai của các đương sự.
Đơn xin chuyển nhượng đất thổ được xác lập ngày 12/8/2020 dựa trên
Giấy nhượng đất ngày 01/01/1999. Giao dịch dân sự giữa các bên hoàn toàn t
nguyện, hợp đồng được lập thành văn bản nhưng không thực hiện đúng theo thủ
tục công chứng, chứng thực theo quy định tại Điều 502 Bộ luật dân sự khoản 3
Điều 167 Luật đất đai năm 2013 chưa được đăng tại cơ quan đăng ký đất đai
11
và vào sổ địa chính theo quy định tại Điều 503 Bộ luật dân sự và khoản 3 Điều 188
Luật đất đai. Nên hợp đồng dân sự giữa các bên chưa có hiệu lực pháp luật.
[2.4] Theo khoản 2 Điều 129 Bộ Luật dân sthì “Giao dịch dân sự đã được
xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực
một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch
thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu
lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc
công chứng, chứng thực.”.
Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa các bên mặc vi
phạm quy định về mặt hình thức bắt buộc phải công chứng, chứng thực nhưng
không bị vô hiệu, do ông N đã thực hiện xong nghĩa trả vàng theo thoả thuận ngày
01/01/1999 cho vợ chồng ông B D. Mặt khác, diện tích đất còn lại tại thửa số
244, vợ chồng ông B D đã chuyển nhượng cho ông G, ông G đã chuyển đổi cho
N đnhận thửa đất số 244c, ông G đã chuyển nhượng thửa đất số 244c cho M
(vợ chồng ông B D ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng trực tiếp cho bà
M). Như vậy, vchồng ông B D không còn quyền sử dụng diện tích đất còn lại
tại thửa 244. Đến ngày 12/8/2020 vợ chồng ông B D và các con của ông B D
vào Đơn chuyển nhượng diện tích đất thực tế còn lại tại thửa 244 cho ông N,
được coi hợp hoá thủ tục. Để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp giữa các
bên, HĐXX cần công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền s dụng đất ngày
12/8/2020, giữa vợ chồng ông Hoàng B bà Phạm Thị D cùng các con của ông B
D Hoàng Thị Mỹ L, Hoàng Thị Thuý H ông Hoàng Cao Phú C với ông
Lý Nghĩa N.
[3] Theo đơn khởi kiện, ông Lý Nghĩa N yêu cầu bị đơn vợ chồng ông B D
phải chuyển nhượng cho ông N diện tích đất tại thửa 244 6m x 50m = 300m
2
.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, ông N chỉ yêu cầu bị đơn cùng người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà H, bà L và ông C phải chuyển nhượng diện tích
thực tế còn lại trong thửa đất số 244 5m x 32m = 160m
2
(đã trừ diện đất quy
hoạch). Áp dụng khoản 2 Điều 244 BLTTDS, HĐXX đình chỉ mt phần yêu cầu
khởi kiện của N đơn ông N yêu cầu bị đơn vợ chồng ông B D phải chuyển
nhượng cho ông N diện tích 140m
2
đất trong thửa số 244.
[4].Về chi phí thẩm định và định giá:
Về chi phí thẩm định định giá: ông N yêu cầu thẩm định, định giá diện tích
đất chuyển nhượng, ông N tự nguyện chịu toàn bộ tiền chi phí xem xét thẩm định
tại chỗ định giá 1.000.000đồng. Xét thấy, việc ông N tự nguyện nộp khoản
tiền này là phù hợp với pháp luật, HĐXX cần chấp nhận, được khấu trừ vào số tiền
ông N đã nộp tạm ứng chi phí thẩm định và định giá 1.000.000đồng.
12
Về chi phí giám định: Bị đơn ông B D yêu cầu giám định chữ chữ viết
trong Giấy chuyển nhượng đất đề ngày 01/01/1999, ông cho rằng ông
không viết không ký. Tuy nhiên, theo Kết luận giám định thì chữ ký, chviết
trong Giấy chuyển nhượng đất đề ngày 01/01/1999 là do ông bà ký và viết. Nên vợ
chồng ông B D phải chịu 7.060.000đồng tiền chi phí giám định, được khấu trừ
vào số tiền 7.060.000đồng Hoàng Thị Mỹ L đã nộp tiền tạm ứng chi phí
giám định thay ông B D.
[5] Về án phí: Do yêu cầu của N đơn được HĐXX chp nhận, nên bị đơn vợ
ông B D, cùng những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hoàng Thị
Thúy H, bà Hoàng Thị Mỹ L ông Hoàng Cao Phú C, mỗi người phải chịu
300.000đồng tiền án phí Dân sự thẩm. Tuy nhiên, vợ chồng ông B D
người cao tuổi, đơn đề nghị miễn án phí, nên vợ chồng ông B D được miễn
toàn bộ tiền án phí Dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 85, Điều
147, Điều 220, khoản 2 Điều 244, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 271 Điều
273 Bộ luật tố tụng dân s; Điều 129, Điều 502, Điều 503 Bộ luật dân sự; khoản 5
Điều 98, Điều 166, Điều 167, Điều 188 Luật đất đai năm 2013; điểm đ khoản 1
Điều 12 Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 3 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của N đơn ông Lý Nghĩa N
1.Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 12/8/2020
giữa, nguyên đơn ông Nghĩa N với bị đơn vchồng ông Hoàng B Phạm Thị
D cùng những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hoàng Thị Thuý H,
Hoàng Thị Mỹ L ông Hoàng Cao Phú C:
Ông Lý Nghĩa N quyền sử dụng diện tích đất 160m
2
, bao gồm 100m
2
đất
tại đô thị (ODT) và 60m
2
đất trồng cây hàng năm (đã trừ diện tích đất quy hoạch)
tại tờ bản đồ số 12, thửa đất số 244, tại tdân phố 1 (tổ dân phố 8 cũ), thị trấn
M’Đrắk, huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk. Theo Giấy chứng nhận quyền sdụng đất
số BT 441028 ngày 27/5/2015 của Uỷ ban nhân dân huyện M’Đrắk cấp cho hộ ông
Hoàng B Phạm Thị D, trí: Phía Đông giáp thửa 244a, đất ông Phạm Ngọc
X dài 41,5m (tính từ tim đường Quang Trung), trừ đất quy hoạch, còn 32m; Phía
Tây giáp thửa 244c, đất ông Nguyễn Ngọc N dài 41,5m (tính từ tim đường Quang
13
Trung), trừ đất quy hoạch, còn 32m; Phía Nam đường Quang Trung dài 5m; Phía
Bắc giáp đường liên thôn dài 5m.
Ông Nghĩa N trách nhiệm liên hvới quan thẩm quyền để đăng
ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nghĩa N yêu
cầu bị đơn vợ chồng ông Hoàng B Phạm D phải chuyển nhượng cho ông N diện
tích 140m
2
đất tại tờ bản đồ số 12, thửa đất số 244 tại tổ dân phố 1 (tổ dân phố 8
cũ), thị trấn M’Đrắk, huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk.
3. Về chi phí thẩm định và định giá:
Ông Nghĩa N chịu 1.000.000đồng tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ
định giá, được khấu trừ vào số tiền 1.000.000đồng ông N đã nộp tạm ứng
chi phí thẩm định và định giá.
Vợ chồng ông Hoàng B Hoàng Thị D phải chịu 7.060.000đồng tiền chi phí
giám định, được khấu trừ vào số tiền 7.060.000đồng Hoàng Thị Mỹ L đã
nộp tiền tạm ứng chi phí giám định thay ông B D.
4. Về án phí:
- Vợ chồng ông Hoàng B Hoàng Thị D được miễn toàn bộ tiền án phí Dân
sự sơ thẩm.
- Hoàng Thị Thúy H, Hoàng Thị Mỹ L ông Hoàng Cao Phú C, mỗi
người phải chịu 300.000đồng tiền án phí Dân sự sơ thẩm.
-Trả lại cho ông Nghĩa N 300.000đồng tiền tạm ứng án phí mà ông N đã
nộp theo biên lai số 60/AA/2021/0009407 ngày 13/7/2022 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện M’Đrăk.
5. Thông báo quyền kháng cáo:
Các đương sự mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án dân sự
thẩm trong hạn luật định 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Đương sự vắng mặt tại
phiên tòa được quyền kháng cáo bản án dân sự thẩm trong hạn luật định là 15
ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 Điều 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiêụ thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
14
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Nơi nhận: ( Đã ký)
-TAND tỉnh Đắk Lắk;
-VKSND huyện M’Đrắk;
-Chi cục T.H.A dân sự huyện M’Đrắk;
-Các đương sự
-Lưu hồ sơ vụ án.
Nguyễn Thế Dương
Tải về
Bản án số 19/2024/DS-ST Bản án số 19/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 19/2024/DS-ST Bản án số 19/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất