Bản án số 109/2024/DS-PT ngày 28/10/2024 của TAND tỉnh Gia Lai về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 109/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 109/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 109/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 109/2024/DS-PT ngày 28/10/2024 của TAND tỉnh Gia Lai về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Gia Lai |
Số hiệu: | 109/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Khoảng năm 2002 gia đình ông B, bà L có nhận chuyển nhượng một thửa đất vườn (nay thuộc đường Đông Trường Sơn) với chiều ngang mặt đường 20m, chiều dài khoảng 70m của ông Phạm Đình H, bà Nguyễn Thị L với số tiền 9.000.000đ. Thửa đất có tứ cận |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH GIA LAI
Bản án số: 109/2024/DS-PT
Ngày 28/10/2024
V/v tranh chấp yêu cầu công
nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Đặng Chí Công
Các Thẩm phán:
Bà Cao Thị Thanh Huyền;
Bà Đinh Thị Như Phượng.
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Kim Liên, Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Gia Lai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai: Ông Hoàng Văn Hạnh -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 15 và ngày 28 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Gia Lai công khai xét xử phúc thẩm vụ án dân sự thụ lý số 76/2024/TLPT-
DS ngày 05/9/2024 về việc "Tranh chấp yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 25/7/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 137/2024/QĐ-PT ngày 06/9/2024,
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Trần Văn B và bà Nguyễn Thị L; địa chỉ: thôn A, xã U,
huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ông Trần Hoài N; địa chỉ: tổ
dân phố 1, thị trấn C, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Phạm Đình H và bà Nguyễn Thị L; địa chỉ: thôn A, xã U,
huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: ông Nguyễn Thanh T, địa chỉ: C,
đường N, phường Y, thành phố Plei Ku, tỉnh Gia Lai và ông Lê Quang T, địa chỉ:
166 đường P, phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk. Có mặt.
2
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần
A. Địa chỉ: 442, N, phường B, quận C, thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện
theo pháp luật: ông Từ Tiến P, chức vụ: Tổng giám đốc. Người đại diện theo ủy
quyền: ông Nguyễn Đình L, chức vụ: phó giám đốc quản lý phòng nợ. Người đại
diện theo ủy quyền lại: Ông Nguyễn Chánh T, chức vụ: Nhân viên xử lý nợ. Nơi
cư trú: số 16, đường P, phường H, thành phố Plei Ku, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Bị đơn Ông Phạm Đình H và bà Nguyễn Thị L; địa chỉ:
thôn A, xã U, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Đại diện nguyên đơn trình bày:
Khoảng năm 2002 gia đình ông B, bà L có nhận chuyển nhượng một thửa
đất vườn (nay thuộc đường Đông Trường Sơn) với chiều ngang mặt đường 20m,
chiều dài khoảng 70m của ông Phạm Đình H, bà Nguyễn Thị L với số tiền
9.000.000đ. Thửa đất có tứ cận: phía Bắc giáp đất ông Đào Xuân N (ông N mua
của ông Phạm Đình H), phía Nam và phía Đông giáp đường xóm, phía Tây giáp
đường Đông Trường Sơn. Ông B, bà L đã giao đủ số tiền 9.000.000đ cho ông H,
bà L. Do tại thời điểm đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông ông H, bà
L đang thế chấp tại ngân hàng, mặt khác giữa hai bên gia đình là thông gia (cháu
ruột ông B, bà L kết hôn với con gái ông H, bà L) nên ông H, bà L nói không cần
phải viết giấy mua bán và nhận tiền, khi nào trả tiền ngân hàng rồi lấy bìa đỏ ra
tách thửa sang tên cho ông B, bà L, đồng thời có thỏa thuận khi sang tên thì mỗi
bên chịu một nửa tiền thuế. Hiện nay gia đình không còn thông gia với nhau nữa
do con gái ông H, bà L và cháu của ông B, bà L đã ly hôn. Ông H, bà L cũng đã
trả tiền Ngân hàng và lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về nên ông B, bà L
yêu cầu ông H, bà L đi làm thủ tục tách thửa đất để sang tên nhưng ông H, bà L
không đồng ý và còn có ý định chiếm đoạt mảnh đất mà gia đình ông B, bà L đang
quản lý, sử dụng.
Thửa đất ông H, bà L chuyển nhượng cho ông B, bà L được gia đình ông
B, bà L quản lý sử dụng ổn định từ năm 2002 cho đến nay được bà con trong thôn
ai cũng biết và làm chứng. Hiện trên đất có những cây Điều nhiều năm tuổi gia
đình nguyên đơn vẫn đang thu hoạch cho đến nay. Khoảng năm 2002 - 2003 khi
xã, thôn có chủ trương dựng tháp nước sạch của thôn trên đất của ông H, bà L và
có đào chân tháp sang đất nhà ông B, bà L thì ông B, bà L không đồng ý và phải
chuyển về giữa vườn nhà ông H, bà L, thời gian đó ông Vũ Đình C đang làm thôn
trưởng và làm chứng. Năm 2011 Nhà nước có chủ trương mở rộng và làm đường
Đông Trường Sơn, các ban ngành của xã U, phòng Tài Nguyên Môi trường, Ban
quản lý dự án đền bù của huyện Krông Pa có tiến hành đo đạc xác định ranh giới,
mốc giới thửa đất toàn bộ tuyến đường mà trong đó có thửa đất nguyên đơn đang
sử dụng, tại vị trí đó gia đình nguyên đơn bị thu hồi diện tích 102m
2
(thuộc thửa
đất số 50, tờ bản đồ thu hồi số 4) đồng thời được nhận số tiền đền bù theo quy
định. Thời điểm này các hộ liền kề thửa đất như: ông Đào Xuân N, ông H, bà L
3
cũng được đo đạc xác định ranh giới theo hiện trạng sử dụng và cũng được Nhà
nước đền bù theo hiện trạng sử dụng. Khoảng năm 2012 sau khi nhà nước làm
xong đường thì phía đất nguyên đơn trũng thấp hơn mặt đường Đông Trường Sơn
nên gia đình nguyên đơn có xây dựng tường bao phía Nam thửa đất và có mua
khoảng 200 xe đất để đổ cho cao, trong đó mua của ông Vũ Đình D 100 xe ben,
ông D đã làm chứng cho gia đình nguyên đơn. Trên đất đó nguyên đơn cũng trồng
một số cây Điều khoảng 06 năm nay. Ngày 22/12/2021 nguyên đơn có làm đơn
yêu cầu UBND xã U giải quyết việc tranh chấp công nhận quyền sử dụng đất đối
với thửa đất nêu trên cho nguyên đơn, UBND xã đã tiền hành hòa giải theo quy
định nhưng kết quả hòa giải không thành và ban hành Quyết định số 32/QĐ-
UBND ngày 26/01/2022 của UBND xã U Quyết định về việc công nhận kết quả
hòa giải không thành.
Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu công nhận việc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đối với thửa đất của gia đình nguyên đơn
đang quản lý, sử dụng từ năm 2002 (theo kết quả xem xét thẩm định của Tòa án
có diện tích 1.263,6m
2
)
mà gia đình nguyên đơn nhận chuyển nhượng của ông
Phạm Đình H, bà Nguyễn Thị L từ năm 2002. Yêu cầu ông Phạm Đình H, bà
Nguyễn Thị L phải làm thủ tục chuyển nhượng đất hợp pháp cho gia đình nguyên
đơn. Về chi phí thẩm định và định giá thì đề nghị ông H, bà L trả lại cho gia đình
nguyên đơn.
* Đại diện bị đơn trình bày:
Bị đơn khẳng định là từ trước đến nay không hề giao kết hợp đồng hoặc ký
kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông B, bà L dưới bất cứ hình
thức nào mà chỉ cho ông B, bà L mượn đất đang tranh chấp để sử dụng, không
thỏa thuận khi nào trả. Trước đây vì có quan hệ quen biết thân tình với nhau, nên
vợ chồng ông B, bà L đã nhiều lần đặt vấn đề mong muốn bị đơn bán cho vợ
chồng ông B, bà L lô đất trên, nhưng bị đơn không đồng ý bán. Vì mối quan hệ
thân tình, nên bị đơn đã lấy lý do bìa đỏ đang vay ngân hàng nên không thể tách
bán cho ông B, bà L được. Thế nhưng ông B, bà L nói rằng khi nào rút được bìa
đỏ từ ngân hàng ra rồi bán cũng được chứ không vội. Vì không mua đất được của
bị đơn nên ông B, bà L xin bị đơn cho mượn một phần diện tích đất để canh tác.
Vì nể mối quan hệ giữa hai gia đình với nhau, và phần đất này bị đơn cũng không
làm gì nên đồng ý cho ông B, bà L mượn để canh tác. Trong thời gian canh tác,
vợ chồng ông B, bà L vẫn tiếp tục nhiều lần đặt vấn đề mua lại diện tích đất mà
bị đơn cho mượn. Bị đơn nói việc bán hay không để tính sau, vì không có nhu cầu
bán mà để giành cho con cháu, trước mắt chỉ cho mượn và giữ đất cho bị đơn.
Bị đơn không hề giao kết bằng lời nói hay bằng hợp đồng ký tá với vợ
chồng ông B, bà L để thỏa thuận bán lô đất trên với giá 9.000.000 đồng như ông
B, bà L nêu. Trên thực tế, bị đơn không bán cho vợ chồng ông B, Ly nên không
có việc nhận số tiền 9.000.000 đồng như vợ chồng ông B, bà L nói. Nay bị đơn
không đồng ý với yêu cầu của vợ chồng ông B, bà L. Bị đơn đề nghị ông B bà L
trả lại lô đất nói trên. Đối với số lượng cây trồng trên lô đất nếu ông B, bà L có
yêu cầu thanh toán lại bằng tiền thì bị đơn xem xét hợp lý sẽ thanh toán lại.
4
* Tại bản án sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 25/7/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai đã quyết định:
Căn cứ Điều 4; Điều 5; Điều 6; khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; Điều
39; Điều 40; khoản 1 Điều 147; Điều 157; Điều 165; Điều 266 và Điều 273 của
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Áp dụng các Điều 130, 131, 394, 395, 400,
705, 706, 707, 708, 711 Bộ luật dân sự năm 1995; Các Điều 116, 117, 119, 274,
275, 276, 398, 500, 501, 502 và 688 của Bộ luật Dân sự 2015; Các Điều 3, 73
của Luật đất đai 1993 sửa đổi bổ sung 1998 và 2001. Áp dụng điểm b.3 tiểu mục
2.3 mục 2 phần II của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Áp dụng khoản 2 Điều 26 và khoản 3
Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn B, bà Nguyễn
Thị L.
Công nhận hiệu lực của giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất được
xác lập giữa vợ chồng ông Trần Văn B, bà Nguyễn Thị L và vợ chồng Phạm Đình
H, bà Nguyễn Thị L đối với diện tích đất 1.263,6m
2
thuộc một phần thửa đất số
35 cũ (hiện là thửa đất số 365 mới), tờ bản đồ số 12, giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số R 939678 được Uỷ ban nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai cấp
cho hộ ông Phạm Đình H vào ngày 30/11/2000 (Hiện đã được điều chỉnh thành
ông Phạm Đình H, bà Nguyễn Thị L).
Buộc ông Phạm Đình H, bà Nguyễn Thị L tiếp tục có nghĩa vụ liên đới thực
hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Trần Văn B, bà Nguyễn
Thị L, đối với diện tích đất đã chuyển nhượng có tứ cận: Phía Đông giáp đường
dài 13,15 mét + 2,53 mét + 2,47 mét; Phía Tây giáp đường Đông Trường Sơn dài
19,31 mét; Phía Nam giáp đường nội thôn dài 27,71 mét + 5,09 mét + 3,84 mét
+ 6,98 mét + 6,47 mét + 3,91 mét + 8,90 mét và phía Bắc giáp phần đất còn lại
của thửa đất 35 cũ dài 25,12 mét + 16,78 mét + 20,53 mét.
Tài sản trên đất: 02 (Hai) cây điều từ 22 năm trở đi; 03 (Ba) cây điều kinh
doanh từ 4 đến 18 năm; 33 (Ba mươi ba) mét hàng rào, móng gạch, xây tường
gạch dày 20cm không tô trát cao trung bình 01 mét; 33 (Ba mươi ba) mét hàng
rào, móng gạch, xây tường gạch dày 10cm không tô trát cao trung bình 1,1 mét.
(Theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 24/4/2023).
Ông Trần Văn B, bà Nguyễn Thị L có quyền liên hệ với các cơ quan có
thẩm quyền để đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích
đất 1.263,6m
2
(có đặc điểm nêu trên) đã nhận chuyển nhượng từ ông Phạm Đình
H, bà Nguyễn Thị L.
Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn ông Phạm Đình H, bà Nguyễn Thị L
đề nghị tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông ông Trần Văn B, bà
Nguyễn Thị L và ông Phạm Đình H, bà Nguyễn Thị L vô hiệu.
5
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí, chi phí tố tụng
khác và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật
* Kháng cáo: Ngày 02/8/2024, ông Phạm Đình H và bà Nguyễn Thị L
kháng cáo toàn bộ nội dung Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày
25/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Đề nghị Tòa án
cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
* Diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện bị đơn cung cấp tài liệu mới, thể hiện: ngày 26/7/2024 ông H, bà L
đã thế chấp toàn bộ quyền sử dụng diện tích 45.367m
2
tại các thửa số 35 (thửa
mới 364, 365), 06 (thửa mới 94), 62 (thửa mới 89), 66 (thửa mới 90), 67 (thửa
mới 88); tờ bản đồ số 12, 28, 22, trong đó có phần diện tích đang tranh chấp
1.263,6m
2
tại thửa số 365, địa chỉ: thôn A, xã U, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 939678 do Ủy ban nhân dân huyện
Krông Pa cấp ngày 30/11/2000 cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và
Phát triển Việt Nam, chi nhánh Phố núi, phòng giao dịch Ayunpa để bảo đảm
nghĩa vụ vay tiền cho người khác. Đến ngày 26/7/2024 (Tòa án huyện Krông Pa
xử ngày 25/7/2024) thì giữa Ngân hàng với bị đơn ký hợp thế chấp số
01/2024/24062392/HĐBĐ đối với toàn bộ diện tích đất trên.
Nguyên đơn giữ nguyên nội dung khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận kháng cáo của bị đơn và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, hoặc nếu xác định có hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa bị đơn với nguyên đơn thì đề nghị tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng vô hiệu; nếu xác định có vi phạm thủ tục tố tụng thì đề nghị hủy bản án
sơ thẩm.
* Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, hủy bản án sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 25/7/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Kháng cáo của bị đơn đảm bảo đúng thủ tục, nội dung và nộp trong thời
hạn theo quy định của pháp luật nên được giải quyết, xét xử theo trình tự phúc
thẩm.
[2]. Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện: năm 2002 nguyên đơn ông
Trần Văn B, bà Nguyễn Thị L nhận chuyển nhượng của bị đơn ông Phạm Đình
H, bà Nguyễn Thị L một phần diện tích đất tại thửa số 35, tờ bản đồ số 12, (diện
tích thực tế là 1.263,6m
2
thuộc thửa số 365) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số R 939678 do Ủy ban nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai cấp ngày
05/12/2000, địa chỉ: thôn A, xã U, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Sau khi nhận
chuyển nhượng nguyên đơn đã thực hiện việc quản lý, xây dựng tường rào, canh
6
tác trồng cây lâu năm. Năm 2011 các cơ quan chức năng của huyện Krông Pa tiến
hành đo đạc, xác định ranh giới, mốc giới và thu hồi một phần diện tích đất và vật
kiến trúc trên đất, đồng thời đền bù bằng tiền một phần diện tích đất bị thu hồi
cho bị đơn để thực hiện dự án làm đường Trường Sơn Đông. Sau khi bị thu hồi
một phần diện tích, nguyên đơn tiếp tục xây dựng hàng rào bao quanh thửa đất,
đổ đất tôn tạo nền, trồng cây lâu năm và trực tiếp quản lý, sử dụng cho đến nay.
Do vậy, việc nguyên đơn cho rằng họ sử dụng diện tích đất trên là do nhận chuyển
nhượng của bị đơn từ năm 2002 là có cơ sở.
[3]. Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm, bị đơn cung
cấp tài liệu, chứng cứ mới thể hiện: sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26/7/2024 bị đơn
đã thế chấp thửa đất số 35 (hiện nay là thửa số 365), tờ bản đồ số 12 cùng với một
số thửa đất khác tại thôn A, xã U, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai cho Ngân hàng
Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chi nhánh Phố Núi, phòng
giao dịch Ayunpa để bảo đảm nghĩa vụ vay tiền cho người khác. Đây là tình tiết
mới phát sinh tại cấp phúc thẩm, nếu xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn thì không thể thi hành án được (do đất bị đơn đã thế chấp tại Ngân
hàng) nên phải đưa Ngân hàng vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan, đồng thời phải xem xét việc nhận thế chấp thửa đất số 365
có phải là ngay tình hay không mới giải quyết được triệt để vụ án, đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp cho các bên. Tại phiên tòa phúc thẩm Hội đồng xét xử không
thể khắc phục được, do vậy cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm và giao hồ sơ về
cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung. Trường hợp này là do
yếu tố khách quan, Tòa án cấp sơ thẩm không thể biết được khi ra bản án nên
không có lỗi.
[4]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bản án sơ thẩm bị hủy nên người kháng
cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308 và Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự.
1. Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 25 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án
nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai giải quyết lại theo thủ tục chung.
2. Án phí dân sự phúc thẩm: Hoàn trả cho ông Phạm Đình H và bà Nguyễn
Thị L 300.000 đồng tiền tạm ưng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai thu số
0004303 ngày 08 tháng 8 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông
Pa, tỉnh Gia Lai.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Gia Lai; THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND huyện Krông Pa;
- Chi cục THADS huyện Krông Pa;
- Các đương sự;
- Lưu HSVA, TDS, VT. (Đã ký)
7
Đặng Chí Công
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Các Thẩm phán
Cao Thị Thanh Huyền Đinh Thị Như Phượng
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Đặng Chí Công
Tải về
Bản án số 109/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 109/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm