Bản án số 38/2025/DS-PT ngày 14/01/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 38/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 38/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 38/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 38/2025/DS-PT ngày 14/01/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 38/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | 1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Bùi Văn T và bà Lê Thị N. 2. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 56/2024/DS-ST ngày 11 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 38/2025/DS-PT
Ngày 14-01-2025
V/v Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và yêu
cầu chấm dứt hành vi
trái pháp luật
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Lê Hoàng Vương.
Ông Nguyễn Văn Thanh;
Bà Đinh Thị Mộng Tuyết.
- Thư ký phiên tòa: Ông Đặng Hùng Cường - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Ông Trần Đức Thoại – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 07 và 14 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
517/2024/TLPT-DS ngày 29/10/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 56/2024/DS-ST ngày 11 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 480/2024/QĐ-PT ngày
19 tháng 11 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 564/2024/QĐ-
PT ngày 10 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Quốc H, sinh năm 1986; địa chỉ: số C, tổ
A, ấp T, xã T, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Bị đơn: Ông Bùi Văn T, sinh năm 1953 và bà Lê Thị N, sinh năm 1958;
địa chỉ: số C, tổ A, ấp T, xã T, thành phố T, tỉnh Bình Dương; ông T có mặt; bà
N có mặt ngày 07/01/2025, vắng mặt khi tuyên án.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Quang N1, sinh năm
1977; địa chỉ: số C, tổ A, ấp T, xã T, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Người kháng cáo: bị đơn ông Bùi Văn T, bà Lê Thị N.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm:
- Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Quốc H trình bày:
Ngày 08/3/2023, bà Nguyễn Thị Quốc H và vợ chồng ông Bùi Văn T, bà
Lê Thị N ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; theo đó: hai bên
thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 393,7m
2
thuộc thửa 921
(tách từ thửa 220) tờ bản đồ số 4 tọa lạc tại xã T, thành phố T, tỉnh Bình Dương;
hợp đồng được công chứng theo số công chứng 01597, quyển số 03/2023
TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C. Ngày 07/4/2023, bà H được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số DK603139, số vào sổ cấp GCN CS01692 đối
với thửa đất trên.
Sau đó, bà H đến thửa đất trên để dọn dẹp, cải tạo và làm hàng rào nhưng
phía bị đơn không đồng ý bàn giao đất. Do đó, bà H nộp đơn tranh chấp đến Ủy
ban nhân dân xã T nhưng ông T và bà N không đến để hòa giải.
Do vậy, bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án: Buộc ông Bùi Văn T và bà Lê
Thị N tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công
chứng 01597, quyển số 03/2023 ngày 08/3/2023 tại Văn phòng C là bàn giao
diện tích đất theo hợp đồng đã ký kết đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và tài sản khác gắn liền trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số vào sổ CS01692 cho bà Nguyễn Thị Quốc H; buộc ông Bùi Văn T và bà
Lê Thị N chấm dứt hành vi cản trở việc sử dụng đất hợp pháp của bà Nguyễn
Thị Quốc H đối với thửa 921 tờ bản đồ số 4 tại xã T, thành phố T, tỉnh Bình
Dương.
Tại phiên tòa sơ thẩm, bà H thay đổi yêu cầu khởi kiện như sau:
Yêu cầu Tòa án công nhận cho bà Nguyễn Thị Quốc H được quyền quản
lý, sử dụng quyền sử dụng đất diện tích 393,7m
2
thuộc thửa 921 tờ bản đồ số 4
tại xã T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Yêu cầu ông Bùi Văn T và bà Lê Thị N chấm dứt hành vi cản trở việc sử
dụng đất hợp pháp của bà Nguyễn Thị Quốc H đối với quyền sử dụng đất diện
tích 393,7m
2
thuộc thửa 921 tờ bản đồ số 4 tại xã T, thành phố T, tỉnh Bình
Dương.
Bị đơn ông Bùi Văn T và bà Lê Thị N trình bày:
Thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn về việc ký kết Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên.
Quá trình ký kết hợp đồng, hai bên thỏa thuận: ông T và bà N chuyển
nhượng cho bà H phần đất có chiều ngang giáp đường là 10m, chiều ngang giáp
sông là 10m x chiều dài 40m; bà H là người chịu trách nhiệm làm thủ tục tách
thửa, liên hệ văn phòng công chứng làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất. Ông T, bà N đã giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho bà H để bà H đi làm thủ tục.
3
Ông T và bà N có ký kết hợp đồng ủy quyền cho ông Nguyễn Mạnh T1
để đi làm thủ tục tách thửa 220; đồng thời, ông T1 cũng là người do bà H thuê
để làm thủ tục. Khi tiến hành đo đạc thực tế thì bà H là người hướng dẫn đo đạc
nhưng vị trí hướng dẫn đo đạc không đúng với thỏa thuận ban đầu nên ông T và
bà N không cho đo đạc. Việc ra kết quả đo đạc là do địa chính xã T và cán bộ đo
đạc thực hiện; ông T và bà N không biết. Khi ký kết hợp đồng chuyển nhượng
tại văn phòng công chứng thì ông T, bà N không được xem kết quả đo đạc, vì
ông T, bà N đã nhận đủ tiền chuyển nhượng của bà H nên ông bà mới ký hợp
đồng chuyển nhượng.
Do vị trí đất không đúng như đã thỏa thuận nên ông T và bà N không
đồng ý bàn giao đất cho bà H. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì ông
T và bà N không đồng ý.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Quang N1: thống nhất
theo lời trình bày của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 56/2024/DS-ST ngày 11 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Chấp nhận yều cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Quốc H.
- Bà Nguyễn Thị Quốc H được quyền quản lý, sử dụng quyền sử dụng đất
diện tích 393,7m
2
thuộc thửa 921 tờ bản đồ số 4 tại xã T, thành phố T, tỉnh Bình
Dương.
- Buộc ông Bùi Văn T và bà Lê Thị N chấm dứt hành vi cản trở trái pháp
luật đối với quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Quốc H đối với quyền sử
dụng đất diện tích 393,7m
2
thuộc thửa đất số 921 tờ bản đồ số 4 tại xã T theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CS01692 cấp cho bà Nguyễn Thị
Quốc H ngày 07/4/2023.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo
của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20/6/2024, bị đơn ông T và bà N kháng cáo
toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị
đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
08/3/2023 đã được các bên thống nhất xác lập, về mặt pháp lý đã có giá trị,
nguyên đơn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất
nhận chuyển nhượng, bị đơn đã nhận đủ tiền chuyển nhượng. Do đó, bị đơn có
4
trách nhiệm bàn giao đất đã chuyển nhượng cho nguyên đơn theo quy định. Bản
án sơ thẩm xét xử là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1
Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Đơn kháng cáo của bị đơn ông T và bà N nộp trong thời hạn, có nội
dung, hình thức phù hợp với quy định của pháp luật nên đủ điều kiện để thụ lý
và xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Theo đơn khởi kiện nguyên đơn yêu cầu bị đơn ông Bùi Văn T và bà
Lê Thị N tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công
chứng 01597, quyển số 03/2023 ngày 08/3/2023 tại Văn phòng C là bàn giao
diện tích đất theo hợp đồng đã ký kết đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và tài sản khác gắn liền trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số vào sổ CS01692 cho bà Nguyễn Thị Quốc H và buộc ông T, bà N chấm
dứt hành vi cản trở việc sử dụng đất hợp pháp của bà Nguyễn Thị Quốc H đối
với thửa 921 tờ bản đồ số 4 tại xã T, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Tại phiên
tòa sơ thẩm, nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện như sau: yêu cầu Tòa án
công nhận cho bà Nguyễn Thị Quốc H được quyền quản lý, sử dụng quyền sử
dụng đất diện tích 393,7m
2
thuộc thửa 921 tờ bản đồ số 4 tại xã T, thành phố T,
tỉnh Bình Dương; yêu cầu ông Bùi Văn T và bà Lê Thị N chấm dứt hành vi cản
trở việc sử dụng đất hợp pháp của bà Nguyễn Thị Quốc H đối với quyền sử
dụng đất diện tích 393,7m
2
thuộc thửa 921 tờ bản đồ số 4 tại xã T, thành phố T,
tỉnh Bình Dương. Xét thấy, bị đơn thừa nhận có việc giao kết hợp đồng, tuy
nhiên cho rằng vị trí mà bà H đã được cấp không đúng vị trí đất mà hai bên đã
thỏa thuận. Phần đất bà H chỉ ranh đã bao gồm phần đất của bị đơn không
chuyển nhượng. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là
“Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu chấm dứt
hành vi trái pháp luật” là có căn cứ.
[3] Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành điều tra, thu thập chứng
cứ không đầy đủ, bỏ sót người tham gia tố tụng và giải quyết vụ án không triệt
để và đầy đủ; cụ thể như sau:
[3.1] Theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 04/12/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Dương thì phần hai bên đương sự có tranh chấp chính là
phần đường đất tại cạnh hướng T, nguyên đơn cho rằng thỏa thuận chuyển
nhượng chừa đường đất có chiều dài từ trụ bê tông của nhà bà Nguyễn Thị Đ (là
chủ sử dụng thửa đất liền kề giáp phía Tây thửa đất đang tranh chấp) sang phía
Đông chiều dài 1,75m. Bị đơn cho rằng không có con đường ngang 1,75m
nhưng trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào số CS01692 cho bà
Nguyễn Thị Quốc H; ranh giới chuyển nhượng cho nguyên đơn tính từ hàng rào
5
đất giáp bà Nguyễn Thị Đ sang đất còn lại của bị đơn là 10m. Tại thời điểm
thẩm định hiện trạng đường đất không còn và thực tế tại cạnh hướng Tây thửa
921 giáp đất bà Đ phân ranh là hàng rào trụ bê tông, lưới B40 do bị đơn làm.
Như vậy, trong trường hợp này Tòa án cấp sơ thẩm phải đo tổng thể thửa 220
trước khi tách thửa, cần thiết xem xét đưa Ủy ban nhân dân xã T, Ủy ban nhân
dân thành phố T vào tham gia tố tụng xác định vị trí con đường, trên cơ sở đó
mới có căn cứ xác định quyền sử dụng đất thực tế của bị đơn để đánh giá thỏa
thuận giữa hai bên, giải quyết triệt để vụ án.
[3.2] Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ trên đất tranh chấp có các
tải sản của bị đơn gồm hàng rào có kết cấu chân gạch xây tô, ốp gạch lưới B40
trụ sắt V, trụ cổng cao 2m2 (đường kính 40x40cm), cổng sắt; 01 bàn thiên; 01
mái che gắn liền căn nhà cấp 4; một phần nhà ở diện tích 0,15m
2
,... Tuy nhiên,
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc bị đơn chấm dứt hành vi cản trở nguyên đơn sử
dụng đất nhưng lại không xem xét, giải quyết các tài sản của bị đơn có trên đất
là thiếu sót, không đảm bảo việc thi hành.
[4] Từ những phân tích trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm thu thập chứng
cứ chưa đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và có vi phạm nghiêm
trọng về thủ tục tố tụng nên Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm. Do vậy,
kháng cáo của bị đơn ông T và bà N là có căn cứ chấp nhận một phần.
[5] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại
phiên tòa là không phù hợp nên không chấp nhận.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: do hủy bản án sơ thẩm nên không phải
chịu. Ông T và bà N là người cao tuổi, có đơn xin miễn án phí phúc thẩm nên
được miễn nộp tạm ứng án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 148, khoản 3 Điều 308, Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Bùi Văn T và bà Lê Thị
N.
2. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 56/2024/DS-ST ngày 11 tháng 6 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình
Dương giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: không.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
6
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố Tân Uyên;
- TAND thành phố Tân Uyên ;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Hoàng Vương
Tải về
Bản án số 38/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 38/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm