Bản án số 174/2024/DS-PT ngày 19/09/2024 của TAND tỉnh Nam Định về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 174/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 174/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 174/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 174/2024/DS-PT ngày 19/09/2024 của TAND tỉnh Nam Định về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Nam Định |
Số hiệu: | 174/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Giữ nguyên bản án sơ thẩm. Căn cứ khoản 3, khoản 5 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a, c khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 148; khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 129, Điều 611, 612, 613, 623, 650, 651, 660 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 167 Luật đất đai; Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26, điểm a khoản 7 Điều 27, Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; 1. Giữ nguyên Quyết định bản án sơ thẩm số 90/2024/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu. 2. Án phí dân sự sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NAM ĐỊNH
Bản án số: 174/2024/DS-PT
Ngày: 19-9-2024
V/v: Tranh chp về thừa kế tài sản và
Yêu cầu công nhận Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đt
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Lại Văn Tùng
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Đức Cảnh
Ông Bùi Văn Biền
- Thư ký phiên toà: Bà Đoàn Thị Kim Phượng - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Nam Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định tham gia phiên tòa: Bà
Mai Thị Bích Huyên - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 177/2024/TLPT-DS ngày 31 tháng 7 năm
2024 về tranh chp chia di sản thừa kế và yêu cầu công nhận Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đt.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 90/2024/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 344/2024/QĐXXPT-DS
ngày 29 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị N, sinh năm 1990; Nơi thường trú: Xóm X, xã H,
huyện H, tỉnh Nam Định;
- Bị đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm 1970; Nơi thường trú: Xóm X, xã H,
huyện H, tỉnh Nam Định;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Phạm Thị R, sinh năm 1950; Nơi thường trú: Xóm X, xã H, huyện H,
tỉnh Nam Định;
2. Anh Vũ Trọng H, sinh năm 1986; Nơi thường trú: Xóm X, xã H, huyện H,
tỉnh Nam Định;
2
3. Chị Trần Thị K, sinh năm 1976; Nơi thường trú: Xóm X, xã H, huyện H,
tỉnh Nam Định;
4. Chị Trần Thị L, sinh năm 1981; Nơi thường trú: Xóm B, xã H, huyện H,
tỉnh Nam Định;
5. Chị Trần Thị H1, sinh năm 1984; Nơi thường trú: Thôn P, xã Đ, huyện Đ,
tỉnh Quảng Nam;
6. Chị Trần Thị H2, sinh năm 1987; Nơi thường trú: Thôn M, xã Đ, huyện Đ,
tỉnh Quảng Nam;
- Người làm chứng: Ông Vũ Văn C, sinh năm 1962; Nơi thường trú: Xóm X,
xã H, huyện H, tỉnh Nam Định.
- Người kháng cáo: Anh Trần Văn T là bị đơn trong vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Có mặt chị Trần Thị N, anh Trần Văn T, chị Trần
Thị K, chị Trần Thị L, anh Vũ Trọng H; Vắng mặt bà Phạm Thị R, chị Trần Thị
H1, chị Trần Thị H2, ông Vũ Văn C có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện ngày 04 tháng 12 năm 2023, lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Trần Thị N trình bày:
Bố đẻ chị là ông Trần Văn T1, sinh năm 1946 (chết năm 2017) kết hôn với
mẹ chị là bà Phạm Thị R trước năm 1970 và sinh được 06 người con gồm: Anh
Trần Văn T; chị Trần Thị K; chị Trần Thị L; chị Trần Thị H1; chị Trần Thị H2 và
chị Trần Thị N. Khi kết hôn ông T1 và bà R ở chung cùng bố mẹ chồng là cụ Trần
Văn H3 và cụ Trần Thị L1 (cụ H3 chết khoảng năm 1972, cụ L1 chết năm 2006).
Ông T1 và bà R được bố mẹ cho thửa đt số 150, tờ bản đồ số 10, diện tích 1398m
2
tại xã H, huyện H, tỉnh Nam Định. Ngày 08-7-1998 đã được nhà nước cp Giy
chứng nhận quyền sử dụng đt số M792979, đứng tên hộ ông Trần Văn T1. Về
công trình trên đt: Năm 1983 ông T1, bà R có xây dựng một ngôi nhà cp bốn và
các công trình phụ trên đt, xây quây thổ đt cho gia đình con cái ở; năm 2020 do
nhà cửa xuống cp bà R có tu sửa lại để sử dụng. Quá trình được quản lý sử dụng
đt từ năm 1983 cho đến nay, ông T1, bà R là người nộp các nghĩa vụ thuế về đt
cho đến khi được miễn nộp theo chính sách chung của Nhà nước, đt sử dụng lâu
dài, ổn định, không tranh chp với ai.
Năm 2008, ông T1, bà R cần tiền có nhu cầu chuyển nhượng một phần đt.
Do mong muốn có một mảnh đt để trồng cy và gần gũi cha mẹ đẻ nên chị N đã
mua lại một phần đt của bố mẹ có chiều cạnh: cạnh phía Nam giáp đt hộ ông T,
chiều cạnh phía Đ và cạnh phía Tây rộng 12m; cạnh phía Bắc và cạnh phía Nam
dài hết thổ với giá là 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng). Chị N đã giao đủ
tiền chuyển nhượng đt cho ông T1 và bà R nhận, lần một là 2.400.000đ do chị
trực tiếp giao cho ông T1, bà R nhận; lần hai vào ngày 15-9-2008 chị N có nhờ bố
chồng là ông Vũ Văn C giao số tiền còn lại là 47.600.000 đồng (bốn mươi bảy
3
triệu sáu trăm nghìn đồng) cho ông T1, bà R nhận. Khi nhận đủ tiền hai bên đã lập
một bản giy viết tay với nội dung ghi nhận việc nhận tiền và chuyển nhượng đt
cho nhau có chị K, chị L, em H1 là chị em gái của chị N chứng kiến. Sau đó bố mẹ
chị N đã giao đt cho chị N quản lý sử dụng trồng cây cối hoa màu trên đt từ khi
mua cho đến nay. Đã nhiều lần chị N vào xã đề nghị địa chính xã hướng dẫn chị
làm thủ tục cp giy chứng nhận quyền sử dụng đt cho chị nhưng cán bộ xã bận
nên chưa hướng dẫn chị và bố mẹ làm xong, do bố mẹ đã bàn giao đt cho chị sử
dụng nên chị chưa cần làm thủ tục sang tên đt theo quy định, nhưng không may là
năm 2017 bố đẻ chị N là ông T1 chết nên việc làm giy tờ chưa xong, sau đó lại
vào thời điểm COVID nên chị N và gia đình không hoàn tt thủ tục được. Quá
trình nhận và sử dụng đt không xảy ra tranh chp hay vn đề gì khác. Đến đầu
năm 2023, chị N họp bàn gia đình làm thủ tục sang tên phần đt chị N mua của bố
mẹ thì anh trai chị là anh Trần Văn T không đồng ý ký văn bản làm thủ tục sang
tên cho chị. Nay chị N khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu giải
quyết hai vn đề:
Một là công nhận cho chị N được quyền sử dụng diện tích đt 357m
2
thuộc
thửa đt số 150, tờ bản đồ số 10 theo Giy chứng nhận quyền sử dụng đt số
M792979 ngày 08-7-1998, đứng tên hộ ông Trần Văn T1 tại xã H, huyện H, tỉnh
Nam Định; có chiều cạnh phía Đông, cạnh phía Tây rộng 12m, chiều cạnh phía
Bắc và cạnh phía Nam dài hết thổ, vị trí đt tiếp giáp đt hộ ông Trần Văn T.
Hai là chia thừa kế tài sản là quyền sử dụng đt của ông Trần Văn T1 để lại
theo quy định pháp luật tại thửa đt số 150, tờ bản đồ số 10 theo Giy chứng nhận
quyền sử dụng đt số M792979 ngày 08-7-1998, đứng tên hộ ông Trần Văn T1 tại
xã H, huyện H.
Về các tài sản khác là đt ruộng nông nghiệp và công trình xây dựng trên đt,
cây trồng trên đt, chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết mà để lại cho mẹ chị
được quyền sử dụng. Chị N xin nhận phần được hưởng thừa kế bằng hiện vật.
* Tại bản tự khai ngày 19-02-2024 và lời khai trong quá trình tố tụng tại Tòa
án, anh Trần Văn T trình bày:
Anh T có lời khai thống nht với phần trình bày của chị N về quan hệ huyết
thống gia đình về tài sản chung của ông T1, bà R có thửa đt số 150, tờ bản đồ số
10 theo Giy chứng nhận quyền sử dụng đt số M792979 ngày 08-7-1998, đứng
tên hộ ông Trần Văn T1. Anh T khai nhận ông Trần Văn T1 là bố anh chết ngày
31-3-2017 không để lại di chúc. Nếu có sự việc ông T1 chuyển nhượng quyền sử
dụng đt cho chị N thì khi chết ông T1 phải di chúc lại cho các con vì anh T là con
trai duy nht của ông ở liền kề nhưng lại không biết sự việc này. Ông T1 đau lâu
ốm dài nên không vì lý do gì vào năm 2008 lại chuyển nhượng quyền sử dụng đt
cho chị N phần đt nêu trên với giá là 50.000.000 đồng. Khi ông T1 còn sống tại
sao chị N không làm thủ tục sang tên Giy chứng nhận quyền sử dụng đt mà đến
nay ông T1 chết mới yêu cầu làm thủ tục. Việc ông T1, bà R chuyển nhượng đt
cho chị N như thế nào anh T không biết nên nay anh không thể đứng lên làm
4
chứng cho việc này. Anh chỉ thy chị N có trồng cây, tự tạo rãnh nước trên phần
đt của ông T1, bà R như thể hiện trên thực địa nhưng anh chỉ nghĩ đó là chị N sử
dụng đt của bố mẹ chứ không có việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đt. Về
nguồn gốc thửa đt của bố mẹ anh là của cha ông để lại cho ông T1, bà R. Do vậy,
anh T cần hỏi ý kiến của các chị em ông T1, không thể tự quyết định được. Nếu chị
N muốn nhận chuyển nhượng thì phải trả theo giá trị quyền sử dụng đt hiện nay.
Về yêu cầu chia thừa kế tài sản anh T không có quan điểm.
* Tại bản tự khai ngày 12 tháng 01 năm 2024 và lời khai trong quá trình tố
tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Phạm Thị R và đại diện theo ủy
quyền của bà R trình bày: Bà R và ông T1 kết hôn với nhau trước năm 1970 và đã
có 6 người con chung anh Trần Văn T; chị Trần Thị K; chị Trần Thị L; chị Trần
Thị H1; chị Trần Thị H2; và chị Trần Thị N.
Quá trình chung sống, vợ chồng bà có khối tài sản chung là quyền sử dụng đt
tại thửa số 150, tờ bản đồ số 10, điện tích 1.398m
2
, ở xóm X, xã H, được UBND
huyện H cp giy chứng nhận ngày 08-7-1998 mang tên hộ ông Trần Văn T1. Năm
2008, ông T1, bà R có chuyển nhượng cho chị N một phần đt của thửa đt số 150,
tờ bản đồ số 10 có cạnh Nam giáp đt hộ ông T, chiều cạnh phía Đ và cạnh phía
Tây dài 12m; cạnh phía Bắc và cạnh phía Nam dài hết thổ (tương đương diện tích
357m
2
) với giá là 50.000.000 đồng. Việc mua bán và giao nhận tiền giữa các bên
có viết giy chuyển nhượng và có ông C, chị K, chị L, chị H1 chứng kiến, bà R
cũng xác nhận có việc chuyển nhượng đt như trên cho chị N và vợ chồng bà đã
nhận đủ tiền của chị N. Sau khi chuyển nhượng 357m
2
đt tại thửa 150, tờ bản đồ
số 10, xã H cho chị N thì khối tài sản chung của vợ chồng bà còn lại là 1041m
2
đt
tại thửa đt số 150, tờ bản đồ số 10 tại xã H. Ông T1 chết không để lại di chúc.
Sau khi nhận đủ tiền thì bà R, ông T1 đã bàn giao đt cho chị N quản lý, trồng
cy cây cối hoa màu trên phần đt đã mua cho đến nay. Trong giy chuyển nhượng
có viết chuyển nhượng cho Vũ Văn H4 vì anh H4 là chồng chị N nên mới viết như
vậy. Thực tế các cụ chuyển nhượng đt cho chị N. Một mình chị N quản lý, sử
dụng đt. Nay chị N khởi kiện bà R đề nghị Tòa án yêu cầu công nhận được quyền
sử dụng 357m
2
đt tại thửa 150 tờ bản đồ số 10, theo Giy chứng nhận quyền sử
dụng đt số M792979 ngày 08-7-1998, đứng tên hộ ông Trần Văn T1 tại xã H,
huyện H, tỉnh Nam Định và phân chia thừa kế tài sản của cụ Trần Văn T1 để lại bà
R nht trí. Về yêu cầu chia thừa kế bà R xin được hưởng phần tài sản của bà trong
khối tài sản chung vợ chồng, phần được hưởng trong di sản thừa kế của ông T1 thì
bà R chia đều cho 06 con được hưởng, bà R xin nhận bằng hiện vật tại phần đt có
ngôi nhà cp bốn bà đang ở. Về đt nông nghiệp và tài sản trên đt, không yêu cầu
giải quyết.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Trần Thị K, chị Trần Thị L,
chị Trần Thị H1, chị Trần Thị H2 thống nht với với lời khai của nguyên đơn và đề
nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Về chia thừa kế tài sản của ông T1
5
để lại các chị xin nhận kỷ phần thừa kế bằng hiện vật và xin sở hữu chung. Về đt
nông nghiệp và tài sản trên đt, không yêu cầu giải quyết.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Vũ Trọng H trình bày: Anh H
là chồng của chị N. Chị N mua bán đt đai với bố mẹ đẻ là sự việc có thật, tiền
mua đt này là tiền riêng của chị N tiết kiệm mà có nên anh không có liên quan gì.
Nay đề nghị Tòa án xem xét bảo vệ quyền lợi cho chị N và giải quyết vụ án theo
quy định pháp luật.
* Người làm chứng là ông Vũ Văn C trình bày: Ông là bố chồng chị N. Vào
năm 2008, chị N có nhờ ông C thay chị N giao trả tiền mua đt cho ông T1, bà R là
thông gia của ông nhận. Sau khi chuyển tiền xong thì các bên có viết giy biên bản
giao nhận đủ tiền mua đt theo thỏa thuận khi đó có cả con gái của bà R, ông T1 là
chị K và chị L, chị H1 chứng kiến. Ông không phải là người mua mảnh đt này.
Sau khi mua đt thì chị N là con dâu ông đã trồng cy cây cối trên phần đt đã mua
đó cho đến nay. Ông Chính đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định pháp
luật để đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.
* Các vn đề khác: Quá trình tố tụng tại Tòa án nhiều lần Tòa án báo gọi bị
đơn là anh T đến Tòa án làm việc tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa
giải, tuy nhiên anh T không chp hành giy triệu tập làm việc của Tòa án, không
đến Tòa án tham gia hòa giải và làm việc sau khi có đơn và vắng mặt không có lý
do. Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho anh T theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
Sau khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử thì Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu nhận
được một đơn đánh máy với tiêu đề đơn kiến nghị gửi qua đường bưu điện không
ghi ngày tháng năm, không có xác nhận chính quyền địa phương gửi Chánh án Tòa
án nhân dân huyện Hải Hậu ghi tên người làm đơn là Trần Văn T với nội dung: Tôi
có bố là Trần Văn T1 đã chết, mẹ là Phạm Thị R còn sống. Ông T1 chết đã nhiều
năm không để lại di chúc, giờ bỗng dưng em gái út đo đt tách thửa đt của bố anh
chết để lại, hiện mẹ đang sở hữu. Lý do tách thửa mà em gái út đưa ra yêu cầu anh
ký là khi ông T1 ốm có mượn tiền của chị N giờ phải trả bằng đt 12m theo trục
đường xóm - dài về phía tây hết mốc giới thổ đt, với giá tổng là 50.000.000 đồng.
Vừa qua Trần Thị N yêu cầu anh T ký vào hồ sơ đồng ý sang tên chuyển nhượng
đt cho Trần Thị N, anh T không đồng ý vì các lẽ sau: Nếu bố anh có bán cho chị
Trần Thị N mà chưa sang tên cho Trần Thị N thì phải để lại di chúc hoặc dặn dò, vì
anh là con trai duy nht ở liền kề. Hơn nữa, bố anh có đau lâu ốm dài, ông biết
trước cái chết nên không có lý do gì mà ông T1 bán 12m đt mặt đường chạy dài
hết thổ với giá 50.000.000 đồng. Thời gian bố anh chết nhiều năm qua không ai có
ý đưa ra là ông T1 bán, anh nghi ngờ nên không đồng ý. Trong tt cả các điều
khoản của bộ luật tố tụng dân sự đã quy định không có bt kỳ câu chữ nào bắt buộc
anh, không có đủ căn cứ pháp lý mà phải đồng ý làm chứng gian, trong khi đó anh
là người có quyền, nghĩa vụ liên quan theo luật thừa kế. Vì các lẽ trên anh chỉ đồng
6
ý cho mẹ anh trả nợ khi có đủ căn cứ pháp lý. Nếu Trần Thị N có muốn mua, phải
mua theo giá hiện hành. Tt cả chứng cứ mà Trần Thị N đưa ra là bịa đặt.
Vì vậy, anh T kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu xem xét
việc làm chưa đúng của thẩm phán Nguyễn Thị H5. Chm dứt hành vi làm phiền
bản thân anh, xử lý theo quy định của pháp luật.
Trong phong bì thư anh T gửi có gửi kèm theo một đơn đánh máy có chữ ký
viết tay của người đứng đơn Trần Thị S, chữ ký của các chị em Trần Thị T2; Trần
Thị T3; Trần Thị T4; Trần Thị T5 không có xác nhận của chính quyền địa phương
có nội dung: Bố tôi là ông Trần Văn H3 sinh năm 1923 và mẹ tôi là bà Trần Thị L1
sinh năm 1925. Bố mẹ tôi sinh được tt cả 06 anh chị em, gồm những người có tên
sau đây: Bà Trần Thị T2, sinh năm 1940; Bà Trần Thị T3; Ông Trần Văn T1, bà
Trần Thị T4, bà Trần Thị S, bà Trần Thị T5. Hiện nay chúng tôi đã xây dựng gia
đình và ở riêng. Bố mẹ tôi có một thổ đt và tài sản trên đt tại xóm X tờ bản đồ số
10, diện tích 1.468m². Khi bố mẹ tôi qua đời không để lại di chúc và cũng không
giao quyền sử dụng đt cho một người con nào trong gia đình. Nhưng đến năm
1998, không biết tại sao người em thứ ba của gia đình lại tự ý kê khai làm hồ sơ
cp giy chứng nhận quyền sử dụng đt mang tên Trần Văn T1 mà không tổ chức
họp gia đình và xin ý kiến của các thành viên trong gia đình, vì đây là đt hương
hỏa và tài sản của bố mẹ để lại và cũng có công sức của các bà cùng cha mẹ vt vả
vượt lập nên. Vì vậy tt cả các con trong gia đình đều có quyền được hưởng phần
tài sản và thổ đt bố mẹ để lại theo quy định của pháp luật. Nay bà Trần Thị S cùng
các chị em làm đơn đề nghị các cp xem xét hồ sơ địa chính gốc, thu hồi giy
chứng nhận quyền sử dụng đt mang tên ông Trần Văn T1. Trả lại nguồn gốc đt
của bố mẹ để phân chia thừa kế theo luật đt đai. Kính mong được sự quan tâm
giúp đỡ của quý cơ quan.
Tại phiên tòa sơ thẩm, các đương sự có mặt giữ nguyên ý kiến, quan điểm
như đã trình bày ở trên. Chị N ý kiến bố mẹ chị được ông bà tặng cho đt và sử
dụng từ những năm 1980 cho đến nay, xây dựng nhà cửa đóng thuế nhà nước, ông
nội chị chết vào khoảng đầu những năm 1970 (chết hơn 50 năm nay), bà nội chị
chết 2006, bố mẹ chị được nhà nước cp giy chứng nhận quyền sử dụng đt từ
1998 khi bà nội chị còn sống, đã xây dựng nhà và các công trình từ 1983 cho đến
nay, sử dụng ổn định lâu dài hơn 40 năm nay không ai tranh chp ý kiến gì, nay
các bà cô của chị đã đi ly chồng rt nhiều năm nay quay về có ý kiến viết như trên
đối với bố mẹ chị, chị N không đồng ý, vì vậy chị N đề nghị Tòa án nhân dân
huyện Hải Hậu áp dụng thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế tài sản đối với di
sản cửa cụ Trần Văn H3 và phần chia thừa kế tài sản của ông Trần Văn T1 để lại
đối với thửa 150 tờ bản đồ số 10, theo Giy chứng nhận quyền sử dụng đt số
M792979 ngày 08-7-1998, đứng tên hộ ông Trần Văn T1 tại xã H, huyện H, tỉnh
Nam Định theo quy định pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị và
đồng thừa kế khác của ông T1.
7
* Từ nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 90/2024/DS-ST ngày 04 tháng
6 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu đã quyết định: Căn cứ vào khoản
1 Điều 129, Điều 611, 612, 613, 623, 650, 651, 660 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều
167 Luật đt đai; Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 227, 228,
229 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
Xử chp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị N về Yêu cầu công
nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt và chia thừa kế tài sản.
Công nhận văn bản viết tay có tiêu đề giy chuyển nhượng quyền sử dụng đt
ngày 15/9/2008 lập giữa ông Trần Văn T1, bà Phạm Thị R và chị Trần Thị N là
hợp pháp.
Chị Trần Thị N được quyền sử dụng diện tích đt S1 = 357m
2
(trong đó: đt ở
91m
2
, Đt vườn tạp 164m
2
, đt ao nuôi cá 102m
2
), được giới hạn bởi các điểm
(4,5,13,9,4) thuộc thửa 150, tờ bản đồ số 10, tại xóm X, xã H được Nhà nước cp
Giy chứng nhận quyền sử dụng đt số M792979 ngày 08/7/1998, đứng tên hộ ông
Trần Văn T1.
Xác định khối tài sản chung của ông Trần Văn T1 và bà Phạm Thị R là quyền
sử dụng 1.041 m
2
đt tại thửa số 150, tờ bản đồ số 10, tại xóm X, xã H được Nhà
nước cp Giy chứng nhận quyền sử dụng đt số M792979 ngày 08/7/1998, đứng
tên hộ ông Trần Văn T1; có giá trị là 2.100.000 đồng/m
2
x 1041m
2
=
2.186.100.000 đồng (Hai tỷ một trăm tám mươi sáu triệu một trăm nghìn đồng).
Di sản thừa kế của ông Trần Văn T1 là quyền sử dụng phần đt diện tích
520.5m
2
thuộc thửa đt số 150, tờ bản đồ số 10, tại xóm X, xã H được Nhà nước
cp Giy chứng nhận quyền sử dụng đt số M792979 ngày 08/7/1998, đứng tên hộ
ông Trần Văn T1.
Ghi nhận sự tự nguyện của bà Phạm Thị R tự nguyện để lại kỷ phần được
hưởng thừa kế của mình trong di sản thừa kế của ông T1 chia đều cho các con.
Chia đt theo hiện vật:
Bà Phạm Thị R được quyền sử dụng phần đt S4 có diện tích 520.5m
2
(trong
đó: đt ở 133m
2
, Đt vườn tạp 238m
2
, đt ao nuôi cá 149.5m
2
), được giới hạn bởi
các điểm (6,7,11,10,6) thuộc thửa 150, tờ bản đồ số 10, tại xóm X xã H được Nhà
nước cp Giy chứng nhận quyền sử dụng đt số M792979 ngày 08/7/1998, đứng
tên hộ ông Trần Văn T1.
Anh Trần Văn T được quyền sử dụng phần đt S5 có diện tích 168.25m
2
(trong đó: đt ở 45m
2
, Đt vườn tạp 77m
2
, đt ao nuôi cá 46.25m
2
), được giới hạn
bởi các điểm (1,3,6,10,1) thuộc thửa 150, tờ bản đồ số 10, tại xóm X xã H được
Nhà nước cp Giy chứng nhận quyền sử dụng đt số M792979 ngày 08/7/1998,
đứng tên hộ ông Trần Văn T1. Nhưng anh T có trách nhiệm thanh toán cho chị
Trần Thị K, chị Trần Thị L, chị Trần Thị H1, chị Trần Thị H2 mỗi người số tiền là
8
42.787.500 đồng (Bốn mươi hai triệu bảy trăm tám mươi bảy nghìn năm trăm
đồng).
Chị N được quyền sử dụng phần đt S1 có diện tích 357m
2
(trong đó: đt ở
91m
2
, Đt vườn tạp 164m
2
, đt ao nuôi cá 102m
2
), được giới hạn bởi các điểm
(4,5,13,9,4) thuộc thửa 150, tờ bản đồ số 10, tại xóm X, xã H được Nhà nước cp
Giy chứng nhận quyền sử dụng đt số M792979 ngày 08/7/1998, đứng tên hộ ông
Trần Văn T1 và được quyền sử dụng phần đt S2 có diện tích 86.75m
2
(trong đó:
đt ở 22m
2
, Đt vườn tạp 40m
2
, đt ao nuôi cá 24.75m
2
), được giới hạn bởi các
điểm (8,9,13,12) thuộc thửa 150, tờ bản đồ số 10, tại xóm X xã H được Nhà nước
cp Giy chứng nhận quyền sử dụng đt số M792979 ngày 08/7/1998, đứng tên hộ
ông Trần Văn T1. Như vậy, chị Trần Thị N được quyền sử dụng phần đt (S2 +
S1) có tổng diện tích 443.75m
2
(trong đó: đt ở 113m
2
, Đt vườn tạp 204m
2
, đt ao
nuôi cá 126.75m
2
), được giới hạn bởi các điểm (4,5,13,12,8,9,4) thuộc thửa 150, tờ
bản đồ số 10, tại xóm X xã H được Nhà nước cp Giy chứng nhận quyền sử dụng
đt số M792979 ngày 08/7/1998, đứng tên hộ ông Trần Văn T1.
Chị Trần Thị K, chị Trần Thị L, chị Trần Thị H1, chị Trần Thị H2 được
quyền sử dụng chung phần đt S3 có diện tích 265.5m
2
(trong đó: đt ở 69m
2
, Đt
vườn tạp 126m
2
, đt ao nuôi cá 70.5m
2
), được giới hạn bởi các điểm (8,9,13,12)
thuộc thửa 150, tờ bản đồ số 10, tại xóm X xã H được Nhà nước cp Giy chứng
nhận quyền sử dụng đt số M792979 ngày 08/7/1998, đứng tên hộ ông Trần Văn
T1. Chị Trần Thị K, chị Trần Thị L, chị Trần Thị H1, chị Trần Thị H2 mỗi người
được nhận của ông Trần Văn T số tiền là 42.787.500 đồng (Bốn mươi hai triệu bảy
trăm tám mươi bảy nghìn năm trăm đồng).
(Vị trí ranh giới phần đt các bên được chia có sơ đồ đo vẽ kèm theo)
Các đương sự có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để
đăng ký quyền sử dụng đt theo quyết định của Bản án của Tòa án.
Bản gốc Giy chứng nhận quyền sử dụng đt số M792979 ngày 08/7/1998,
đứng tên hộ ông Trần Văn T1 do bà Phạm Thị R giữ.
Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các thủ tục để cp giy
chứng nhận quyền sử dụng đt cho các đương sự khi đương sự có yêu cầu theo
quyết định của Bản án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và biện pháp đảm
bảo thi hành án của các đương sự.
* Ngày 26 tháng 6 năm 2024 anh Trần Văn T là bị đơn trong vụ án có đơn
kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 90/2024/DS-ST ngày 04-6-2024 của
Toà án nhân dân huyện Hải Hậu với nội dung: Yêu cầu toà phúc thẩm cùng các cơ
quan tố tụng làm rõ tờ giy đề ngày 15-9-2008 mà Toà án sơ thẩm cho là căn cứ để
xét xử này có đúng hay không, chị Trần Thị N sinh năm 1990 đến ngày 15-9-2008
thời điểm này ông Vũ Văn C chưa phải là bố chồng chị N. Ngày 19-8-2008 chị N
còn đang sống phụ thuộc cùng bố mẹ đẻ.
9
Số tiền chị Trần Thị N cu kết với bố chồng để lo lót chạy cht độc da cam
cho ông Trần Văn T1 không được, nay bịa ra giy tờ bán đt để chiếm đoạt, thời
điểm đó có rủ anh T chạy chế độ nhưng anh không đồng ý, thời gian cách đây
khoảng 9 đến 10 năm về trước, đề nghị cơ quan tố tụng xác minh làm rõ động cơ
mồi chài của ông Vũ Văn C dẫn đến thiệt hại tiền bạc, rồi sau đó làm chứng là giao
tiền cho bố đẻ anh để ly đt, nếu bố anh bán đt thì lý do gì mà thông gia Vũ Văn
C để lại cho bố anh qua nhiều năm mới đòi đt.
Số tiền mà bố anh chữa bệnh tại bệnh viện K1, con cái chưa phải báo hiếu bố
đẻ, có chăng chỉ là thăm nom, chưa đóng góp, hơn nữa anh là con trai duy nht mà
thường xuyên ở bên đến lúc ông chết bà vẫn còn dư kinh tế khoảng 30-40 triệu
đồng, không vay mượn ai hết.
Đề nghị toà xem xét nguồn gốc thửa đt có tên cụ H3 trong bản đồ 299 thửa
số 384 diện tích 1290m
2
này là nguồn gốc của bố đẻ ông Trần Văn T1, bà Trần Thị
T2, bà Trần Thị T3, bà Trần Thị T4, bà Trần Thị S, bà Trần Thị T5, phải được thừa
kế theo pháp luật những tại bản án sơ thẩm đã bác nội dung đơn này.
* Tại phiên toà phúc thẩm: Chị Trần Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện,
giữ nguyên ý kiến đã trình bày tại Toà án cp sơ thẩm, không chp nhận lý do
kháng cáo của anh Trần Văn T đề nghị cp phúc thẩm giải quyết giữ nguyên như
bản án sơ thẩm, anh Trần Văn T vẫn giữ nguyên ý kiến đã trình bày tại Toà án cp
sơ thẩm, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, không chp nhận yêu cầu khởi kiện của
chị N, đang trong phần Hội đồng xét xử hỏi anh T thì anh T đã tự ý bỏ về không
tiếp tục tham gia phiên tòa nữa, các đương sự không thoả thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định phát biểu quan điểm: Về tố
tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực
hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ
án cũng như tại phiên tòa phúc thẩm, những người tham gia tố tụng chp hành
đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, quyền lợi của các đương sự được
bảo đảm. Tại phiên tòa phúc thẩm nửa chừng Tản tự ý bỏ về, đề nghị Hội đồng xét
xử tiếp tục xét xử theo quy định của pháp luật.
Về nội dung kháng cáo: Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì thy rằng
tài sản chung của ông T1 và bà R là thửa đt số 150, tờ bản đồ số 10, diện tích
1398m
2
tại xã H, huyện H, tỉnh Nam Định. Ngày 08-7-1998 đã được nhà nước cp
Giy chứng nhận quyền sử dụng đt số M792979, đứng tên hộ ông Trần Văn T1.
Năm 2008, ông T1, bà R đã chuyển nhượng một phần đt diện tích 357m
2
có chiều
Đông, Tây dài 12m, chiều Bắc, Nam dài hết thửa đt cho chị N. Xác định khối tài
sản chung của ông Trần Văn T1 và bà Phạm Thị R còn lại quyền sử dụng 1.041
m
2
, chia tài sản chung của vợ chồng mỗi người được quyền sử dụng diện tích đt là
520,5m
2
. Tòa án cp sơ thẩm đã quyết định công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đt cho chị N được quyền sử dụng diện tích đt S1 = 357m
2
(trong
đó: đt ở 91m
2
, Đt vườn tạp 164m
2
, đt ao nuôi cá 102m
2
) và được quyền sử dụng
10
phần đt S2 có diện tích 86.75m
2
(trong đó: đt ở 22m
2
, Đt vườn tạp 40m
2
, đt ao
nuôi cá 24.75m
2
); Bà Phạm Thị R được quyền sử dụng phần đt S4 có diện tích
520.5m
2
(trong đó: đt ở 133m
2
, Đt vườn tạp 238m
2
, đt ao nuôi cá 149.5m
2
);
Anh Trần Văn T được quyền sử dụng phần đt S5 có diện tích 168.25m
2
(trong đó:
đt ở 45m
2
, Đt vườn tạp 77m
2
, đt ao nuôi cá 46.25m
2
); Chị Trần Thị K, chị Trần
Thị L, chị Trần Thị H1, chị Trần Thị H2 được quyền sử dụng chung phần đt S3
có diện tích 265.5m
2
(trong đó: đt ở 69m
2
, Đt vườn tạp 126m
2
, đt ao nuôi cá
70.5m
2
) là có cơ sở, đảm bảo đúng pháp luật. Vì vậy, kháng cáo của anh T là
không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố
tụng dân sự giữ nguyên bản án sơ thẩm. Về án phí đề nghị giải quyết theo quy định
của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị R, chị
Trần Thị H1, chị Trần Thị H2, ông Vũ Văn C đã có đơn xin được xét xử vắng mặt
tại phiên toà nên việc xét xử vắng mặt của bà R, chị H1, chị H2, ông C không ảnh
hưởng gì đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 296
Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ.
[2] Xét kháng cáo của anh Trần Văn T làm trong thời hạn luật định phù hợp
với quy định tại khoản 1 Điều 272; khoản 1 Điều 273; Điều 276 Bộ luật Tố tụng
Dân sự nên được Hội đồng xét xử chp nhận xem xét giải quyết. Tại phiên tòa
phúc thẩm hôm nay, đang trong phần xét hỏi của Hội đồng xét xử, anh Trần Văn T
đã tự ý bỏ về, không tiếp tục tham gia phiên tòa nữa. Xét thy việc tự ý bỏ về của
anh T là không chp hành pháp luật tố tụng dân sự, anh T đã tự ý tước đi quyền và
nghĩa vụ của mình cho nên Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của
pháp luật.
[3] Về quan hệ pháp luật tranh chp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo
đơn khởi kiện của nguyên đơn thì Hội đồng xét xử cp sơ thẩm xác định đây là
quan hệ pháp luật “Tranh chp về thừa kế tài sản và yêu cầu công nhận Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đt”. Căn cứ khoản 3, khoản 5 Điều 26; điểm a
khoản 1 Điều 35; điểm a, c khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ
án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện Hải Hậu như Toà án cp sơ thẩm
đã xác định là đúng pháp luật.
[4] Xét kháng cáo của anh Trần Văn T kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ
thẩm số 90/2024/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện
Hải Hậu, đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Nam Định giải quyết làm rõ tờ giy đề
ngày 15-9-2008 mà Toà án sơ thẩm cho là căn cứ để xét xử này có đúng hay không
thy rằng: Về nguồn gốc thửa đt số 150, tờ bản đồ số 10 tại xã H. Theo hồ sơ địa
chính tại Bản đồ 299 năm 1985 thuộc tờ bản đồ số 02, thửa 384, diện tích 1290m
2
,
11
tên H3. Chưa được cp giy chứng nhận quyền sử dụng đt. Tại Bản đồ năm 1998
phù hợp với sổ địa chính năm 1998, tên T1, thửa đt số 150, tờ bản đồ số 10, diện
tích 1398m
2
, trong đó: đt ở 360m
2
, đt vườn 645m
2
,
đt ao 393m
2
. Tại sổ cp Giy
chứng nhận quyền sử dụng đt năm 1998, số thứ tự 185, tên Trần Văn T1, số sổ
M792979, tổng diện tích 4642m
2
, gồm 09 thửa, ký nhận sổ là T1. (bao gồm cả đt
nông nghiệp). Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ: Về diện tích thửa đt 150,
tờ bản đồ số 10, xã H có diện tích 1398m
2
, phù hợp với hồ sơ địa chính, có giá trị
quyền sử dụng đt là 2.100.000 đồng/m
2
. Hiện nay, phần đt ao đã được lp toàn
bộ. Về các công trình còn giá trị gồm nhà xây năm 1983 sửa chữa năm 2020 giá trị
còn lại 10.000.000 đồng; Nhà vệ sinh mái ngói giá trị còn lại 5.190.000 đồng; một
nhà bếp lợp ngói tường 110, nền láng vữa xi măng giá trị còn lại 19.290.000 đồng.
Tt cả các công trình này do bà R là người xây dựng. Các công trình khác theo
biên bản thẩm định gồm nhà cp bốn xây năm 1983, S1 bê tông trước nhà đổ dày
10cm, bể nước xây gạch chỉ 110 đáy và nắp bê tông cốt thép đã hết giá trị khu hao
do ông T1, bà R xây dựng khi ông T1 còn sống. Ngoài ra còn có 01 cây ổi đường
kính thân khoảng 10cm đến 20 cm giá trị 150.000 đồng; 01 cây khế đường kính
khoảng 10cm đến 20 cm có giá trị 150.000 đồng do ông T1, bà R trồng. Một số
cây trồng khác do chị N trồng, không yêu cầu định giá.
[5] Về các vn đề khác: Theo ý kiến của anh Trần Văn T kiến nghị Chánh án
Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu xem xét việc làm chưa đúng của thẩm phán
Nguyễn Thị H5. Chm dứt hành vi làm phiền bản thân anh, xử lý theo quy định
của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thy ý kiến của anh T đưa ra là không có căn cứ
chp nhận vì các căn cứ sau: Theo quy định tại Điều 68, Điều 70, Điều 71, Điều
72, Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự thì chị N là nguyên đơn trong vụ án có đơn khởi
kiện tại Tòa án nên việc chị N có ý kiến trình bày quan điểm của mình và giao nộp
tài liệu chứng cứ cho Thẩm phán giải quyết vụ án là quyền và nghĩa vụ của các
đương sự để bảo vệ cho mình không ai có quyền ngăn cản. Mọi việc được đánh giá
đúng sai phải bằng Quyết định của bản án của Tòa án. Trong suốt quá trình giải
quyết vụ án tại Tòa án cp sơ thẩm đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các
đương sự nhận, để biết thực hiền quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn anh T không
có yêu cầu phản tố, có yêu cầu độc lập đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, nhưng anh T không đưa ra được tài liệu chứng cứ chứng minh cho ý kiến
trình bày của mình là có căn cứ, yêu cầu này anh T đưa ra sau khi Tòa án cp sơ
thẩm đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải. Do đó, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự không có cơ sở chp nhận
yêu cầu này của anh T.
[6] Xét kháng cáo của anh Trần Văn T đề nghị toà xem xét nguồn gốc thửa
đt có tên cụ H3 trong bản đồ 299 thửa số 384 diện tích 1290m
2
này là nguồn gốc
của bố đẻ ông Trần Văn T1, bà Trần Thị T2, bà Trần Thị T3, bà Trần Thị T4, bà
Trần Thị S, bà Trần Thị T5 phải được thừa kế theo pháp luật những tại Bản án sơ
thẩm đã bác nội dung đơn này thì thy: Bà Trần Thị S và các chị em của bà có tên
trong đơn đánh máy gửi qua đường bưu điện trong phong bì thư đứng tên anh T
12
gửi là bà Trần Thị T2; bà Trần Thị T3; bà Trần Thị T4; bà Trần Thị T5 ý kiến yêu
cầu Tòa án xem xét hồ sơ địa chính gốc, thu hồi giy chứng nhận quyền sử dụng
đt mang tên ông Trần Văn T1. Trả lại nguồn gốc đt của bố mẹ các bà để phân
chia thừa kế theo luật đt đai. Qua xem xét thẩm định tại chỗ, hồ sơ địa chính và
thực địa sử dụng đt thì thy ông T1, bà R có quá trình sử dụng đt ổn định lâu dài
trên thửa đt được đứng tên từ những năm 1970 đến nay cùng bố mẹ đẻ, năm 1983
xây dựng nhà trên đt, 1998 được nhà nước cp giy chứng nhận quyền sử dụng
đt, sử dụng ổn định lâu dài cho đến nay không có ai tranh chp. Theo đơn ghi tên
bà S, bà T2, bà T5, bà T3, bà T4 ý kiến bố mẹ có một thổ đt và tài sản trên đt tại
xóm X: tờ bản đồ số 10, diện tích 1.468m² thông tin về tài sản các bà đưa ra là
trùng khớp với diện tích thửa đt bố mẹ các bà có và không có tài liệu chứng cứ
chứng minh kèm theo đơn, quá trình giải quyết vụ án không có yêu cầu độc lập,
không nộp tạm ứng án phí, đơn của các bà được gửi cho Tòa án sau khi Tòa án cp
sơ thẩm đã mở phiên họp tiếp cận kiểm tra việc giao nộp chứng cứ. Vì vậy, không
có cơ sở để xem xét đánh giá trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét
giải quyết. Hơn nữa trong vụ án này các đồng thừa kế của ông T1 đề nghị Tòa án
áp dụng thời hiệu giải quyết khi chia di sản thừa kế, căn cứ vào Điều 623 Bộ luật
dân sự thì thời hiệu chia di sản thừa kế tài sản là bt động sản của cụ H3 (cụ H3
chết từ những năm 1970) đã hết thời hiệu chia di sản thừa kế, đt cp cho ông T1,
bà R khi cụ L1 còn sống cũng không có ý kiến phản đối gì nên việc cp giy chứng
nhận quyền sử dụng đt cho ông T1 là hợp pháp và có căn cứ. Do đó, ý kiến của bà
S, bà T2, bà T5, bà T3, bà T4 không có cở sở chp nhận và bà S, bà T2, bà T5, bà
T3, bà T4 không thuộc diện hàng thừa kế thứ nht của ông T1. Do đó, yêu cầu của
bà S, bà T2, bà T5, bà T3, bà T4 không được Tòa án xem xét giải quyết trong vụ
án này.
[7] Xét về yêu cầu công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt:
Năm 2008, do có việc cần tiền nên vợ chồng ông T1, bà R đã chuyển nhượng cho
chị N một phần đt có cạnh Nam giáp đt hộ anh T, chiều cạnh phía Đông và cạnh
phía Tây dài 12m; cạnh phía Bắc và cạnh phía Nam dài hết thửa đt với giá là
50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng). Nay chị N đề nghị Hội đồng xét xử công
nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt này. Xét thy trong quá trình
giải quyết vụ án chị N đã cung cp cho Tòa án một giy viết tay “Giy chuyển
nhượng đt” đề ngày 15-9-2008. Khi hai bên thực hiện hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đt chị N đã giao cho vợ chồng ông T1, bà R nhận đủ số tiền là
50.000.000 đồng. Việc thỏa thuận, viết Giy chuyển nhượng và giao tiền có chị K,
chị L, chị H1 chứng kiến. Sau khi giao tiền xong, ông T1, bà R đã bàn giao đt cho
chị N quản lý, sử dụng, chị N nhận phần đt đã chuyển nhượng để trồng cây xanh
từ đó cho đến nay. Do ông T1 đã chết và anh T không đồng ý ký hồ sơ để làm thủ
tục sang tên cho chị N nên chị N chưa được cp Giy chứng nhận quyền sử dụng
đt. Do vậy, chị N đề nghị Tòa án công nhận việc bà R, ông T1 đã chuyển nhượng
đt cho chị N. Đến nay bà R, chị K, chị L (H6), chị H1, chị H2 đều công nhận lời
trình bày của chị N là đúng sự thật chỉ có riêng một mình anh T không đồng ý. Xét
13
thy đối tượng chuyển nhượng của giao dịch dân sự chuyển nhượng quyền sử dụng
đt giữa chị N và vợ chồng ông T1, bà R này là một phần thửa đt thuộc thửa 150,
tờ bản đồ số 10, tại xã H được Nhà nước cp Giy chứng nhận quyền sử dụng đt
đứng tên hộ ông Trần Văn T1. Về bên nhận chuyển nhượng mặc dù trong giy
chuyển nhượng viết là chuyển nhượng cho anh Vũ Trọng H nhưng bản thân anh H
cũng như các đương sự khác (trừ anh T) đều khẳng định là vợ chồng ông T1, bà R
chuyển nhượng đt cho riêng cho một mình chị N. Từ những chứng cứ có trong hồ
sơ phù hợp với lời khai của đương sự và người làm chứng. Do đó, ông Trần Văn
T1 và bà Phạm Thị R chuyển nhượng quyền sử dụng đt cho chị N là sự việc có
thật. Như vậy, về nội dung, đt chuyển nhượng đã được cp giy chứng nhận
quyền sử dụng đt, tại thời điểm chuyển nhượng không có tranh chp, thuộc quyền
sử dụng của người chuyển nhượng nên được quyền chuyển nhượng theo quy định
tại Điều 167 Luật Đt đai năm 2013.
[8] Xét về hình thức giao dịch dân sự hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đt: Khi thỏa thuận chuyển nhượng đt các bên đã viết giy “Giy chuyển
nhượng đt”. Hợp đồng này đã được lập thành văn bản, có đối tượng chuyển
nhượng là quyền sử dụng đt nhưng hợp đồng chưa được cơ quan có thẩm quyền
công chứng, chứng thực nên đã vi phạm hình thức của hợp đồng theo quy định tại
điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đt đai năm 2013. Tuy nhiên, nội dung tại văn bản
này là chuyển nhượng quyền sử dụng đt, phù hợp với ý chí tự nguyện của các
đương sự nên được hiểu là các bên đã thống nht với nhau thoả thuận ký kết một
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt, mặt khác, bên nhận chuyển nhượng
đã thanh toán tiền xong cho bên chuyển nhượng nhận đủ nên theo khoản 1 Điều
129 Bộ luật Dân sự: “ Một giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải
bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các
bên đã thực hiện ít nht hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của
một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó”
nên vẫn đảm bảo đúng quy định pháp luật. Hơn nữa, trên thực tế các bên đã thực
hiện nghĩa vụ bàn giao đt cho nhau. Do vậy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đt này phù hợp về nội dung và hình thức nên có cơ sở công nhận hiệu lực
của hợp đồng. Vì hợp đồng được công nhận nên phát sinh hiệu lực, chị N được
quyền sử dụng phần đt S1 có diện tích 357m
2
(trong đó: đt ở 91m
2
, Đt vườn tạp
164m
2
, đt ao nuôi cá 102m
2
), được giới hạn bởi các điểm (4,5,13,9,4) thuộc thửa
150, tờ bản đồ số 10, tại xã H được Nhà nước cp Giy chứng nhận quyền sử dụng
đt số M792979 ngày 08-7-1998, đứng tên hộ ông Trần Văn T1.
[9] Xét yêu cầu chia thừa kế tài sản của ông Trần Văn T1: Về thời điểm mở
thừa kế: Ông Trần Văn T1 chết ngày 31-3-2017 nên vẫn còn thời hiệu khởi kiện
chia di sản thừa kế. Về diện và hàng thừa kế năm 2017, ông T1 chết, trước khi chết
không để lại di chúc nên chia di sản thừa kế của ông T1 để lại theo pháp luật. Bố
mẹ ông T1 chết trước ông T1 nên hàng thừa kế thứ nht của ông T1 gồm: Bà Phạm
Thị R, anh Trần Văn T, chị Trần Thị K, chị Trần Thị L, chị Trần Thị H1, chị Trần
14
Thị H2, chị Trần Thị N. Do đó, diện và hàng thừa kế của ông T1 gồm có 07 kỷ
phần.
[10] Về tài sản chung của ông Trần Văn T1, bà Phạm Thị R và Di sản ông T1
để lại: Quá trình giải quyết vụ án, bằng việc xem xét hồ sơ địa chính, xem xét thẩm
định tại chỗ, sơ đồ đo đạc, khẳng định tài sản chung của ông T1, bà R còn lại gồm:
Quyền sử dụng thửa số 150, tờ số 10, xã H có diện tích 1398 m
2
- 357m
2
= 1041m
2
,
có giá trị là 2.100.000 đồng/m
2
x 1041m
2
= 2.186.100.000 đồng (Hai tỷ một trăm
tám mươi sáu triệu một trăm nghìn đồng) và một số công trình, cây trồng trên đt
đương sự không yêu cầu giải quyết. Theo quy định tại Điều 66 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 thì bà R, ông T1 mỗi người có ½ tài sản nằm trong tài sản
chung của vợ chồng. Ông T1, bà R được quyền sử dụng phần đt diện tích là
1041m
2
: 2 = 520.5m
2
. Như vậy, giá trị di sản thừa kế ông T1 để lại là
1.093.050.000đồng (Một tỷ không trăm chín mươi ba triệu không trăm năm mươi
nghìn đồng).
[11] Phân chia di sản theo giá trị: Hàng thừa kế thứ nht của ông T1 gồm 07
kỷ phần là bà Phạm Thị R, anh Trần Văn T, bà Trần Thị K, chị Trần Thị L, chị
Trần Thị H1, chị Trần Thị H2, chị Trần Thị N. Ghi nhận sự tự nguyện của bà
Phạm Thị R tự nguyện để lại kỷ phần được hưởng thừa kế của mình trong di sản
thừa kế của ông T1 để chia đều cho các con nên giá trị tài sản anh Trần Văn T, bà
Trần Thị K, chị Trần Thị L, chị Trần Thị H1, chị Trần Thị H2, chị Trần Thị N mỗi
người được hưởng là 1.093.050.000 : 6 = 182.175.000 đồng (tương đương phần
đt có diện tích 86.75m
2
).
[12] Phân chia di sản theo hiện vật: Phần đt còn lại sau chuyển nhượng cho
chị Trần Thị N thuộc thửa đt số 150, tờ bản đồ số 10, xã H, trên đt có xây các
công trình phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày không thể tách rời, phần phía Nam
thổ chị N đã trồng cây, bà R xin được quyền sử dụng phần đt tại phần đã có các
công trình, các đương sự khác (trừ anh T) xin được hưởng bằng hiện vật. Như vậy,
để đảm bảo việc sử dụng đt của các bên được thuận lợi, không làm mt giá trị tài
sản đang tranh chp, chia cho các đương sự được quyền sử dụng đt như sau: Chia
cho bà Phạm Thị R được quyền sử dụng phần đt S4 có diện tích 520.5m
2
(trong
đó: đt ở 133m
2
, Đt vườn tạp 238m
2
, đt ao nuôi cá 149.5m
2
), được giới hạn bởi
các điểm (6,7,11,10,6). Chia cho anh Trần Văn T được quyền sử dụng phần đt S5
có diện tích 168.25m
2
(trong đó: đt ở 45m
2
, Đt vườn tạp 77m
2
, đt ao nuôi cá
46.25m
2
), được giới hạn bởi các điểm (1,3,6,10,1) nhưng anh T có trách nhiệm
thanh toán cho chị Trần Thị K, chị Trần Thị L, chị Trần Thị H1, chị Trần Thị H2
mỗi người số tiền là 42.787.500 đồng (Bốn mươi hai triệu bảy trăm tám mươi bảy
nghìn năm trăm đồng). Chia cho chị Trần Thị N được quyền sử dụng phần đt S2
có diện tích 86.75m
2
(trong đó: đt ở 22m
2
, Đt vườn tạp 40m
2
, đt ao nuôi cá
24.75m
2
), được giới hạn bởi các điểm (8,9,13,12). Như vậy, chị Trần Thị N được
quyền sử dụng phần đt (S2 + S1) có tổng diện tích 443.75m
2
(trong đó: đt ở
113m
2
, Đt vườn tạp 204m
2
, đt ao nuôi cá 126.75m
2
), được giới hạn bởi các điểm
15
(4,5,13,12,8,9,4). Chia cho cho chị Trần Thị K, chị Trần Thị L, chị Trần Thị H1,
chị Trần Thị H2 được quyền sử dụng chung phần đt S3 có diện tích 265.5m
2
(trong đó: đt ở 69m
2
, Đt vườn tạp 126m
2
, đt ao nuôi cá 70.5m
2
), được giới hạn
bởi các điểm (8,9,13,12) đều thuộc thửa 150, tờ bản đồ số 10, tại xóm X xã H được
Nhà nước cp Giy chứng nhận quyền sử dụng đt số M792979 ngày 08-7-1998,
đứng tên hộ ông Trần Văn T1. Chị Trần Thị K, chị Trần Thị L, chị Trần Thị H1,
chị Trần Thị H2 mỗi người được nhận của anh Trần Văn T số tiền là 42.787.500
đồng (Bốn mươi hai triệu bảy trăm tám mươi bảy nghìn năm trăm đồng) là hoàn
toàn phù hợp pháp luật. Phần đt mà các đương sự được chia sẽ có sơ đồ cụ thể
kèm theo bản án sơ thẩm.
[13] Những nội dung kháng cáo khác của anh Trần Văn T đề nghị Tòa án cp
phúc thẩm xem xét, giải quyết như: Chị Trần Thị N sinh năm 1990 đến ngày 15-9-
2008 thời điểm này ông Vũ Văn C chưa phải là bố chồng chị N. Ngày 19-8-2008
chị N còn đang sống phụ thuộc cùng bố mẹ đẻ. Số tiền chị Trần Thị N cu kết với
bố chồng để lo lót chạy cht độc da cam cho ông Trần Văn T1 không được, nay bịa
ra giy tờ bán đt để chiếm đoạt, thời điểm đó có rủ anh T chạy chế độ nhưng anh
không đồng ý, thời gian cách đây khoảng 9 đến 10 năm về trước, đề nghị cơ quan
tố tụng xác minh làm rõ động cơ mồi chài của ông Vũ Văn C dẫn đến thiệt hại tiền
bạc, rồi sau đó làm chứng là giao tiền cho bố đẻ anh để ly đt, nếu bố anh bán đt
thì lý do gì mà thông gia Vũ Văn C để lại cho bố anh qua nhiều năm mới đòi đt.
Số tiền mà bố anh chữa bệnh tại bệnh viện K1, con cái chưa phải báo hiếu bố đẻ,
có chăng chỉ là thăm nom, chưa đóng góp, hơn nữa anh là con trai duy nht mà
thường xuyên ở bên đến lúc ông chết bà vẫn còn dư kinh tế khoảng 30-40 triệu
đồng, không vay mượn ai hết. Xét những nội dung kháng cáo này là lời trình bày
của anh T không liên quan đến yêu cầu khởi kiện của chị N, vượt quá phạm vi xét
xử phúc thẩm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[14] Qua những phân tích nêu trên đã cho thy những kết luận trong bản án sơ
thẩm là hoàn toàn phù hợp với những quy định của pháp luật, quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên đương sự được pháp luật bảo vệ không bị xâm hại. Tòa án cp sơ
thẩm đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án. Tại phiên
tòa phúc thẩm anh Trần Văn T cũng không đưa ra được các chứng cứ và lý lẽ để
chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là có căn cứ và hợp pháp. Vì vậy, yêu cầu
kháng cáo của anh Trần Văn T không được chp nhận cần giữ nguyên quyết định
của bản án sơ thẩm.
[15] Chi phí tố tụng: Chị Trần Thị N xác nhận đã nộp đủ tiền chi phí đo đạc
thẩm định và định giá tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử
không xem xét giải quyết.
[16] Về án phí: Án phí yêu cầu công nhận Hợp đồng quyền sử dụng đt: Chị
Trần Thị N tự nguyện nhận nộp án phí không có giá ngạch theo quy định của pháp
luật. Án phí chia tài sản chung của vợ chồng và chia thừa kế tài sản: Anh Trần Văn
T, chị Trần Thị K, chị Trần Thị L, chị Trần Thị H1, chị Trần Thị H2, chị Trần Thị
16
N phải nộp án phí đối với phần tài sản được nhận. Bà Phạm Thị R được miễn nộp
án phí do là người cao tuổi.
[17] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của anh Trần Văn T không được
chp nhận nên anh T phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự
phúc thẩm. Số tiền anh T đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm được đối trừ vào số
tiền anh T phải nộp. Anh T đã thi hành xong án phí dân sự phúc thẩm.
[18] Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời
hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
Căn cứ khoản 3, khoản 5 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a, c khoản 1
Điều 39; Điều 147; Điều 148; khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
khoản 1 Điều 129, Điều 611, 612, 613, 623, 650, 651, 660 Bộ luật dân sự năm
2015; Điều 167 Luật đt đai; Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm đ
khoản 1 Điều 12, Điều 26, điểm a khoản 7 Điều 27, Điều 29 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Giữ nguyên Quyết định bản án sơ thẩm số 90/2024/DS-ST ngày 04 tháng
6 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà Phạm Thị R.
Anh Trần Văn T, chị Trần Thị K, chị Trần Thị L, chị Trần Thị H1, chị Trần
Thị H2, chị Trần Thị N mỗi người phải nộp 9.108.750 đồng (Chín triệu một trăm
linh tám nghìn bảy trăm năm mươi đồng) án phí chia thừa kế tài sản.
Chị Trần Thị N phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí yêu cầu
Công nhận quyền sử dụng 357m
2
đt và 9.108.750 đồng (Chín triệu một trăm linh
tám nghìn bảy trăm năm mươi đồng) án phí chia thừa kế tài sản, tổng số tiền chị N
phải nộp là 9.408.750 đồng (Chín triệu bốn trăm linh tám nghìn bảy trăm năm
mươi đồng). Nhưng được trừ vào số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) đã nộp tạm
ứng án phí dân sự sơ thẩm tại biên lai số 0003006 ngày 10-01-2024 của Chi cục
Thi hành án Dân sự huyện Hải Hậu. Chị N còn phải nộp 4.408.750đồng (Bốn triệu
bốn trăm linh tám nghìn bảy trăm năm mươi đồng).
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Anh Trần Văn T phải nộp 300.000 đồng nhưng
được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng tại biên lai thu tạm
ứng án phí, lệ phí Toà án số 0003243 ngày 08-7-2024 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Anh T đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
17
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, người phải thi hành án dân sự bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
CÁC THẨM PHÁN
Nguyễn Đức Cảnh Bùi Văn Biền
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lại Văn Tùng
18
Nơi nhận:
- Đương sự;
- VKSND tỉnh Nam Định;
- VKSND huyện Hải Hậu;
- TAND huyện Hải Hậu;
- Chi cục THADS huyện Hải Hậu;
- Lưu HS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lại Văn Tùng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Bản án số 35/2025/DS-PT ngày 20/01/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp về thừa kế tài sản
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm