Bản án số 04/2025/DS-PT ngày 02/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 04/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 04/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 04/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 04/2025/DS-PT ngày 02/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 04/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ông yêu cầu Tòa án hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Chuyển nhượng cho ông B và bà M phần đất diện tích 1.885m2, thửa số 232, tờ bản đồ 11, tại khóm E, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Cà Mau. + Tặng cho bà Ú phần đất diện tích 14.950m2, thửa 308, tờ bản đồ 06 và diện tích 378m2, thửa số 592, tờ bản đồ 06, tại ấp H, xã N, huyện Đ, tỉnh Cà Mau; sau đó bà Ú chuyển nhượng phần đất nêu trên cho ông L và bà G để đảm bảo quyền lợi thi hành án cho ông. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 04 /2025/DS-PT
Ngày 02 – 01 – 2025
V/v tranh chấp hợp đồng tặng cho,
chuyển nhượng, cầm cố quyền sử dụng
đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Lập
Các Thẩm phán: Ông Đặng Minh Trung
Ông Ninh Quang Thế
- Thư ký phiên tòa: Bà Hứa Như Nguyện - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà: Ông
Hữu Duy Khánh – Kiểm sát viên.
Ngày 02 tháng 01 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 437/2024/TLPT-DS ngày 25 tháng 10
năm 2024 về việc: Tranh chấp hợp đồng tặng cho, chuyển nhượng, cầm cố quyền
sử dụng đất.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 275/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 335/2024/QĐ-PT ngày 06
tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thế V, sinh năm 1984 (Có mặt);
Địa chỉ cư trú: Khóm B, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Cà Mau
- Bị đơn:
1. Ông Trần Quốc V1, sinh năm 1984 (Có mặt);
2. Bà Điền Thị Ú, sinh năm 1988 (Vắng mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: Khóm E, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Cà Mau
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Công B, sinh năm 1982;
2. Bà Vũ Thị M, sinh năm 1985;
Cùng địa chỉ cư trú: Khóm D, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Cà Mau
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của ông Nguyễn Công B và bà Vũ
Thị M: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1982; địa chỉ cư trú: ấp T, xã T, huyện Đ,
tỉnh Cà Mau (Có mặt);
3. Ông Nguyễn Khánh L, sinh năm 1992 (Có mặt);
4. Bà Nguyễn Kim G, sinh năm 1997 (Có mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: Khóm D, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Cà Mau;
5. Ông Nguyễn Long B1, sinh năm 1978 (Có mặt);
6. Ông Nguyễn Thành T, sinh năm 1991 (Vắng mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: ấp T, xã N, huyện Đ, tỉnh Cà Mau;
7. Ngân hàng Thương mại Cổ phần P2
Địa chỉ: Tòa nhà T, số A T, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Văn T1, chức vụ: Chủ tịch Hội
đồng quản trị.
Người đại diện theo uỷ quyền:
7.1. Ông Lý Hùng A, chức vụ: Chuyên viên cao cấp xử lý nợ (Có mặt);
7.2. Ông Nguyễn Trung H1, chức vụ: Trưởng nhóm thu hồi nợ hiện trường
(Có mặt).
- Người kháng cáo:Ông Nguyễn Thế V, là nguyên đơn; Ông Trần Quốc V1,
Điền Thị Ú là bị đơn; Ông Nguyễn Khánh L, Ngân hàng Thương mại Cổ phần P2,
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo ông Nguyễn Thế V trình bày:
Trước đây, ông Trần Quốc V1 có mượn của ông số tiền 175.000.000 đồng,
ông Quốc V1 không thanh toán nên ông khởi kiện ra Tòa án vào tháng 02/2023.
Khi Tòa án giải quyết, hai bên thương lượng trả tiền nên ông rút lại đơn kiện. Sau
khi rút đơn ông Quốc V1 không thực hiện cam kết trả nợ nên tháng 04/2023, ông
tiếp tục khởi kiện ông Quốc V1. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 100/2023/DS-ST
ngày 22/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi tuyên xử buộc ông Quốc V1
trả cho ông số tiền 175.000.000 đồng, bản án đã có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên,
ông Quốc V1 không thi hành trả số tiền nợ cho ông mà còn có hành vi tẩu tán tài
sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, cụ thể:
+ Chuyển nhượng cho ông B và bà M phần đất diện tích 1.885m
2
, thửa số
232, tờ bản đồ 11, tại khóm E, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.
+ Tặng cho bà Ú phần đất diện tích 14.950m
2
, thửa 308, tờ bản đồ 06 và
diện tích 378m
2
, thửa số 592, tờ bản đồ 06, tại ấp H, xã N, huyện Đ, tỉnh Cà Mau;
sau đó bà Ú chuyển nhượng phần đất nêu trên cho ông L và bà G
Do đó, ông yêu cầu Tòa án hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất nêu trên để đảm bảo quyền lợi thi hành án cho ông.
- Theo ông Trần Quốc V1 trình bày:
Đối với phần đất tại ấp H, xã N, huyện Đ do ông nhận chuyển nhượng và
đứng tên quyền sử dụng đất. Đến khoảng tháng 01/2023 âm lịch, ông làm hợp
đồng tặng cho lại bà Điền Thị Ú là vợ ông đứng tên; sau đó, bà Ú lập hợp đồng
chuyển nhượng cho ông L. Mặc dù ký hợp đồng chuyển nhượng nhưng thực tế là
thế chấp cho ông L giá 1.000.000.000 đồng, mỗi tháng đóng lãi 45.000.000 đồng,
thời hạn 6 tháng có tiền sẽ chuộc lại đất. Phần đất này ông đã tặng cho bà Ú nên là
tài sản riêng của bà Ú.
Đối với phần đất tại khóm E, thị trấn Đ do ông đứng tên quyền sử dụng đất
nhưng cũng đã ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông B và bà M. Hình thức ban
đầu là thế chấp, nhưng do ông nợ tiền thức ăn nuôi tôm của ông Bằng K khả năng
thanh toán và sau này nhận thêm tiền mặt nên ký hợp đồng chuyển nhượng khoảng
tháng giêng năm 2023 âm lịch, giá chuyển nhượng là 4.700.000.000 đồng, trong đó
có số tiền 3.200.000.000 đồng là nợ tiền mua bán thức ăn, tiền mượn là
1.500.000.000 đồng, có thỏa thuận bằng văn bản tiền lãi là 12%/năm, nhưng chưa
đóng lãi; ông B cho ông mượn lại đất để ở, thời hạn 4 năm có tiền sẽ chuộc lại đất.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thế V, ông không
đồng ý; ông không yêu cầu xử lý các hợp đồng giữa ông với ông L, ông B.
- Theo bà Điền Thị Ú trình bày:
Bà không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đối với phần đất tại xã
N, bà thế chấp cho ông L, bà G để vay số tiền vốn 1.000.000.000 đồng. Do ông
Linh T2 lãi nhiều, không đóng lãi nên ông Linh T2 lãi và vốn là 1.700.000.000
đồng. Đối với hợp đồng với ông B, bà M số tiền là 4.700.000.000 đồng. Đối với
hợp đồng cố đất với ông B1, ông T, khi ông Quốc V1 cố đất bà không biết, sau này
bà mới biết ông Quốc V1 cố đất để nuôi tôm công nghiệp. Bà không đồng ý vô
hiệu các hợp đồng nêu trên.
- Theo ông Nguyễn Văn H (là người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn
Công B và bà Vũ Thị M) trình bày:
Ông B, bà M không đồng ý yêu cầu của nguyên đơn về việc hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Thế V và bà Ú với ông B và bà M, vì
hợp đồng chuyển nhượng là hợp pháp. Khi ký hợp đồng chuyển nhượng vào ngày
18/01/2023 thì phía bị đơn vẫn còn phần đất khác hơn 15.000m
2
để đảm bảo thi
hành cho nguyên đơn, và phần tài sản này lớn hơn rất nhiều so với khoản nợ mà bị
đơn nợ nguyên đơn. Đến tháng 06/2023, bị đơn mới chuyển nhượng tài sản này
cho ông L và bà G. Trường hợp có cơ sở Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng thì yêu
cầu bị đơn trả cho ông B, bà M số tiền chuyển nhượng là 4.700.000.000 đồng,
trong đó tiền nợ thức ăn muôi tôm là 3.200.000.000 đồng, đưa tiền mặt là
1.500.000.000 đồng; đồng thời yêu cầu tính lãi suất theo quy định đối với số tiền
vốn 4.700.000.000 đồng, trong đó: Đối với số tiền 3.200.000.000 đồng tính lãi từ
ngày 04/12/2020 đến khi thanh toán xong nợ; đối với số tiền 1.500.000.000 đồng
tính lãi suất 12%/năm theo thỏa thuận từ 18/01/2023 đến khi thanh toán xong nợ.
Đối với phần đất nhận chuyển nhượng của bị đơn, sau khi chuyển nhượng có làm
giấy tờ cho bị đơn mượn lại đất, nếu như bị đơn có điều kiện mua lại sẽ ký chuyển
nhượng lại cho bị đơn.
- Theo ông Nguyễn Khánh L trình bày:
Ông không thống nhất hủy hợp đồng chuyển nhượng theo yêu cầu của
nguyên đơn. Trường hợp có cơ sở Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng thì buộc bị
đơn trả số tiền chuyển nhượng là 1.700.000.000 đồng và tính lãi suất theo quy định
pháp luật từ thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng đến khi thanh toán xong nợ.
Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng thì phần đất ông cho bị đơn thuê lại với giá
45.000.000 đồng/tháng, hiện nay cũng chưa trả tiền thuê tháng nào. Ngoài ra
không yêu cầu bồi thường nào khác.
- Theo ông Nguyễn Long B1 và ông Nguyễn Thành T thống nhất trình bày:
Ngày 10/3/2023, ông Trần Quốc V1 có cố cho ông B1, ông T phần đất nuôi
trồng thủy sản diện tích 13 công tầm lớn, giá cố đất 300.000.000 đồng, thời hạn cố
đất đến tháng 03/2027. Nay phần đất phát sinh tranh chấp, nên ông T và ông B1
yêu cầu vô hiệu hợp đồng cầm cố đất; buộc ông Trần Quốc V1 trả lại số tiền cố đất
300.000.000 đồng. Ông T và ông B1 đồng ý trả lại phần đất cầm cố. Ngoài ra, các
ông không đặt ra yêu cầu bồi thường nào khác.
- Đại diện Ngân hàng Thương mại Cổ phần P2 trình bày:
Ngân hàng nhận thế chấp tài sản và cho vay theo đúng quy định, do đó hợp
đồng thế chấp phải được công nhận hiệu lực, được pháp luật bảo vệ và không bị
ảnh hưởng bởi các hành vi vi phạm của ông L, bà G. Ngân hàng không yêu cầu
Tòa án giải quyết liên quan đến hợp đồng vay tài sản và hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất giữa Ngân hàng với ông L, bà G.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 275/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi quyết định:
- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thế V về
việc vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Quốc V1
và bà Điền Thị Ú với ông Nguyễn Công B và bà Vũ Thị Minh L1 ngày
18/01/2023, diện tích 1.885,0m
2
, thửa số 232, tờ bản đồ 11, theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CC 428264 cấp cho ông Trần Quốc V1 ngày 27/10/2015 và
cập nhật biến động chuyển tên cho ông Nguyễn Công B và bà Vũ Thị M ngày
15/02/2023. Đất tọa lạc tại khóm E, thị trấm Đ, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.
Vị trí cụ thể như sau: Hướng Đông giáp phần đất ông Bùi Minh P; Hướng
Tây giáp lộ nhựa giao thông (đường T); Hướng Nam giáp đất ông Nguyễn Hùng
H2; Hướng Bắc giáp đất bà Trần Mỹ D;
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thế V.
Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Trần Quốc V1 và
bà Điền Thị Ú lập ngày 18/4/2023, diện tích 15.328m
2
theo giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CE 886041, thửa số 308, 592 cấp cho ông Trần Quốc V1, đất tọa
lạc tại ấp H, xã N, huyện Đ, tỉnh Cà Mau là vô hiệu.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Điền Thị Ú
với ông Nguyễn Khánh L và bà Nguyễn Kim G lập ngày 21/6/2023, diện tích
14.950m
2
theo giấy chứng nhận số DL 159675 , thửa số 308, tờ bản đồ 06 và diện
tích 378,0m
2
theo giấy chứng nhận số DL 159674, thửa số 592, tờ bản đồ 06, cấp
cho bà Điền Thị Ú ngày 05/5/2023, cập nhật biến động chuyển nhượng cho ông
Nguyễn Khánh L, bà Nguyễn Kim G ngày 29/6/2023. Đất đều tọa lạc tại ấp H, xã
N, huyện Đ, tỉnh Cà Mau là vô hiệu.
Tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
ST23023154/2023/CĐ/HĐTC giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần P2 – Phòng
giao dịch huyện Đ với ông Nguyễn Khánh L, bà Nguyễn Kim G lập ngày
09/8/2023, diện tích 14.950m
2
theo giấy chứng nhận số DL 159675, thửa số 308, tờ
bản đồ 06, cấp cho bà Điền Thị Ú ngày 05/5/2023, cập nhật biến động chuyển
nhượng cho ông Nguyễn Khánh L, bà Nguyễn Kim G ngày 29/6/2023. Đất tọa lạc
tại ấp H, xã N, huyện Đ, tỉnh Cà Mau là vô hiệu.
- Buộc ông Trần Quốc V1 và bà Điền Thị Ú cùng trách nhiệm liên đới trả
cho ông Nguyễn Khánh L và bà Nguyễn Kim G số tiền 1.965.934.000 đồng, trong
đó: Vốn vay 1.700.000.000 đồng, lãi suất 265.943.000 đồng.
- Buộc Ngân hàng Thương mại Cổ phần P2 – Phòng giao dịch huyện Đ trả
lại cho ông Trần Quốc V1 và bà Điền Thị Ú bản chính giấy chứng nhận số DL
159675 , thửa số 308, tờ bản đồ 06, cấp cho bà Điền Thị Ú ngày 05/5/2023, cập
nhật biến động chuyển nhượng cho ông Nguyễn Khánh L, bà Nguyễn Kim G ngày
29/6/2023.
- Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Long B1 và ông Nguyễn
Thành T.
Tuyên bố hợp đồng cố đất giữa ông Nguyễn Long B1 và ông Nguyễn Thành
T với ông Trần Quốc V1 lập ngày 10/3/2023 vô hiệu.
Buộc ông Trần Quốc V1 và bà Điền Thị Ú trả lại cho ông Nguyễn Long B1
và ông Nguyễn Thành T số tiền cố đất 300.000.000 đồng.
Buộc ông Nguyễn Long B1 và ông Nguyễn Thành T trả lại cho ông Trần
Quốc V1 và bà Điền Thị Ú phần đất cố với diện tích diện tích 14.950m
2
theo giấy
chứng nhận số DL 159675, thửa số 308, tờ bản đồ 06 và diện tích 378,0m
2
theo
giấy chứng nhận số DL 159674, thửa số 592, tờ bản đồ 06, cấp cho bà Điền Thị Ú
ngày 05/5/2023, cập nhật biến động chuyển nhượng cho ông Nguyễn Khánh L, bà
Nguyễn Kim G ngày 29/6/2023. Đất tọa lạc tại ấp H, xã N, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, lãi suất chậm trả, án
phí và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 10/9/2024, Ông Trần Quốc V1 và bà Điền Thị Ú có đơn kháng cáo
yêu cầu sửa bản án sơ thẩm; ông Quốc V1 và bà Ú đồng ý trả cho ông L và bà G
tiền vốn 01 tỷ đồng và lãi theo quy định pháp luật; buộc ông L, bà G, Ngân hàng
Thương mại Cổ phần P2 trả lại bản chính Giấy chứng nhận QSDĐ số DL 159675
cấp cho bà Điền Thị Ú đứng tên ngày 05/5/2023 được cập nhật biến động cho ông
Nguyễn Khánh L và bà Nguyễn Kim G ngày 29/6/2023.
Ngày 13/9/2024, ông Nguyễn Thế V có đơn kháng cáo, yêu cầu huỷ hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Quốc V1 và bà Điền Thị Ú
với ông Nguyễn Công B và bà Vũ Thị Minh L1 ngày 18/01/2023, diện tích
1.885m
2
, thửa số 232, tờ bản đồ 11, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CC 428264 cấp cho ông Trần Quốc V1 ngày 27/10/2015 và cập nhật biến động
chuyển tên cho ông Nguyễn Công B và bà Vũ Thị M ngày 15/02/2023. Đất tọa lạc
tại khóm E, thị trấm Đ, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.
Ngày 16/9/2024, ông Nguyễn Khánh L có đơn kháng cáo: Không đồng ý
huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Ú với ông L, bà G;
Không đồng ý huỷ hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa ông L bà G với
Ngân hàng Thương mại Cổ phần P2 - Chi nhánh Đ.
Ngày 20/9/2024, Ngân hàng thương mại Cổ phần P2 có đơn kháng cáo, yêu
cầu công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
ST23023154/2023/CĐ/HĐTC giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần P2 – Phòng
giao dịch huyện Đ với ông Nguyễn Khánh L, bà Nguyễn Kim G lập ngày
09/8/2023 có hiệu lực pháp luật; Công nhận Ngân hàng Thương mại Cổ phần P2 là
người thứ ba ngay tình.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Ông Nguyễn Thế V, ông Trần Quốc V1, ông
Nguyễn Khánh L, Ngân hàng Thương mại Cổ phần P2 giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo; Bà Điền Thị Ú có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và giữ nguyên kháng cáo.
Phần tranh luận tại phiên toà:
Ông Thế V phát biểu: Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Quốc V1 và bà Ú
với ông B và bà M được ký kết vào ngày 18/01/2023 nhưng đến ngày 15/02/2023
ông B và bà M mới được điều chỉnh biến động giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Phần đất chuyển nhượng diện tích 1.885m
2
, trên đất có 02 căn nhà nhưng hợp
đồng chuyển nhượng ghi giá 100.000.000 đồng là không đúng với giá thực tế trên
thị trường, hợp đồng chuyển nhượng là giả tạo.
Ông Quốc V1 không có ý kiến tranh luận.
Ông H phát biểu: Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Quốc V1 và bà Ú với
ông B và bà M được ký kết vào ngày 18/01/2023, được chỉnh lý giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông B và bà M đứng tên ngày 15/02/2023. Giá chuyển
nhượng thực tế của diện tích đất 1.885m
2
là 4.700.000.000 đồng, nhưng trong hợp
đồng ghi giá 100.000.000 đồng là nhằm giảm tiền thuế. Khi ông Quốc V1 và bà Ú
chuyển nhượng phần đất cho ông B và bà M thì chưa phát sinh nghĩa vụ trả nợ của
ông Quốc V1 cho ông Thế V và khi đó ông Quốc V1 vẫn còn phần đất khác tại ấp
H, xã N, huyện Đ diện tích hơn 15.000m
2
, đảm bảo để trả nợ cho ông Thế V. Hợp
đồng chuyển nhượng giữa ông B và bà M với ông Quốc V1 và bà Ú là hợp pháp,
nên ông B và bà M không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ông L phát biểu: Khi bà Ú thế chấp quyền sử dụng đất cho ông có thoả
thuận việc chuyển nhượng. Ông chỉ thế chấp Ngân hàng vay số tiền 950.000.000
đồng. Ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Ngân hàng phát biểu: Hợp đồng thế chấp giữa Ngân hàng với ông
L và bà G là đúng quy định pháp luật, Ngân hàng là người thứ ba ngay tình. Toà án
cấp sơ thẩm không đưa P1 Công chứng tham gia tố tụng là không phù hợp. Nếu
giữa các đương sự có sự gian dối đã làm thiệt hại đến quyền lợi của Ngân hàng,
yêu cầu chuyển cơ quan điều tra làm rõ để tránh thiệt hại cho Ngân hàng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
không chấp nhận ông Nguyễn Thế V, ông Trần Quốc V1, bà Điền Thị Ú, ông
Nguyễn Khánh L, Ngân hàng Thương mại Cổ phần P2; giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Xét kháng cáo của ông Nguyễn Thế V, ông Trần Quốc V1, bà Điền Thị Ú,
ông Nguyễn Khánh L, Ngân hàng Thương mại Cổ phần P2, Hội đồng xét xử xét
thấy:
[1] Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) giữa ông
Trần Quốc V1, bà Điền Thị Ú với ông Nguyễn Công B, bà Vũ Thị M: Do ông
Quốc V1 và bà Ú nợ ông B và bà M tiền thức ăn tôm 3.200.000.000 đồng và tiền
mượn 1.500.000.000 đồng, tổng cộng 4.700.000.000 đồng không có khả năng
thanh toán, nên ngày 18/01/2023 ông Quốc V1 và bà Ú thống nhất ký hợp đồng
chuyển nhượng cho ông B và bà M phần đất diện tích 1.885m
2
, thuộc thửa số 232,
toạ lạc tại khóm E, thị trấn Đ, huyện Đ do ông Trần Quốc V1 đứng tên QSDĐ, cấp
ngày 27/10/2015 với giá 4.700.000.000 đồng để thanh toán nợ cho ông B và bà M
(giá ghi trong hợp đồng là 100.000.000 đồng); hợp đồng chuyển nhượng được Ủy
ban nhân dân thị trấn Đ chứng thực theo quy định pháp luật. Ông B và bà M được
cập nhật chỉnh lý biến động giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày
15/02/2023. Đối với khoản nợ ông Trần Quốc V1 nợ ông Nguyễn Thế V, tháng
02/2023 ông Thế V mới khởi kiện ông Quốc V1 và sau đó rút đơn khởi kiện; đến
tháng 4/2023 ông Thế V tiếp tục khởi kiện ông Quốc V1 và được Toà án nhân dân
huyện Đầm Dơi xét xử tại Bản án dân sự sơ thẩm số 100/2023/DS-ST ngày
22/5/2023, buộc ông Quốc V1 trả cho ông Thế V số tiền 175.000.000 đồng. Như
vậy, việc ông Thế V khởi kiện ông Quốc V1 cũng như bản án xét xử của Toà án
đều phát sinh sau thời gian ông Quốc V1 và bà Ú chuyển nhượng QSDĐ cho ông
B và bà M. Hơn nữa, tại thời điểm chuyển nhượng QSDĐ cho ông B, bà M thì ông
Quốc V1 và bà Ú vẫn còn phần đất tại ấp H, xã N, huyện Đ diện tích 15.328m
2
vẫn đảm bảo để thi hành án đối với số tiền 175.000.000 đồng cho ông Thế V. Tại
phiên toà sơ thẩm, ông Quốc V1 cũng xác định: Khi ông Quốc V1 và bà Ú chuyển
nhượng đất cho ông B và bà M thì vẫn còn tài sản để thi hành án trả nợ cho ông.
Do đó, việc ông Thế V cho rằng ông Quốc V1 và bà Ú chuyển nhượng QSDĐ cho
ông B và bà M nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án cho ông Thế V
là chưa có cơ sở. Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông Thế V về
việc tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Quốc V1, bà Ú với ông
B, bà M vô hiệu là có căn cứ.
[2] Đối với yêu cầu của ông Thế V về việc tuyên bố hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất giữa ông Quốc V1, bà Ú và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa bà Ú với ông L, bà G vô hiệu:
[2.1] Tháng 02/2023, ông Thế V khởi kiện yêu cầu ông Quốc V1 trả số nợ
175.000.000 đồng, Tòa án thụ lý vụ án ngày 27/3/2023 ông Quốc V1 ký bản cam
kết trả nợ cho ông Thế V nên ông Thế V rút đơn khởi kiện, nhưng ông Quốc V1
không thực hiện việc trả nợ. Tháng 04/2023, ông Thế V tiếp tục khởi kiện ông
Quốc V1 để yêu cầu trả nợ và được Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử tại
Bản án dân sự sơ thẩm số 100/2023/DS-ST ngày 22/5/2023, buộc ông Quốc V1 trả
cho ông Thế V số tiền 175.000.000 đồng. Như vậy, tại thời điểm tháng 02/2023,
ông Quốc V1 biết được việc ông Thế V yêu cầu ông trả số tiền nợ 175.000.000
đồng nhưng lại lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho vợ là bà Điền Thị Ú
vào ngày 18/4/2023 đối với phần đất tại ấp H, xã N huyện Đ, trong khi ngoài phần
đất này thì ông Quốc V1 không còn tài sản nào khác để đảm bảo thi hành án trả nợ
cho ông Thế V. Sau khi ký hợp đồng tặng cho, đến ngày 20/6/2023 bà Ú ký hợp
đồng thế chấp QSDĐ cho ông L với số tiền là 1.000.000.000 đồng và ký hợp đồng
thuê lại đất giá mỗi tháng bằng 45.000.000 đồng. Sau đó 01 ngày (tức ngày
21/6/2023) bà Ú ký hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ phần đất cho ông L, bà G
với giá ghi trong hợp đồng là 500.000.000 đồng. Đến ngày 29/6/2023, ông L và bà
G đăng ký chỉnh lý biến động đứng tên giấy chứng nhận QSDĐ. Đến ngày
09/8/2023, ông L và bà G thế chấp giấy chứng nhận QSDĐ tại Ngân hàng Thương
mại Cổ phần P2 để vay tiền. Đến ngày 10/10/2023, ông L và ông Quốc V1 tiếp tục
ký hợp đồng cho mượn tiền, ông L cho ông Quốc V1 mượn số tiền 400.000.000
đồng. Tiếp đến ngày 22/10/2023, bà Ú tiếp tục làm biên nhận tiền, nhận của ông L
tổng số tiền là 1.700.000.000 đồng.
[2.2] Mặt khác, khi ông Quốc V1 ký hợp đồng tặng cho QSDĐ cho bà Ú thì
phần đất này ông V1 đã thực hiện giao dịch cầm cố cho ông B1, ông T từ tháng
3/2023 với giá 300.000.000 đồng, đến tháng 3/2027 mới hết thời hạn hợp đồng;
ông B1 và ông T đã quản lý sử dụng đất từ khi nhận cầm cố cho đến nay. Đối với
ông Quốc V1 và bà Ú, khi cầm cố đất cho ông B1, ông T cũng như thế chấp
QSDĐ cho ông L và bà G để vay tiền cũng không thực hiện trả nợ cho ông Thế V.
Tại phiên toà, ông L cho rằng ông Quốc V1 và bà Ú thoả thuận chuyển nhượng
phần đất cho ông và bà G vào 22/11/2023; ông L thừa nhận hợp đồng chuyển
nhượng ký kết với bà Ú ngày 21/6/2023 thực chất là thế chấp để đảm bảo cho
khoản vay, việc ông tự ý đăng ký biến động đứng tên QSDĐ ngày 29/6/2023 và
đến ngày 09/8/2023 thế chấp QSDĐ để vay tiền Ngân hàng là không đúng, là trái
pháp luật.
[2.3] Như vậy, có cơ sở xác định việc ông Quốc V1 tặng cho QSDĐ cho bà
Ú, bà Ú chuyển nhượng QSDĐ cho ông L, bà G là giao dịch giả tạo nhằm trốn
tránh thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với người khác, nên giao dịch sẽ bị vô hiệu
theo khoản 2 Điều 124 Bộ luật Dân sự. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố hợp
đồng tặng cho QSDĐ giữa ông Quốc V1 với bà Ú và hợp đồng chuyển nhượng
QSDĐ giữa bà Ú với ông L, bà G vô hiệu là có căn cứ.
Về xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu: Theo khoản 1 Điều 124 của Bộ luật dân
sự quy định “1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che
giấu một giao dịch khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự
bị che giấu vẫn có hiệu lực…”
Đồng thời theo khoản 2 Điều 131 của Bộ luật dân sự quy định “2. Khi giao
dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận…”
[3] Đối với hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông V1, bà Ú, phần
đất hiện do ông B1, ông T canh tác nên khi xử lý hợp đồng cầm cố cần giao phần
đất về cho ông V1, bà Ú quản lý sử dụng.
[4] Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông L, bà G
với bà Ú vô hiệu, nhưng hợp đồng vay tài sản giữa các bên vẫn có hiệu lực, nên
cần buộc ông Quốc V1 và bà Ú phải thanh toán cho ông L và bà G số tiền vốn, lãi
theo quy định pháp luật. Xét thấy, tại hợp đồng thế chấp lập ngày 20/6/2023 các
bên đều thừa nhận số tiền ông Quốc V1 và bà Ú nhận của ông L và bà G là
1.000.000.000 đồng; tiếp theo là “hợp đồng cho cá nhân mượn tiền ngày
10/10/1023” thể hiện ông Quốc V1 có hỏi mượn của ông L 400.000.000 đồng; đến
ngày 22/11/2023 bà Ú làm làm biên nhận với ông L, nội dung thể hiện: “Tôi tên
Điền Thị Ú….. tôi có nhận của ông Nguyễn Khánh L.... số tiền 1.700.000.000
đồng, số tiền này giá trị chuyển nhượng toàn bộ phần đất của tôi tọa lạc tại ấp H,
xã N…”. Bà Ú thừa nhận chữ ký của bà trong biên nhận nhưng cho rằng số tiền
700.000.000 đồng là tiền lãi của số tiền thế chấp 1.000.000.000 đồng ban đầu,
nhưng không đưa ra cơ sở nào chứng minh và trong biên nhận cũng không thể hiện
số tiền 700.000.000 đồng là tiền lãi. Do phần đất và phần nợ là tài sản chung và nợ
chung của ông Q và bà Ú, nên ông Quốc V1 và bà Ú cùng có nghĩa vụ thanh toán
cho ông L và bà G. Quá trình thế chấp vay tiền, các bên cũng có thỏa thuận lãi suất
nhưng mức lãi thỏa thuận 45.000.000 đồng/1.000.000.000 đồng là vượt so với quy
định pháp luật nên cần điều chỉnh theo mức lãi suất 20%/năm là phù hợp. Về số
tiền lãi tính như sau: Số tiền 1.400.000.000 đồng tính từ ngày 10/10/2023 đến ngày
22/11/2023 là 01 tháng 12 ngày x 20%/năm bằng 32.666.000 đồng (làm tròn); Số
tiền 1.700.000.000 đồng tính từ sau ngày 22/11/2023 đến ngày xét xử 30/8/2024 là
08 tháng 07 ngày bằng 233.277.000 đồng (làm tròn); tổng số tiền lãi là
265.943.000 đồng. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm buộc ông Quốc V1, bà Ú trả lại cho
ông L, bà G số tiền vốn 1.700.000.000 đồng và tiền lãi suất 265.943.000 đồng,
tổng cộng vốn, lãi bằng 1.965.943.000 đồng như bản án sơ thẩm xác định là có căn
cứ.
[5] Đối với hợp đồng thế chấp giữa ông L, bà G với Ngân hàng Thương mại
Cổ phần P3: Ông L, bà G có ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất số ST23023154/2023/HGGTC ngày 09/8/2023. Hội đồng xét xử
thấy rằng, hợp đồng thế chấp nêu trên được công chứng ngày 09/8/2023 tại Văn
phòng C1 để đảm bảo cho các khoản vay theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết, quá
trình ký thế chấp có thẩm định, tiến hành khảo sát thị trường nhưng thu thập thông
tin thẩm định đất chưa đầy đủ, cụ thể không tiến hành xác minh tài sản thực tế tại
địa phương. Bởi vì thời điểm Ngân hàng ký thế chấp, đất đang cho ông B1, ông T
quản lý sử dụng theo hợp đồng cố đất giữa ông V1 và ông T, ông B1, có thời hạn
đến tháng 03/2027. Mặt khác, trên đất có căn chòi vuông của ông B1 và ông Tân C
và đang quản lý nhưng hồ sơ thẩm định Ngân hàng thể hiện đất và chòi vuông do
ông L quản lý là do Ngân hàng tin theo trình bày của ông L mà thiếu xác minh, thu
thập thông tin về thửa đất cho thế chấp, bởi việc xác minh nguồn gốc, ai đang trực
tiếp quản lý tài sản thế chấp là nghĩa vụ của Ngân hàng trước khi cho khách hàng
thế chấp. Phần đất nêu trên ông L và ông Quốc V1, bà Ú đều thừa nhận thế chấp
đảm bảo cho khoản vay của ông V1, bà Ú. Tại phiên tòa, ông L thừa nhận thời
điểm ông L thế chấp đất cho Ngân hàng thì phần đất này vẫn còn đang thực hiện
hợp đồng thế chấp giữa ông với bà Ú, đồng thời ông L còn thừa nhận ông biết ông
V1 cố đất cho ông B1, bởi vì ông đã vào gặp ông B1 tại phần đất nhưng ông L lại
hợp thức hóa thế chấp bằng hợp đồng chuyển nhượng và thế chấp vay vốn tại
Ngân hàng là trái pháp luật. Đồng thời ông Quốc V1, bà Ú không biết việc ông L,
bà G thế chấp tài sản phần đất đang quản lý sử dụng cho Ngân hàng. Do đó, Ngân
hàng không phải là người thứ ba ngay tình theo quy định tại khoản 2 Điều 133 của
Bộ luật Dân sự. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất ngày 09/8/2023 giữa Ngân hàng với ông L, bà G vô hiệu và buộc Ngân
hàng trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Quốc V1 và bà
Ú là có căn cứ. Đối với ý kiến tranh luận của Ngân hàng yêu cầu chuyển hồ sơ cho
cơ quan điều tra là không được chấp nhận; trường hợp Ngân hàng cho rằng các
đương sự có hành vi gian dối làm thiệt hại đến tài sản Ngân hàng thì có quyền yêu
cầu cơ quan điều tra xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.
[6] Từ nhận định trên, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông
Nguyễn Thế V, ông Trần Quốc V1, bà Điền Thị Ú, ông Nguyễn Khánh L, Ngân
hàng Thương mại Cổ phần P2; giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.
[7] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Thế V, ông Trần Quốc V1, bà
Điền Thị Ú, ông Nguyễn Khánh L, Ngân hàng thương mại cổ phần P2 mỗi người
phải chịu 300.000 đồng, đã dự nộp được chuyển thu.
[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt
ra xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận ông Nguyễn Thế V, ông Trần Quốc V1, bà Điền Thị Ú, ông
Nguyễn Khánh L, Ngân hàng Thương mại Cổ phần P2.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 275/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.
Tuyên xử:
- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thế V về
việc yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
ông Trần Quốc V1 và bà Điền Thị Ú với ông Nguyễn Công B và bà Vũ Thị Minh
L1 ngày 18/01/2023, diện tích 1.885m
2
, thửa số 232, tờ bản đồ 11, theo giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CC 428264 cấp cho ông Trần Quốc V1 ngày
27/10/2015 và cập nhật biến động chuyển tên cho ông Nguyễn Công B và bà Vũ
Thị M ngày 15/02/2023. Đất tọa lạc tại khóm E, thị trấm Đ, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.
Vị trí cụ thể như sau: Hướng Đông giáp phần đất ông Bùi Minh P; Hướng Tây giáp
lộ nhựa giao thông (đường T); Hướng Nam giáp đất ông Nguyễn Hùng H2; Hướng
Bắc giáp đất bà Trần Mỹ D.
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thế V.
Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Trần Quốc V1 và
bà Điền Thị Ú lập ngày 18/4/2023, diện tích 15.328m
2
theo giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CE 886041, thửa số 308, 592 cấp cho ông Trần Quốc V1, đất tọa
lạc tại ấp H, xã N, huyện Đ, tỉnh Cà Mau là vô hiệu.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Điền Thị Ú
với ông Nguyễn Khánh L và bà Nguyễn Kim G lập ngày 21/6/2023, diện tích
14.950m
2
theo giấy chứng nhận số DL 159675 , thửa số 308, tờ bản đồ 06 và diện
tích 378,0m
2
theo giấy chứng nhận số DL 159674, thửa số 592, tờ bản đồ 06, cấp
cho bà Điền Thị Ú ngày 05/5/2023, được cập nhật biến động chuyển nhượng cho
ông Nguyễn Khánh L, bà Nguyễn Kim G ngày 29/6/2023, đất tọa lạc tại ấp H, xã
N, huyện Đ, tỉnh Cà Mau là vô hiệu.
Tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
ST23023154/2023/CĐ/HĐTC giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần P2 – Phòng
giao dịch huyện Đ với ông Nguyễn Khánh L, bà Nguyễn Kim G lập ngày
09/8/2023, diện tích 14.950m
2
theo giấy chứng nhận số DL 159675, thửa số 308, tờ
bản đồ 06, cấp cho bà Điền Thị Ú ngày 05/5/2023, cập nhật biến động chuyển
nhượng cho ông Nguyễn Khánh L, bà Nguyễn Kim G ngày 29/6/2023, đất tọa lạc
tại ấp H, xã N, huyện Đ, tỉnh Cà Mau là vô hiệu.
Buộc ông Trần Quốc V1 và bà Điền Thị Ú cùng trách nhiệm liên đới trả cho
ông Nguyễn Khánh L và bà Nguyễn Kim G số tiền 1.965.934.000 đồng (một tỷ
chín trăm sáu mươi lăm triệu chín trăm bốn mươi ba nghìn đồng), trong đó vốn vay
là 1.700.000.000 đồng (một tỷ bảy trăm triệu đồng), tiền lãi là 265.943.000 đồng
(hai trăm sáu mươi lăm triệu chín trăm bốn mươi ba nghìn đồng).
Buộc Ngân hàng Thương mại Cổ phần P2 – Phòng giao dịch huyện Đ trả lại
cho ông Trần Quốc V1 và bà Điền Thị Ú bản chính giấy chứng nhận số DL
159675 , thửa số 308, tờ bản đồ 06, cấp cho bà Điền Thị Ú ngày 05/5/2023, cập
nhật biến động chuyển nhượng cho ông Nguyễn Khánh L, bà Nguyễn Kim G ngày
29/6/2023.
- Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Long B1 và ông Nguyễn
Thành T.
Tuyên bố hợp đồng cầm cố đất giữa ông Nguyễn Long B1 và ông Nguyễn
Thành T với ông Trần Quốc V1 lập ngày 10/3/2023 vô hiệu.
Buộc ông Trần Quốc V1 và bà Điền Thị Ú trả lại cho ông Nguyễn Long B1
và ông Nguyễn Thành T số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng).
Buộc ông Nguyễn Long B1 và ông Nguyễn Thành T trả lại cho ông Trần
Quốc V1 và bà Điền Thị Ú phần đất nhận cầm cố diện tích diện tích 14.950m
2
theo
giấy chứng nhận số DL 159675, thửa số 308, tờ bản đồ 06 và diện tích 378,0m
2
theo giấy chứng nhận số DL 159674, thửa số 592, tờ bản đồ 06, cấp cho bà Điền
Thị Ú ngày 05/5/2023, cập nhật biến động chuyển nhượng cho ông Nguyễn Khánh
L, bà Nguyễn Kim G ngày 29/6/2023, đất tọa lạc tại ấp H, xã N, huyện Đ, tỉnh Cà
Mau.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, các đương sự có trách nhiệm đến
cơ quan nhà nước có thẩm quyền để lập thủ tục đăng ký, kê khai, cấp giấy chứng
nhận theo đúng quy định pháp luật.
- Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Thế V phải chịu chi phí xem xét thẩm
định tại chỗ và định giá tài sản số tiền 2.400.000 đồng, ông V đã nộp xong.
Ông Trần Quốc V1 và bà Điền Thị Ú phải chịu số tiền 2.400.000 đồng; ông
Trần Quốc V1 và bà Điền Thị Ú có trách nhiệm nộp lại số tiền trên để hoàn trả cho
ông Nguyễn Thế V.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong đối với các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi đối với số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
- Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Thế V phải chịu không giá ngạch 300.000 đồng; Ông V đã dự
nộp 600.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi, đối trừ ông
Nguyễn Thế V được nhận lại 300.000 đồng.
Ông Trần Quốc V1 và bà Nguyễn Thị Ú1 phải chịu án phí không có giá
ngạch 300.000 đồng và án phí có giá ngạch 76.684.420 đồng.
Ông Nguyễn Khánh L và bà Nguyễn Kim G phải chịu án phí không có giá
ngạch 300.000 đồng; ông L và bà G đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số
0001724 ngày 21/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi được
chuyển thu.
Ông Nguyễn Công B và bà Vũ Thị M không phải chịu án phí; ông B và bà
M đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0001723 ngày 21/8/2024 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi nhận lại.
Ông Nguyễn Long B1 và ông Nguyễn Thành T không phải chịu án phí. Ông
B1 và ông T đã dự nộp 3.750.000 đồng theo biên lai thu số 0001484 ngày
28/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi được nhận lại.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Thế V, ông Trần Quốc V1, bà
Điền Thị Ú, ông Nguyễn Khánh L, Ngân hàng Thương mại Cổ phần P2 mỗi người
phải chịu 300.000 đồng. Ngày 13/9/2024, ông Thế V đã dự nộp 300.000 đồng theo
biên lai thu số 0001750; ngày 20/9/2024, ông Khánh L đã dự nộp 300.000 đồng
theo biên lai thu số 0001760; ngày 25/9/2024, Ngân hàng TMCP P2 đã dự nộp
300.000 đồng theo biên lai thu số 0001766; ngày 30/9/2024, ông Quốc V1 và bà Ú
đã dự nộp 600.000 đồng theo biên lai thu số 0001769, của Chi cục thi hành án dân
sự huyện Đầm Dơi, được đối trừ chuyển thu án phí.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi;
- Chi cục THADS huyện Đầm Dơi;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thành Lập
Tải về
Bản án số 04/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 04/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm