Bản án số 544/2024/DS-PT ngày 31/12/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 544/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 544/2024/DS-PT ngày 31/12/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Số hiệu: 544/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Thị L1 “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chia thừa kế tài sản” Nguyễn Thị L2
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phùng Thị Cẩm Hồng
Các Thẩm phán: 1. Ông Huỳnh Hữu Nghĩa
2. Bà Lê Thị Bích Tuyền
- Thư ký phiên tòa: Ông Tấn Phong - Thư Tòa án nhân n tỉnh
Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Ông
Lê Ngọc Hiền - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 25 31 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Long An t xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số
463/2024/TLPT-DS ngày 04 tháng 11 năm 2024 về việc Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
chia thừa kế tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số 245/2024/DS-ST ngày 13 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện H bị kháng cáo và kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 529/2024/QĐ-PT ngày 27 tháng 11
năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1962.
Địa chỉ: Ấp 1, xã Đ, huyện H, tỉnh Long An.
Người đại diện theo y quyền của L1: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm
1980. Địa chỉ: số D11-10 C/c Khu 36, đường T, phường S, quận P, Thành phố
Hồ Chí Minh (Theo Giấy ủy quyền ngày 26 tháng 4 năm 2023).
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị L2, sinh năm 1974.
Địa chỉ: Ấp Tân Hòa, xã L, huyện H, tỉnh Long An.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bản án số 544/2024/DS-PT
Ngày 31-12-2024
V việc:“Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
chia thừa kế tài sản, hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người đại diện theo ủy quyền của L2: Ông Nguyễn Quang V, sinh năm
1983. Địa chỉ: số 480/34 C, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. (Theo
Hợp đồng ủy quyền ngày 03 tháng 6 năm 2024).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của L2: Luật Quyết T,
Công ty Luật TNHH K - thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Lê Bá H2, sinh năm 2001
Địa chỉ: ấp R, xã MB, huyện H, tỉnh Long An.
2. Ông Mai Văn Đ, sinh năm 1940
Địa chỉ: Tổ 13, Ấp 1, xã VT, huyện VC, tỉnh Đồng Nai.
3. Ủy ban nhân dân xã MB, huyện H, tỉnh Long An.
Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị L2
Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H.
(ông H, ông V mặt, luật Tiến vắng mặt tại phiên tòa ngày 31/12/2024,
ông H2, ông Đức, UBNDMB vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 07 tháng 6 m 2022, đơn khởi kiện bổ sung
ngày 28/02/2024 ngày 22/4/2024, tại phiên tòa ông Nguyễn Văn H đại diện
cho bà L1 trình bày như sau:
Năm 1997, Ủy ban nhân dân (UBND) huyện H cấp quyền sử dụng đất cho
Nguyễn Thị Bụi (Buội) thửa 269, diện tích 1.026 m
2
; thửa 270, diện tích
1.089 m
2
; thửa 376, diện tích 1.461 m
2
.
Ngày 14/5/2005, tại UBND xã MB, Bụi (Buội) lập giấy phân chia tài
sản riêng tặng cho con với nội dung Bụi (Buội) tặng cho L2 03 thửa đt
gồm thửa 269, diện tích 1.026 m
2
; thửa 270, diện tích 1.089 m
2
; thửa 376, diện
tích 1.461m
2
, với điều kiện L2 nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng Bụi khi
đau bệnh và lo hậu sự cho bà Bụi khi bà Bụi trăm tuổi già, có Nguyễn Thị L1
ký tên làm chứng.
Ngày 06/3/2006, UBND xã MB chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng giữa
Bụi (Buội) L2. Đến ngày 06/4/2006, L2 được UBND huyện H cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng 03 thửa đất nêu trên. Sau đó, L2 bán 02 thửa
đất số 269, 270 chia cho L2, L1, Bụi (Buội) mỗi người 1/3 số tiền
bán đất.
Ngày 02/7/2018, tại biên bản hòa giải của Ban quản ấp thể hiện L2
đồng ý chia thửa đất số 376 làm ba phần bằng nhau cho bà L2, bà Bụi (Buội), bà
L1 mỗi người một phần. Ngày 04/10/2018, tại UBND MB, Bụi (Buội) ủy
quyền cho L1 kiện tranh chấp thửa đất số 376 với L2, với lý do L2 vi
3
phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm c Bụi (Buội), nên Bụi (Buội) đòi lại
đất. Tại biên bản hòa giải ngày 17/12/2018 của UBND MB, L2 đồng ý để
nhà cho thuê, sau này bà Bụi (Buội) 100 tuổi già tbà L2, bà L1 chia thừa kế.
Ngày 28/3/2020, bà Nguyễn Thị Bụi (Buội) chết.
Nay, L1 yêu cầu hiệu một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa bên chuyển nhượng Nguyễn Thị Bụi (Buội) bên nhận
chuyển nhượng Nguyễn Thị L2, do UBND MB chứng nhận ngày
06/3/2006, đối với thửa 376, tờ bản đồ số 32, diện tích 1.461 m
2
, đất nông
thôn, tọa lạc tại ấp Rừng Sến, MB, huyện H, tỉnh Long An; yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 376, tờ bản đồ số 12, số vào sổ H 02213 do
UBND huyện H cấp cho bà L2 ngày 06/4/2006; công nhận nhà thửa 376, tờ
bản đồ số 32, diện tích 1.461 m
2
(đo đạc thực tế là 1.475,9m
2
), đất nông thôn,
tọa lạc tại ấp Rừng Sến, xã MB, huyện H, tỉnh Long An, là di sản thừa kế của bà
Bụi (Buội); yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật. Hai thửa đất đã bán thì bà L1
xác định không tranh chấp.
Bị đơn bà Nguyễn Thị L2 trình bày tại bản tự khai ngày 26/10/2022, ngày
22/4/2024 như sau:
Năm 1997, UBND huyện H cấp cho Bụi (Buội) thửa đất 269, diện tích
1.026 m
2
; thửa 270, diện tích 1.089 m
2
; thửa 376, diện tích 1.461 m
2
.
Ngày 14/5/2005, tại UBND MB, Bụi lập giấy phân chia tài sản riêng
tặng cho con với nội dung Bụi (Buội) tặng cho L2 ba thửa đất thửa 269,
diện tích 1.026 m
2
; thửa 270, diện tích 1.089 m
2
; thửa 376, diện tích 1.461 m
2
,
với điều kiện L2 chăm sóc nuôi dưỡng Bụi (Buội) lo hậu sự, L1
ký tên làm chứng.
Ngày 06/3/2006, tại UBND MB chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng
giữa bà Bụi (Buội) L2. Ngày 06/4/2006, L2 được UBND huyện H cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại ba thửa đất nêu trên.
Sau đó, bà L2 bán hai thửa đất và chia cho bà L2, bà L1, bà Bụi (Buội) mỗi
người 1/3 số tiền bán đất. Bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa
376, hiện L2 đang giữ nhà không cầm cố, không thế chấp, không chuyển
nhượng cho cá nhân, tổ chức nào.
Trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bị đơn không đồng ý. Bởi vì,
L2 người trực tiếp chăm sóc cho Bụi (Buội) lo hậu sự cho Bụi
(Buội) nên không vi phạm nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng như lời trình bày của
nguyên đơn. Ngày 04/10/2018, tại UBND MB, Bụi (Buội) ủy quyền cho
L1 kiện tranh chấp thửa đất 376 với L2. do L2 vi phạm nghĩa v
nuôi dưỡng, chăm sóc Bụi (Buội) nên bà Bụi (Buội) đòi lại đất. L2 không
đồng ý bà Bụi (Buội) gkhông minh mẫn nên việc ủy quyền kiện đòi đất
là không đúng ý chí, nguyện vọng của bà Bụi (Buội).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê H2 trình bày: ông H2
thuê nhà của L2 ở trọ 1.000.000 đồng/tháng. Nay bà L1 tranh chấp đất với
4
L2 thì ông H2 không yêu cầu gì, cũng không ý kiến gì. Do bận công
việc nên ông H2 xin vắng mặt tại Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Mai Văn Đ trình bày tại đơn
yêu cầu ngày 14/11/2023 như sau: ông Đ và Bụi (Buội) sống với nhau từ
năm 1960 đến năm 1967 và có một người con chung tên Nguyễn Thị L1. Bà Bụi
(Buội) một người con riêng Nguyễn Thị L2. Tài sản trong thời gian sống
chung của vợ chồng ông Đ, Bụi (Buội) 01 thửa đất số 376, tờ bản đồ số
32, ấp Rừng Sến, Mỹ Hạnh Nam, huyện H, tỉnh Long An, diện ch 1464m
2
,
đất nông thôn. Sau năm 1967, ông Đ Bụi (Buội) không sống với nhau
nữa. Năm 1967, ông Đ kết hôn với Ngô Thị Hồng, sinh năm 1945, chết
năm 2020. Các con riêng của ông Đ Ngô Thị Hồng gồm: Mai Văn Mấn,
Mai Thị Ngọc Diệp, Mai Thị Hoa Thơm, Mai Thị Ngọc Nhấn, Mai Thị Kiều
Oanh.
Ông Đ yêu cầu:
- Hủy hợp đồng cho tặng của Nguyễn Thị Bụi (Buội) cho Nguyễn
Thị L2 khi chưa có sự đồng ý của ông Đ.
- Đề nghị quý tòa chia đôi quyền sử dụng đất nêu trên cho Nguyễn Thị L1
Nguyễn Thị L2. Ông Đ cam kết không tranh chấp phần quyền lợi của ông Đ,
vì tuổi đã cao không tiện đi lại, ông Đ xin vắng mặt trong suốt quá trình giải
quyết vụ án.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân MB trình bày
tại Công văn số 13/CV-UBND ngày 09/01/2024 Công văn số 11/CV-UBND
MB ngày 05/01/2024 với nội dung: Ngày 27/6/1997, UBND huyện H cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Nguyễn Thị Buội với diện tích
3576m
2
gồm 03 thửa trong đó thửa 376, tờ bản đồ 32, diện tích 1.461m
2
, tọa
lạc tại MB căn cứ vào hồ xét duyệt của Hội đồng đăng xét cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất theo mẫu Trung ương của MB danh
sách đủ điều kiện cấp Giấy, trong đó có hộ bà Nguyễn Thị Bụi (Buội).
Ngày 06/4/2006, tại UBND huyện H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho Nguyễn Thị L2 tại thửa đất s 376, tờ bản đồ số 32, diện tích
1.461m
2
, tọa lạc tại MB căn cứ vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Buội với Nguyễn Thị L2 được UBND MB
chứng thực.
Qua xác minh hiện trạng trên thửa 376, tờ bản đồ 32, diện tích 1.461m
2
, tọa
lạc tại xã MB, huyện H, tỉnh Long An có 01 căn nhà đã qua sử dụng nhiều năm,
có kết cấu tường gạch, mái tole, qua xác minh ghi nhận hiện tại căn nhà trên ông
H2, sinh năm 2001, Quê quán Tuân Chính, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc đang
thuê của bà Nguyễn Thị L2 để ở, ngoài ra trên phần đất còn lại là đất trống. Hiện
nay, thửa đất số 376; tờ bản đồ số 32, đất tọa lạc MB (theo sở dữ liệu bản
đồ cũ) do Nguyễn Thị L2 đứng tên chủ sử dụng đất. Theo hồ lưu trữ giao
dịch bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai tại huyện H từ tháng
5
01/2015 đến nay thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 940381 tại tha
số 376; tờ bản đồ số 32; với diện tích 1.461m, đất tọa lạc MB không có đăng
ký giao dịch bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai tại huyện H.
Về tình trạng hôn nhân của Nguyễn Thị Bụi (Buội), sinh năm 1945, đã
chết ngày 28/3/2020. Trước ngày 28/3/2020, chưa đăng kết hôn với ai tại
UBND xã MB.
Công văn số 278/CV-PTP của Phòng Pháp ngày 19/4/2024 nội
dung: Qua tra cứu tàng thư sổ hộ tịch của bà Nguyễn Thị L2, sinh năm 1974 thì
Phòng Pháp H không tìm thấy tên bà trong tàng thư sổ bộ hộ tịch nên không
có cơ sở cấp trích lục giấy khai sinh bản sao.
Những người làm chứng:
1. Bà Nguyễn Thị Ngon, sinh năm 1945. Địa chỉ: ấp Hậu Hòa, xã H
Thượng, huyện H, tỉnh Long An trình bày tại văn bản ngày 20/11/2018 với nội
dung: Ngon em ruột bà Bụi, từ năm 2000 cho đến nay Bụi được con
ruột Nguyễn Thị L2 nuôi dưỡng. Ngày 11/11/2018, L1 con ruột (người
thứ 2) của bà Bụi đưa bà Bụi về nhà tại Đ, huyện H, tỉnh Long An chăm sóc.
Tới thời điểm hiện tại bà L1 không chăm sóc mà đưa đến nhà ông Hồ n To
(cháu rễ bà Bụi) tại Phường 6, Thành phố Tân An, tỉnh Long An. Bụi nhiều
lần yêu cầu được về nhà L2 địa chỉ ấp Rừng Sến, MB, huyện H, tỉnh
Long An nhưng ông To không cho về không cho L2 tới gặp mặt thăm
nuôi, đón về chăm sóc với lý do bà L1 không cho phép.
2. Ông Nguyễn Tấn Lợi trình bày: ông Lợi chủ Trại Hòm Hai Lợi, địa
chỉ ấp Rừng Sến, MB, huyện H, tỉnh Long An. Vào ngày 28/3/2020, ông Lợi
có nhận tiền của bà L2 với số tiền 50.000.000 đồng tiền mua hòm để chôn cất bà
Bụi và 30.000.000 đồng tiền thầy tụng trong việc đám tang bà Bụi.
3. Ông Nguyễn Văn Tư trình bày ngày 02/5/2024 với nội dung: Ông
Nguyễn Văn cháu của Nguyễn Thị Bụi (Buội). Nguyễn Thị L2
con ruột của bà Bụi và là người đã chămc phụng dưỡng bà Bụi (Buội) từ năm
2000 đến khi mất. Trong khoảng thời gian đó chỉ bà L2 chăm sóc Bụi
(Buội). Ngày 11/11/2018, Nguyễn Thị L1 con ruột của Bụi (Buội), đưa
Bụi về ncủa mình chơi. Từ ngày 16/11/2018 đến ngày 20/11/2018, L1
đưa bà Bụi đến nhà ông Hồ Văn To (cháu rễ bà Bụi) để gửi. Bà Bụi đã nhiều lần
yêu cầu về nhà L2, nhưng ông To không cho và không cho L2 tới gặp mặt
thăm nuôi, đón về chăm sóc với lý do L1 không cho phép. Ngày 22/11/2018,
Bụi được đưa vnhà L1, nhưng L2 đến rước Bụi vlại nhà chăm
sóc cho đến khi bà Bụi mất.
4. Ông Nguyễn Văn Tèo trình bày tại văn bản ngày 13/5/2024 của với nội
dung: Ông Nguyễn Văn Tèo, hàng xóm của Nguyễn Thị L2. L2 con
ruột của bà Nguyễn Thị Bụi. Trước năm 2015, ông Tèo thấy L2 đi tới đi lui
chăm sóc Bụi rất nhiều năm. Sau năm 2015, do sức khỏe Bụi đã yếu
không n minh mẫn nên L2 đưa Bụi về địa chỉ 262 ấp Tân Hòa, L,
6
huyện H, tỉnh Long An chăm sóc phụng dưỡng đến khi chết. Trong khoảng thời
gian đó chỉ Lan chăm sóc Bụi. Năm 2020, Bụi chết, L2 làm đám
tang cho bà Bụi và thờ cúng tới bây giờ.
5. Ông Văn Nam ngày 14/5/2024 trình bày: L2 mẹ là Bụi đã
bệnh chết tại nhà ngày 28/3/2020 tại ấp Tân Hòa, L, huyện H, tỉnh Long
An là đúng. Theo nội dung trình bày và ghi trên đơn xác nhận của bà L2 đúng
sự thật.
6. Ông Nguyễn Văn Lộc trình bày ngày 13/5/2024 với nội dung: Ông
trưởng ấp Tân Hòa, L, huyện H, tỉnh Long An, bà Nguyễn Thị L2 hiện ngụ
ấp Tân Hòa là đúng sự thật.
7. Bà Nguyễn ThMỹ Hạnh trình bày nội dung: Bà Hạnh con ông
Nguyễn Văn Bận. Ông Bận là anh ruột của bà Buội, bà Hạnh là cháu ruột của bà
Buội, cạnh nhà của Buội. Vào thời điểm trước 1975 lúc ba Hạnh còn
sống, ông Bận cho Buội số đất diện tích 1.461m
2
. Vào thời điểm 2018,
ông Bận bệnh không đi lại được, Bụi muốn lại chơi ít hôm, nhưng em Lan
không đồng ý, không làm theo lời mẹ, xúc phạm chửi bới, hành động bất H2
ngay trước cổng nhà Hạnh, lôi kéo mẹ già từ trong nhà Hạnh ra tận trước
đường, quá xấu hổ với hành động của em Lan, cảm thấy con bất H2 với
mẹ, không giữ lời hứa, chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến trăm tuổi già, lòng bất
an, nhiều đêm không ngủ được, thêm tuổi già sức yếu, không thể tđi lại quá
nhiều lần để đòi lại đất, nhà và tiền tích góp của 02 lần bán đất trước kia, số tiền
còn lại từ em Lan, đòi không được nên quyết tâm ủy quyền cho con gái lớn
Nguyễn Thị L1 được toàn quyền lấy lại đất, đến nay Buội chết, nên L1
kiện bà L2 yêu cầu chia di sản của mẹ để lại.
8. Bà Nguyễn Thị Khỏi trình bày ngày 01/8/2024 với nội dung: Khỏi
cháu của Buội. Khoảng năm 2008, Buội bán số tài sản, quyền sử
dụng đất chia 03 phần. L1, L2 mỗi người một phần thì bà Buội còn
90.000.000 đồng. Đến năm 2017 bán tiếp lần 02, bà Buội còn 470.000.000 đồng,
tổng số tiền 560.000.000 đồng 08 con bò, hoa màu, cây trồng, vật nuôi, sức
già yếu đi dần, thì L1 Lan cùng chăm sóc nuôi dưỡng. L2 giữ tiền của
Buội, cây trồng vật nuôi, sử dụng số tiền của bà Buội để mua hòm, lo hậu sự cho
Buội. L2 nhận toàn bộ số tiền chấp điếu, cúng đám, tiền bán đất của
Bụi còn lại, không ghi chép sổ sách, không cho chị L1 biết, không công bố vẫn
giữ đến hôm nay. Lúc Buội còn khỏe, nhiều lần Khỏi chứng kiến L2
bạc đãi không nuôi dưỡng tốt như hứa với Bụi. Vào khoảng đầu năm 2017-
2018, bà Buội có gửi đơn ra xã đòi lại số đất còn lại.
Tại Bản án dân sự thẩm số 245/2024/DS-ST ngày 13 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện H.
Căn cứ Điều 5, Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 68, Điều 147, Điều 227,
Điều 228, Điều 244, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều
117, Điều 122, Điều 124, khoản 3 Điều 132, Điều 462, Điều 612, Điều 649,
Điều 650, Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 12, Điều 26, Điều 27 Nghị
7
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ
phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyn Thị L1 đối với
bị đơn bà Nguyễn Thị L2 về việc tranh chấp “hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, yêu cầu chia thừa kế, hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Vô hiệu một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên
chuyển nhượng Nguyễn Thị Buội (Bụi) với bên nhận chuyển nhượng
Nguyễn Thị L2 do UBND MB chứng nhận ngày 06/3/2006 đối với thửa đất
376, tờ bản đồ 32 (theo hệ thống bản đồ mới thửa 573, tờ bản đồ số 33), tọa
lạc tại xã MB.
Công nhận nhà thửa đất 376, tờ bản đồ 32 (theo hệ thống bản đmới
thửa 573, tờ bản đồ số 33), tọa lạc tại MB di sản của Nguyễn Thị Buội
(Bụi) để lại.
Nguyễn Thị L2 được shữu căn nhà cấp 4 được quyền sử dụng đất
tại khu A diện tích 737,9m
2
, loại đất ONT, thuộc một phần thửa 376, tbản
đồ số 32 (theo hệ thống bản đồ mới thửa 573, tờ bản đồ số 33) tứ cận theo
mảnh trích đo địa chính số 91 - 2023 được Chi nhánh văn phòng Đăng đất
đai tại huyện H duyệt ngày 23/02/2023 bản phân khu ngày 11/7/2024 của
Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú.
Bà L2 có quyền và nghĩa vụ liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để kê
khai, đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đối với phần được chia.
Nguyễn Thị L1 được quyền sử dụng đất tại khu B diện tích 737,9m
2
,
loại đất ONT, thuộc một phần thửa đất số 376, tờ bản đồ số 32 (theo hệ thống
bản đồ mới thửa 573, tờ bản đồ số 33) có tứ cận theo Mảnh trích đo địa chính
số 91 - 2023 được Chi nhánh văn phòng Đăng ký đất đai tại huyện H duyệt ngày
23/02/2023 và bản phân khu ngày 11/7/2024 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất
Hưng Phú.
Buộc L2 nộp bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do L2
đứng tên cho quan Thi hành án, để quan Thi hành án giao cho L1, để
L1 được khai đăng quyền sử dụng đất. Trong trường hp L2 không
nộp bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do L2 đứng tên cho
quan Thi hành án thì L1 quyền nghĩa vụ liên hệ quan nhà nước
thẩm quyền để điều chỉnh và cấp quyền sử dụng đất đúng hiện trạng và diện tích
đất thực tế sử dụng theo đúng quy định của pháp luật về đất đai. Văn phòng
đăng đất đai, quan i nguyên Môi trường, quan cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết
điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
đương sự phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
8
Buộc Nguyễn Thị L2 hoàn trả ½ giá trị căn nhà cho Nguyễn Thị L1
là 63.958.000 đồng.
2. Về chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ: Buộc bà L1 phải
nộp 16.000.000 đồng, L1 đã nộp đủ; buộc L2 phải nộp 16.000.000 đồng
để hoàn trả cho L1.
Khi án hiệu lực pháp luật, kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên
nghĩa vụ chậm thi hành sẽ phải chịu thêm khoản tiền lãi tính trên số tiền chậm
trả theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự số
91/2015/QH13 tương ứng với thời gian chưa thi hành án, trừ trường hợp các bên
có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
3. Về án phí: Nguyễn Thị L1 được miễn án phí, buộc L2 phải nộp
66.520.000 đồng án phí do chia thừa kế được chấp nhận 300.000 đồng án phí
tuyên hiệu mt phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
Nguyễn Thị Buội (Bụi) với bà Nguyễn Thị L2.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về quyền yêu cầu thi hành ánquyền
kháng cáo của các đương sự.
Bản án chưa có hiệu lực pháp luật.
Ngày 15/8/2024, bà Nguyễn Thị L2 kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa
phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L1.
Ngày 28/8/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H kháng nghị
bản án thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm theo hướng
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, bị đơn không rút đơn kháng cáo, các
bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Các đương sự thống nhất với Mảnh trích đo địa chính số 91- 2023 được
Chi nhánh văn phòng Đăng đất đai tại huyện H duyệt ngày 23/02/2023
chứng thư thẩm định giá số 085/23/BĐS-DV ngày 29/6/2023 của Công ty
TNHH giám định thẩm định giá Thương Tín, không yêu cầu định giá lại
không yêu cầu đo lại.
Người đại diện theo ủy quyền của Nguyễn Thị L2 ông Nguyễn Văn
Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của L2 trình bày: Tất cả các
yêu cầu khởi kiện của L1 thì L2 không đồng ý với do: L2 được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất 376 vào năm 2006, giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất chỉ thể hiện cấp đất, không cấp quyền sở hữu nhà
trên đất, khi nguyên đơn khởi kiện chỉ tranh chấp yêu cầu chia thừa kế quyền sử
dụng đất, không tranh chấp nhà, các chứng cứ trong hvụ án có một số
chứng cứ chưa được công bố và chưa được làm rõ cụ thể như bản phân khu ngày
11/7/2024 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú. Ngoài ra, đối với hợp
9
đồng tặng cho chỉ thể hiện mẹ cho con, không thể hiện điều kiện. Do đó,
quyền sử dụng đất là của bà L2 đứng tên thì đây là tài sản của bà L2, không phải
di sản thừa kế của Bụi, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của bà L1.
Người đại diện của Nguyễn Thị L1 ông Nguyễn Văn H tự nguyện để
lại ½ giá trị căn nhà theo quyết định của bản án sơ thẩm đã chia cho L1 số
tiền 63.958.000 đồng toàn bộ số tiền L2 cho thuê nhà đất từ khi
L2 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến nay, bà L1 xác định không
tranh chấp hai số tiền này, để lại cho L2 xem như tính công sức quản tài
sản chăm sóc Bụi thời gian khi còn sống. Xét thấy, sự tự nguyện của
L1 là có lợi cho bà L2 và phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét
xử cần ghi nhận.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa phát biểu
ý kiến:
K t khi th v án cho đến trước thời điểm Hội đng xét x ngh án,
Thm phán Hội đồng xét x tuân th đúng quy định ca B lut T tng dân
s. Những người tham gia t tng thc hiện đầy đủ các quyền nghĩa vụ theo
quy định ca B lut T tng dân s.
Về nội dung:
Xét kháng nghị của Viện trưởng VKSND huyện Đức Hoà và kháng cáo của
L2 thấy rằng: Ngày 14/5/2005, Bụi lập Giấy phân chia tài sản riêng tặng
cho con. Theo đó, Bụi tặng cho L2 ba thửa đất, trong đó thửa 376,
L1 ký tên xác nhận đồng ý cho bà L2, có nhân chứng là ông Nguyễn Văn Tư,
xác nhận của địa chính Ngô Hữu Phước, xác nhận của UBND MB
Trạm Y tế MB, huyện H, tỉnh Long An. Trên sở đó, ngày 24/5/2005
Bụi ký hợp đồng chuyển nhượng đất cho bà L2, được UBND xã MB chứng thực
và bà L2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trong Giấy phân chia tài sản riêng tặng cho con ngày 14/5/2005 ghi
nhận L2 phải nghĩa vchăm sóc, nuôi dưỡng khi Bụi đau bệnh lo
hậu sự, đây giao dịch tặng cho điều kiện. Tuy nhiên, L1 không chứng
minh được việc bà L2 vi phạm điều kiện tặng cho.
Theo Biên bản ghi lời khai ngày 01/11/2022 biên bản hòa giải ngày
06/5/2024 L2 thừa nhận Hồi mẹ tôi còn sống đã bán đất hai ln. Lần thứ
nhất tôi không nhớ thời gian cụ thể là bán chục thước đất, tổng số tiền bán được
90 triệu đồng, chia đều thành 03 phần bằng nhau, tôi nhận được 30 triệu
đồng, L1 đã nhận 30 triệu đồng, Bụi mẹ tôi nhận 30 triệu đồng. Lần thứ
hai bán đất là khoảng 7 năm về trước, số tiền bán đất là 1 tỷ 450 triệu đồng. Tôi
đã nhận 370 triệu đồng, L1 đã nhận 370 triệu đồng, số tiền còn lại để nuôi
10
mẹ do tôi giữ mẹ tôi hay m đau, bệnh tật. Tại biên bản hòa giải ngày
02/7/2018 của Ban quản ấp thì L2 đồng ý chia thửa 376 làm ba phần bằng
nhau cho L2, Buội (Bụi), L1 mỗi người 01 phần và biên bản hỏa giải
ngày 17/12/2018 của UBND MB, bà L2 đồng ý để nhà cho thuê sau này
Bụi (Buội) 100 tuổi già thì bà L2, bà L1 chia thừa kế.
Từ những chứng cứ trên, Bản án thẩm xác định quyền sử dụng đất thửa
376 là di sản của bà Buội(Bụi) để lại và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn căn cứ. Tuy nhiên, bản án thẩm chia di sản của Buội đlại cho
L1, L2 nhưng không xem xét công sức gìn giữ, cũng như công sức chăm
sóc của bà L2 đối với bà Buội (Bụi) là ảnh hưởng đến quyền lợi của bà L2.
Do đó, Viện kiểm sát nhân tỉnh Long An thay đổi một phần kháng nghị của
Viện kiểm sát nhân dân huyện H, chỉ kháng nghị phần nội dung bản án sơ thẩm
chưa xem xét phần công sức của bà L2. Xét thấy, căn ncấp 4 trên thửa đất
tranh chấp là có nguồn gốc của bà Bụi (Buội) để lại, trong quá trình giải quyết ở
cấp phúc thẩm nguyên đơn đồng ý giao toàn bộ căn nhà cho L2 quản lý, sử
dụng và không nhận phần giá trị căn nhà mà nguyên đơn được hưởng, cũng như
phần tiền mà L2 cho thuê nhà được xem như là tính phần công sức cho bà L2
nên cần ghi nhận.
Từ những phân tích trên, nhận thấy kháng nghị của Viện trưởng VKSND
huyện Đức Hoà nhằm bảo vệ quyền lợi cho bà L2 có cơ sở xem xét một phần,
kháng cáo của Nguyễn Thị L2 sở chấp nhận một phần. Đề nghị chp
nhận một phần kháng ngh của Viện trưởng VKSND huyện Đức H, chp nhn
một phần kháng cáo của bà Nguyn Thị L2. Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ lut Tố
tụng dân sự, đề nghị sửa một phần bản án thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của Nguyn Th L2, kháng ngh ca Viện trưởng
Vin kim sát nhân dân huyn H làm đúng theo quy định tại các Điều 272, 273,
278, 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông H2, ông Mai Văn Đ có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình
tham gia tố tụng tại Tòa án, UBND MB được Tòa án triệu tập hợp lệ 02 lần
nhưng vắng mặt không do. Căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án
tiến hành xét xử vắng mặt những người này.
[2] Về nội dung: Xét yêu cầu kháng o của Nguyễn Thị L2 kháng
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H thấy rằng:
11
[2.1] Các đương s thống nhất Nguyễn Thị Bụi (Buội) chết ngày
28/3/2020, có hai người con ruột là bà Nguyễn Thị L1 và Nguyễn Thị L2, ngoài
ra Bụi không con riêng nào khác, Bụi đã ly n chồng, cha mẹ của
Bụi đã chết. L2 và L1 xác định Bụi chết không để lại di chúc. Phía
L2 xác định thửa đất số 376, tờ bản đồ số 32, diện tích 1.461m
2
, đất nông
thôn, tọa lạc tại ấp Rừng Sến, MB, huyện H, tỉnh Long An nguồn gốc
của Bụi được UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm
1997. Ngày 14/5/2005, bà Bụi lập Giấy phân chia tài sản riêng tặng cho con,
theo đó, Bụi tặng cho L2 ba thửa đất, trong đó thửa 376, L1
tên xác nhận đồng ý cho L2, nhân chứng ông Nguyễn Văn xác
nhận của địa chính xã ông Ngô Hữu Phước, xác nhận của UBND xã MB và Y tế
MB. Trên sđó, ngày 24/5/2005, Buội hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho bà L2, được UBNDMB chứng thực và L2 đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[2.2] Tuy nhiên, bà L1 cho rằng mặc L2 đứng tên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nhưng quyền sử dụng đất nhà vẫn của Bụi, phía L2
xác định nguồn gốc thửa đất 376 của Bụi nhưng đã cho bà L2, nên L2
không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện chia thừa kế của L1 quyền sử dụng đất
tại thửa đất 376 là của bà L2 không còn là di sản của bà Bụi.
[2.3] Xét tại giấy phân chia tài sản riêng tặng cho con ngày 14/5/2005 tại
UBND xã MB của Nguyễn Thị Buội (Bụi) có nội dung Buội (Bụi) tặng
cho bà L2 03 thửa đất số 269, 270, 376, tờ bản đồ số 32, tổng diện tích 3.576 m
2
với điều kiện L2 phải nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng khi Buội (Bụi)
đau bệnh và lo hậu sự cho Buội (Bụi) khi trăm tuổi già; xét hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa Nguyễn Thị Buội (Bụi) với Nguyễn Thị
L2 do UBND MB chứng nhận ngày 06/3/2006 đối với 03 thửa đất số 269,
270, 376, tờ bản đồ 32, tọa lạc tại MB, với tổng diện tích 3576m
2
, với giá
chuyển nhượng: mẹ cho con, thấy rằng:
[2.4] L1 cho rằng L2 vi phạm nghĩa vchăm sóc Buội (Bụi) nên
ngày 04/10/2018, Buội (Bụi) ủy quyền cho L1 tranh chấp quyền sử dụng
đất với L2 thể hiện theo giấy y quyền ngày 04/10/2018 nội dung
Nguyễn Thị Bụi (Buội) ủy quyền cho L1 tranh chấp quyền sử dụng đất thửa
376, tờ bản đồ số 32; thời hạn ủy quyền: kể từ ngày 04/10/2018 cho đến khi vụ
việc được giải quyết xong; giấy ủy quyền chứng thực ông Nguyễn Băng
Châu Phó chủ tịch UBND xã MB, huyện H.
[2.5] Xét thấy, mặt ngày 14/5/2005, tại UBND MB, Bụi (Buội)
lập giấy phân chia tài sản riêng tặng cho con với nội dung Bụi (Buội) tặng
cho L2 ba thửa đất cụ thể thửa 269, diện tích 1.026 m
2
; thửa 270, diện tích
1.089 m
2
; thửa 376, diện tích 1.461m
2
, với điều kiện L2 nghĩa vụ chăm
sóc nuôi dưỡng Bụi khi đau bệnh và lo hậu sự cho Bụi khi Bụi trăm
tuổi già, đến ngày 06/3/2006, UBND MB chứng nhận hợp đồng chuyển
nhượng giữa Bụi (Buội) L2. Đến ngày 06/4/2006, L2 được UBND
huyện H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ba thửa đất nêu trên. Sau đó, bà L2
12
bán hai thửa đất số 269, 270 vẫn phải chia tiền cho L2, L1, Bụi (Buội)
mỗi người 1/3 số tiền bán đất. Do đó, đối với thửa đất 376 cũng tương tự nếu
được bán thì cũng phải chia đều cho 03 người, nhưng hiện tại bà Bụi đã chết nên
quyền sử dụng đất và tài sản trên đất phải chia cho hai người còn lại là bà L1
bà L2.
[2.6] Ngoài ra: Theo Biên bản ghi lời khai ngày 01/11/2022 biên bản
hòa giải ngày 06/5/2024 L2 thừa nhận Hồi mẹ tôi còn sống đã bán đất hai
lần. lần thứ nhất tôi không nhớ thời gian cụ thể bán chục thước đất, tổng số
tiền bán được 90 triệu đồng, chia đều thành 03 phần bằng nhau, tôi nhận
được 30 triệu đồng, L1 đã nhận 30 triệu đồng, Bụi mẹ tôi nhận 30 triệu
đồng. Lần thứ hai bán đất khoảng 7 năm về trước, số tiền bán đất 1 tỷ 450
triệu đồng. Tôi đã nhận 370 triệu đồng, L1 đã nhận 370 triệu đồng, số tiền
còn lại để nuôi mẹ do tôi giữ mẹ tôi hay ốm đau, bệnh tật. Tại biên bản hòa
giải ngày 02/7/2018 của Ban quản ấp thì bà L2 đồng ý chia thửa 376 làm ba
phần bằng nhau cho bà L2, bà Buội (Bụi), bà L1 mỗi người 01 phần và biên bản
hỏa giải ngày 17/12/2018 của UBND xã MB, L2 đồng ý để nhà cho thuê sau
này bà Bụi (Buội) 100 tuổi già thì bà L2, bà L1 chia thừa kế.
[2.7] Căn cứ vào lời khai của người làm chứng bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
trình bày: Bà Hạnh con ông Nguyễn Văn Bận, ông Bận là anh ruột của bà
Buội, bà Hạnh là cháu ruột của Buội, ở cạnh nhà của bà Buội. Vào thời điểm
trước 1975 lúc ba Hạnh còn sống, ông Bận có cho Buội số đất diện tích
1.461m
2
. o thời điểm 2018, ông Bận bệnh không đi lại được, Bụi muốn
lại chơi ít hôm, nhưng em Lan không đồng ý, không m theo lời mẹ, xúc phạm
chửi bới, hành động bất H2 ngay trước cổng nhà Hạnh, lôi o mẹ già từ
trong nhà Hạnh ra tận trước đường, vì quá xấu hổ với hành động của em Lan,
cảm thấy là con bất H2 với mẹ, không giữ lời hứa, chăm sóc, nuôi dưỡng cho
đến trăm tuổi già, lòng bt an, nhiu đêm không ngủ được, thêm tuổi già sức
yếu, không th tự đi lại quá nhiều lần để đòi lại đất, nhà tiền tích góp của 02
ln n đất trước kia, stiền còn lại từ em Lan, đòi không được nên quyết m
ủy quyền cho con gái lớn là Nguyễn Thị L1 được toàn quyền lấy lại đất, đến nay
Buội chết, nên bà L1 kiện bà L2 yêu cầu chia di sản của mẹ để lại.
[2.8] Căn cứ vào lời khai của người làm chứng bà Nguyễn Thị Khỏi trình
bày ngày 01/8/2024 với nội dung: Bà Khỏi cháu của bà Buội. Khoảng năm
2008, Buội có bán quyền sử dụng đất chia 3 phần. L1, L2 mỗi người
một phần thì bà Buội còn 90.000.000 đồng. Đến 2017 bán tiếp lần 02, bà Buội
n 470.000.000 đồng, tổng số tiền 560.000.000 đồng khi Buội già yếu đi
dần, thì L1 và Lan ng chăm sóc nuôi dưỡng. L2 giữ tiền của cô Buội, sử
dụng số tiền của bà Buội để mua hòm, lo hậu sự cho cô Buội. L2 nhận toàn
bộ số tiền chấp điếu, cúng đám, tiền bán đất của bà Bụi còn lại, không ghi chép
sổ sách, không cho chị L1 biết, không ng bố vẫn giữ đến hôm nay. c
Buội còn khỏe, nhiều lần Khỏi chứng kiến L2 bạc đãi không nuôi dưỡng
tốt như hứa với bà Bụi. o khoảng đầu m 2017-2018, Buội gửi đơn ra
xã đòi lại số đất còn lại.
13
[2.9] Theo xác nhận của Hạnh, bà Khỏi thì L2 vi phạm nghĩa vụ
chăm sóc Buội (Bụi). Đồng thời, theo sự thừa nhận của L2 những
người làm chứng như ông Nguyễn Văn Tư, Nguyễn Thị Ngon thì Bụi
(Buội) có sinh sống tại nhà bà L1 ông Hồ Văn To. Xét thấy, lời trình bày của
L1 cho rằng L2 ngược đãi bà Bụi dẫn đến việc bà Bụi ủy quyền cho bà L1
đi khởi kiện đòi lại quyền sử dụng đất của bà L2 là phù hợp và có căn cứ.
[2.10] Từ những phân tích trên: Tòa án cấp thẩm xác định quyền sử
dụng đất tại thửa đất 376 tài sản trên đất di sản của bà Bụi, nên L1 yêu
cầu tuyên vô hiệu một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
Nguyễn Thị Buội (Bụi) với Nguyễn Thị L2 do UBND xã MB chứng nhận
ngày 06/3/2006 tại thửa đất số 376 căn cứ phù hợp theo quy định tại
Điều 117, Điều 122 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[3] Tuy nhiên, bản án thẩm chia di sản của Buội để lại cho L1,
L2 nhưng không xem xét công sức gìn giữ, cũng như công sức chăm sóc của
L2 đối với Buội (Bụi) ảnh hưởng đến quyền lợi của L2. Xét thấy, căn
nhà cấp 4 trên thửa đất tranh chấp có nguồn gốc của bà Bụi (Buội) để lại. Tại
phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của L1 ông H tự
nguyện để lại ½ giá trị căn nhà tại tòa thẩm đã chia cho L1 số tiền
63.958.000 đồng và toàn bộ số tiền L2 cho thuê đất từ khi đứng tên giấy
chứng nhận quyền s dụng đất đến nay, L1 xác định không tranh chấp hai số
tiền này, để lại cho L2 sử dụng xem như tính công sức quản tài sản
chăm sóc Bụi thời gian khi còn sống. Xét thấy, sự tự nguyện của L1
lợi cho L2 phù hợp với quy định của pháp luật, n Hội đồng xét xử chấp
nhận.
[4] Từ những phân tích trên: Xét thấy kháng cáo của bà Nguyễn Thị L2
kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H căn cứ chấp
nhận một phần. Phát biểu của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân n
tỉnh Long An có căn cứ chấp nhận.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyễn Thị L2 không phải chịu án phí
phúc thẩm do kháng cáo được chấp nhận một phần.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị L2.
Chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân huyện H.
Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 245/2024/DS-ST ngày 13 tháng 8
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện H.
14
Căn cứ Điều 5, Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 68, Điều 147, Điều 148,
Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; Điều 117, Điều 122, Điều 124, khoản 3 Điều 132, Điều 462, Điều 612,
Điều 649, Điều 650, Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 12, Điều 26,
Điều 27 Nghị quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L1 đối với
bị đơn Nguyễn Thị L2 về việc yêu cầu tuyên hiệu một phần hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 06/3/2006 đối với thửa đất 376, tờ bản
đồ 32 (theo hệ thống bản đồ mới là thửa 573, tờ bản đồ số 33), tọa lạc tại xã MB.
1.1. hiệu một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
bên chuyển nhượng bà Nguyễn Thị Buội (Bụi) với bên nhận chuyển nhượng
Nguyễn Thị L2 do UBND MB chứng nhận ngày 06/3/2006 đối với thửa đất
376, tờ bản đồ 32 (theo hệ thống bản đồ mới thửa 573, tờ bản đồ số 33), tọa
lạc tại xã MB, huyện H, tỉnh Long An.
1.2. Xác định nhà thửa đất số 376 thuộc tờ bản đồ 32 (theo hệ thống bản
đồ mới thửa 573, tờ bản đồ số 33), tọa lạc tại MB, huyện H, tỉnh Long An
là di sản của bà Nguyễn Thị Buội (Bụi) để lại.
1.3. Nguyễn Thị L2 được shữu căn nhà cấp 4 và được quyền sử dụng
đất tại khu A diện tích 737,9m
2
, loại đất ONT, thuộc một phần thửa đất số
376, tờ bản đồ số 32 (theo hệ thống bản đồ mới thửa 573, tờ bản đồ số 33)
tứ cận theo Mảnh trích đo địa chính số 91 - 2023 được Chi nhánh văn phòng
Đăng đất đai tại huyện H duyệt ngày 23/02/2023 Bản vẽ phân khu ngày
11/7/2024 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú. L2 quyền
nghĩa vụ liên hệ quan nhà nước thẩm quyền để khai, đăng quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đối với diện tích đất và nhà được chia.
1.4. Bà Nguyễn Thị L1 được quyền sử dụng đất tại khu B diện tích
737,9m
2
, loại đất ONT, thuộc một phần thửa đất số 376, tờ bản đồ số 32 (theo
hệ thống bản đồ mới thửa 573, tờ bản đồ số 33) tứ cận theo Mảnh trích đo
địa chính số 91 - 2023 được Chi nhánh văn phòng Đăng ký đất đai tại huyện H
duyệt ngày 23/02/2023 Bản vẽ phân khu ngày 11/7/2024 của Công ty TNHH
đo đạc nhà đất Hưng Phú. L1 có quyền và nghĩa vụ liên hệ cơ quan nhà nước
thẩm quyền để khai, đăng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà đối
với diện tích đất được chia.
1.5. Buộc Nguyễn Thị L2 nộp lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất do L2 đứng tên cho quan Thi hành án. Trong trường hợp L2
không nộp bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bà L2 đứng tên cho
quan Thi hành án thì bà L1 quyền liên hệ quan nhà nước thẩm
quyền để điều chỉnh, thu hồi, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp
cho L2. Văn phòng đăng đất đai, quan Tài nguyên Môi trường,
15
quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào bản án, quyết định của
Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho đương sự phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
2. Không chấp nhận yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
Nguyễn Thị L1 đối với thửa đất 376, tờ bản đồ 32, tọa lạc tại MB, huyện
H do bà Nguyễn Thị L2 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
3. Về chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ: Buộc bà Nguyễn
Thị L1 phải chịu 16.000.000 đồng, L1 đã nộp xong; buộc Nguyễn Thị L2
phải nộp 16.000.000 đồng để hoàn trả cho bà L1.
Khi án hiệu lực pháp luật, kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên
nghĩa vụ chậm thi hành sẽ phải chịu thêm khoản tiền lãi tính trên số tiền chậm
trả theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 tương
ứng với thời gian chưa thi hành án, trừ trường hợp các bên thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
4.1. Bà Nguyễn Thị L1 được miễn án phí.
4.2. Buộc Nguyễn Thị L2 phải chịu án phí 68.739.000 đồng do được
chia thừa kế được chấp nhận và án phí tuyên vô hiệu một phần hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyễn Thị L2 được hoàn lại số tiền
tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
0005431 ngày 15/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Long
An.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự tngười được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7,
Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
.
Các Thm phán
Huỳnh Hữu Nghĩa – Lê Thị Bích Tuyền
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Phùng Thị Cẩm Hồng
16
Nơi nhận:
-TAND cấp cao tại TP.HCM;
-VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện H;
- Chi cục THADS huyện H;
- Các đương sự./.
- Lưu HS, lưu án văn.
17
Tải về
Bản án số 544/2024/DS-PT Bản án số 544/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 544/2024/DS-PT Bản án số 544/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất