Bản án số 490/2025/DS-PT ngày 12/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 490/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 490/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 490/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 490/2025/DS-PT ngày 12/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 490/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | bà O, bà H thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu chia thừa kế đối với diện tích 75m2, chia làm 03 kỷ phần cho Trần Ngọc T, Trần Thị H, Trần Thị O. Bà H và bà O mỗi người nhận 25m2. Quy ra bằng tiền mỗi m2 theo định giá là 71.386.000 đồng. Bà O, bà H yêu cầu mỗi người được nhận là 1.784.650.000 đồng. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 490/2024/DS-PT
Ngày 12-12-2024
V/v tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất
và thừa kế tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Bùi Thị Phương Loan
Các Thẩm phán: Ông Đặng Minh Trung
Ông Ninh Quang Thế
- Thư ký phiên tòa: Bà Ngô Thúy Nguyên, là Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa: Ông
Bùi Trung Biển - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 416/2024/TLPT-DS ngày 21 tháng 10
năm 2024, về việc “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và
thừa kế tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 260/2024/DS-ST ngày 27 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 444/2024/QĐ-PT ngày 04 tháng 11
năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
1.Bà Trần Thị H, sinh năm 1966 (có mặt)
Địa chỉ: Nhà không số, hẻm D, đường T, khóm C, Phường F, thành phố C,
tỉnh Cà Mau.
2.Bà Trần Thị O, sinh năm 1964 (có mặt)
Địa chỉ: Nhà không số, hẻm D, đường T, khóm C, Phường F, thành phố C,
tỉnh Cà Mau.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Ngô Đình
C, văn phòng Luật sư Ngô Đình C, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh C (có mặt).
Bị đơn: Anh Trần Ngọc T, sinh năm 1992 (có mặt).
Địa chỉ: Nhà không số D, đường T, khóm C, phường F, thành phố C, tỉnh Cà
Mau.
2
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1970 (vắng mặt)
2. Bà Ngô Thị T1, sinh năm 1976 (vắng mặt).
3. Ông Vũ Đình X, sinh năm 1975 (vắng mặt).
4. Bà Trần Thị N, sinh năm 1960 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: số D, đường T, khóm C, phường F, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
5. Ông Trần Ngọc T2, sinh năm 1954 (vắng mặt).
6. Bà Nguyễn Thị Thanh T3, sinh năm 1993 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: số D, đường T, khóm C, phường F, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
7. Bà Trần Thị Ú (Trần Thị H1), sinh năm 1970 (vắng mặt).
Địa chỉ: đường K, khóm H, phường F, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
8. Bà Trần Thị H2, sinh năm 1968 (vắng mặt).
Địa chỉ: Nhà không số, đường B, khóm G, phường E, thành phố C, tỉnh Cà
Mau.
- Người kháng cáo: Bà Trần Thị H, bà Trần Thị O là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn, bà Trần Thị H và bà Trần Thị O trình bày:
Cha mẹ của các nguyên đơn là cụ Trần Đức M (đã chết năm 1995) và cụ Trần
Thị N1 (chết năm 2021). Hai cụ có 6 người con gồm: Trần Ngọc T2, Trần Thanh
T4 (đã chết năm 1995, có vợ là bà Nguyễn Thị Đ và con là Trần Ngọc T), Trần Thị
O, Trần Thị H, Trần Thị H2, Trần Thị H1. Quá trình chung sống, hai cụ có phần
đất diện tích 300m
2
tọa lạc tại số D, đường T, khóm C, phường F, thành phố C.
Năm 1995, cụ M và cụ N1 có chuyển nhượng cho bà H diện tích 150m
2
, thời điểm
chuyển nhượng đất cho bà H, cụ M và cụ N1 chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nên chưa làm thủ tục để tách quyền sử dụng đất. Sau khi cụ M
chết, năm 2002, cụ N1 được UBND thành phố C cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất diện tích 300m
2
nên cụ N1 lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất bà H
để hợp thức hóa cho hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký giữa cụ M,
cụ N1 với bà H năm 1995. Đến ngày 03/01/2003, bà H được Ủy ban nhân dân
thành phố C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 150m
2
thuộc thửa số
004, tờ bản đồ 08. Diện tích đất của cụ N1 còn lại là 150m
2
. Phần đất của bà H
được bà H xây dựng nhà ở với diện tích 100,80m
2
. Đến năm 2008, bà H đã chuyển
quyền sử dụng đất và nhà trên cho người khác, diện tích còn lại 49,2m
2
. Phần đất
này bà H không có chuyển nhượng hay tặng cho cụ N1 nhưng không biết lý do vì
sao Ủy ban nhân dân thành phố C cấp cho cụ N1 vào năm 2009. Theo hồ sơ cấp
đất thể hiện bà H đã tặng cho cụ N1. Hiện nay, phần đất này do anh Trần Ngọc T
đang quản lý, sử dụng. Năm 2022, bà đã khởi kiện yêu cầu anh Trần Ngọc T (là
con của ông Trần Thanh T4, cháu nội của cụ N1) để đòi lại quyền sử dụng đất
nhưng do chưa thu thập được đầy đủ chứng cứ nên bà rút lại yêu cầu nên Tòa án
nhân dân thành phố Cà Mau đình chỉ giải quyết vụ án. Hiện nay, phần đất diện tích
3
49,2m
2
và phần đất diện tích 150m
2
của cụ N1 đã được cụ N1 chuyển nhượng hết
cho anh Trần Ngọc T vào ngày 12/10/2015. Anh Trần Ngọc T đã được Ủy ban
nhân dân thành phố C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 29/4/2021.
Do quyền sử dụng đất trên là tài sản chung của cụ N1 và cụ M. Cụ M qua đời
không để lại di chúc nhưng cụ N1 tự ý chuyển nhượng cho anh Trần Ngọc T mà
không có sự đồng ý của các con cụ N1 là không đúng. Do đó, bà H và bà O khởi
kiện yêu cầu hủy 01 phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ N1
với anh T để chia thừa kế cho Trần Ngọc T2, Trần Thị H2, Trần Thị O, Trần Thị
H, mỗi người nhận 18,8m
2
.
Tại phiên tòa, bà O, bà H thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu chia thừa kế đối
với diện tích 75m
2
, chia làm 03 kỷ phần cho Trần Ngọc T, Trần Thị H, Trần Thị O.
Bà H và bà O mỗi người nhận 25m
2
. Quy ra bằng tiền mỗi m
2
theo định giá là
71.386.000 đồng. Bà O, bà H yêu cầu mỗi người được nhận là 1.784.650.000 đồng.
Bị đơn anh Trần Ngọc T trình bày:
Anh là con của ông Trần Thanh T4 cùng với mẹ anh là bà Nguyễn Thị Đ sống
chung với cụ N1 là bà nội của anh. Năm 1995, cha anh qua đời, nên trong năm anh
đã nhận chuyển nhượng của cụ N1 hai phần đất do cụ N1 đứng tên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất diện tích 188m
2
, trên đất đã có nhà anh và mẹ anh đang ở
cùng với cụ N1 tọa lạc tại số D, đường T, khóm C, phường F, thành phố C, tỉnh Cà
Mau. Khi anh nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ cụ N1, cụ N1 đã được Ủy
ban nhân dân thành phố C cấp hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất
thứ nhất diện tích 49,2m
2
và phần đất thứ hai diện tích 150m
2
thuộc thửa số 08, tờ
bản đồ số 04. Việc chuyển nhượng giữa anh và cụ N1 có lập thành văn bản tại
Phòng C1, giá chuyển nhượng là 300.000.000 đồng. Anh đã giao đủ tiền cho cụ
N1. Ngày 22/10/2015, anh đã được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai điều
chỉnh trang 4 trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến năm 2021, anh làm thủ
tục để hợp nhất hai quyền sử dụng đất trên thành một và đã được Ủy ban nhân dân
thành phố C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DB 219875, thửa số 314,
tờ bản đồ số 32 với tổng diện tích 188 m
2
. Sau khi nhận chuyển nhượng đất, anh đã
sửa chữa, xây mới lại nhà để ở cho đến nay. Việc anh nhận chuyển nhượng quyền
sử dụng đất từ cụ N1 là hợp pháp nên anh không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của bà H và bà O. Trên đất hiện tại có 03 căn nhà, 01 căn do anh T cùng với
vợ là Nguyễn Thị Thanh T3, hai con là Trần Phúc Nguyên sinh năm 2018 và Trần
Ngọc An V sinh năm 2019 chung sống, 02 căn nhà còn lại anh tiếp tục cho bà Trần
Thị N thuê 01 căn và cho vợ chồng ông Vũ Đình X và bà Ngô Thị T1 thuê do
trước khi cụ N1 chuyển nhượng đất cho anh cụ N1 đã cho thuê. Anh thống nhất
với kết quả đo đạc, định giá của cơ quan đo đạc, định giá.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, bà Trần Thị H1 (Trần Thị Ú) trình
bày: Bà là con của cụ Trần Đức M và cụ Trần Thị N1. Đối với tranh chấp giữa bà
4
H, bà O với anh T, bà không có yêu cầu gì trong vụ án này. Bà yêu cầu không
tham gia tố tụng và xin vắng mặt tại các giai đoạn tố tụng của Tòa án.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, bà Nguyễn Thị Đ trình bày: Bà là
vợ của ông Trần Thanh T4 (đã chết 1995), bà và ông T4 có 01 người con chung là
anh Trần Ngọc T. Đối với tranh chấp giữa bà H, bà O với anh T, bà không có yêu
cầu gì trong vụ án này. Bà yêu cầu không tham gia tố tụng và xin vắng mặt tại các
giai đoạn tố tụng của Tòa án.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, bà Trần Thị N2 trình bày: Bà thuê
nhà của cụ Trần Thị N1 cách nay đã trên 30 năm. Khi cụ N1 chết, bà trả tiền thuê
cho anh Trần Ngọc T. Đối với tranh chấp giữa bà H, bà O với anh T, bà không có
liên quan, việc thuê nhà giữa bà với anh T, thì giữa bà với anh T tự thỏa thuận. Bà
không có yêu cầu gì trong vụ án này. Bà yêu cầu không tham gia tố tụng và xin
vắng mặt tại các giai đoạn tố tụng của Tòa án.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, ông Vũ Đình X, bà Ngô Thị T1
trình bày: Ông, bà thuê nhà của cụ Trần Thị N1 cách nay đã trên 30 năm. Khi cụ
N1 chết, ông bà trả tiền thuê cho Trần Ngọc T. Đối với tranh chấp giữa bà H, bà O
với anh T, ông bà không có liên quan. Ông bà yêu cầu không tham gia tố tụng và
xin vắng mặt tại các giai đoạn tố tụng của Tòa án.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, bà Trần Ngọc T2 và bà Trần Thị
H2, là con cụ N1 và cụ M, chị Nguyễn Thị Thanh T3 là vợ anh T đã được Tòa án
đã triệu tập hợp lệ nhưng các đương sự đều vắng mặt không tham gia phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, không gửi văn bản
trình bày ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của bà H và bà O.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 260/2024/DS-ST ngày 27 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau đã quyết định:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị O, Trần Thị H
về việc hủy 01 phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có diện tích 75m
2
được lập ngày 12/10/2015 giữa cụ Trần Thị N1 với anh Trần Ngọc T, phần đất tọa
lạc tại khóm C, phường F, thành phố C, tỉnh Cà Mau để chia thừa kế là giá trị
quyền sử dụng đất theo yêu cầu của bà Trần Thị H và bà Trần Thị O mỗi người là
1.784.650.000 đồng.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo đương sự.
Ngày 11 tháng 9 năm 2024, bà Trần Thị H và bà Trần Thị O kháng cáo toàn
bộ bản án sơ thẩm. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa toàn bộ bản án sơ thẩm,
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà H và bà O.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông bà H và bà O giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
5
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa phát biểu
quan điểm: Về thủ tục tố tụng, việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá
trình giải quyết vụ án của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Về nội dung vụ án, đề nghị
Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp
nhận kháng cáo của nguyên đơn. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số:
260/2024/DS-ST ngày 27 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cà
Mau.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Kháng cáo của bà Trần Thị H, bà Trần Thị O được thực hiện trong hạn
luật định và hợp lệ nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị H và bà Trần Thị O, Hội đồng xét
xử xét thấy: Ngày 12/10/2015, tại Phòng C1, cụ N1 với anh T lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đối với 02 phần đất, một phần đất diện tích 150m
2
và
một phần đất diện tích 49,2m
2
thuộc thửa số 04, tờ bản đồ số 08 tọa lạc tại khóm C,
phường F, thành phố C, tỉnh Cà Mau. Anh T đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất vào ngày 22/10/2015. Đến ngày 29 tháng 4 năm 2021, anh T làm thủ
tục hợp thửa và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 188m
2
(bút
lục 93).
Về nguồn gốc đất thể hiện theo hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số W140086, ngày 23/12/2002 của Ủy ban nhân dân thành phố C cấp cho hộ
ông bà Trần Thị N1 phần đất thuộc thửa số 003 và 004, tờ bản đồ số 08 với tổng
diện tích 300m
2
do cụ N1 nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn Văn Q. Tại công
văn số 3056/UBND-TNMT ngày 10/7/2024 về việc cung cấp thông tin cho Tòa án
đã xác định tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông bà
Trần Thị N1 do UBND thành phố C cấp theo Quyết định 5469/QĐ-UB ngày
23/12/2002 UBND thành phố C không đủ cơ sở xác định thời điểm cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông bà Trần Thị N1 gồm những ai trong hộ. Khi cụ
N1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì cụ Trần Đức M là chồng cụ
N1 đã qua đời, vì vậy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được xác định là của cụ
N1. Tại hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ N1 thể hiện, vào
ngày 23/12/2002, cụ N1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích
300m
2
. Sau đó, cụ N1 tặng cho bà H diện tích đất 150m
2
nên ngày 03/01/2003 bà
H được Ủy ban nhân dân thành phố C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
cất nhà ở. Các con cụ N1 đều biết và không ai phản đối. Đến ngày 17/4/2008, bà H
đã chuyển nhượng cho ông Trịnh Văn T5 diện tích với diện tích 100,1m
2
, bà H còn
lại diện tích 49,2 m
2
nên đến ngày 29/7/2008, bà H ký hợp đồng tặng cho cụ N1
diện tích 49,2m
2
(BL104). Cụ nuôi đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất diện tích 49,2m
2
. Vào ngày 12/10/2015, cụ N1 đã kí hợp đồng chuyển nhượng
6
cho Trần Ngọc T cả hai phần đất do cụ N1 đứng tên. Anh T đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, đến năm 2021, anh T làm thủ tục đo đạc và hợp
thửa nên anh T được cấp một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với tổng diện
tích 188m
2
. Việc anh T nhận chuyển nhượng đất của cụ N1 vào năm 1995 và đã
xây dựng, sửa chữa lại nhà để ở cùng với cụ N1 thì bà H và bà O đều biết và cũng
không ai có ý kiến phản đối việc cụ N1 chuyển nhượng đất cho anh T, ông Trần
Ngọc T2, bà Trần Thị H2 và bà Trần Thị H1 cũng thừa nhận việc cụ N1 chuyển
nhượng đất cho anh T toàn bộ phần đất của cụ N1 trước khi cụ N1 qua đời. Khi
anh T xây và sửa chữa nhà để anh T cùng vợ là chị Nguyễn Thị Thanh T3 ở cùng
với cụ N1 ở và tiếp tục cho bà Trần Thị N, vợ chồng ông Vũ Đình X và bà Ngô
Thị T1 thuê ở bà H và bà O đều thừa nhận và cũng không có yêu cầu gì đối. Đến
năm 2021 cụ N1 qua đời thì bà O và bà H mới khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ N1 và anh T ký ngày 12/10/2015 để yêu
cầu chia thừa kế là không có cơ sở. Trong khi đó, ông Trần Ngọc T2, bà Trần Thị
H2 và bà Trần Thị H1 cũng thừa nhận cụ N1 không còn tài sản trước khi cụ N1
qua đời nên không có yêu cầu chia thừa kế đất của cụ N1. Vì vậy, bản án sơ thẩm
không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà H và bà O là cơ sở.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà H, bà O và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bà H và bà O không đưa ra được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu
kháng cáo của bà H và bà O nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận
kháng cáo.
[4] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau là phù hợp
nên được chấp nhận.
[5] Về chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc và chi phí định thẩm định giá nguyên
đơn phải chịu do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận.
Tại bản án sơ thẩm chỉ nhận định về nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng các nguyên
đơn tự chịu nhưng không nêu cụ thể số tiền chi phí tố tụng là bao nhiêu vào phần
quyết định của bản án là chưa đúng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 266 của Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015. Do đó cấp sơ thẩm cần rút nghiệm.
[6] Án phí dân sự sơ thẩm: Yêu cầu của bà Trần Thị H và bà Trần Thị O về
việc hủy 01 phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không được chấp
nhận nên bà H và bà O phải chịu án phí không có giá ngạch mỗi người là 300.000
đồng. Đối với yêu cầu anh T chia thừa kế giá trị quyền sử dụng đất cho bà H và bà
O mỗi người 1.784.650.000 đồng không được Tòa án chấp nhận nên bà H, bà O
không phải chịu.
[7] Án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của bà H, bà O không
được chấp nhận nên bà H và bà O phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy
định.
7
[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy
định về án phí, lệ phí Toà án;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị H và bà Trần Thị O.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 260/2024/DS-ST ngày 27 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị O và bà Trần
Thị H về việc hủy 01 phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập
ngày 12/10/2015 tại Phòng C1 giữa cụ Trần Thị N1 với anh Trần Ngọc T, phần đất
tọa lạc tại khóm C, phường F, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
2. Không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế là giá trị quyền sử dụng đất cho bà
Trần Thị H và bà Trần Thị O mỗi người 1.784.650.000 đồng.
3. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trần Thị O và bà Trần Thị H mỗi người phải
chịu 300.000 đồng. Bà O và bà H mỗi người đã dự nộp số tiền 2.415.000 đồng theo
biên lai thu tiền số số 0008586, số 0008587 ngày 31/10/2024 được đối trừ, bà O và
bà H mỗi người được nhận lại 2.115.000 đồng. Anh Trần Ngọc T không phải chịu
án phí.
4. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trần Thị H, bà Trần Thị O mỗi người phải
chịu 300.000 đồng. Vào ngày 18 tháng 9 năm 2024, bà H và bà O mỗi người đã dự
nộp mỗi người 300.000 đồng theo biên lai số 0009276 và biên lai số 0009277,
được chuyển thu.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Các quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể
từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
8
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau;
- Chi cục THADS thành phố Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Thị Phương Loan
Tải về
Bản án số 490/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 490/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm