Bản án số 09/2025/DS-PT ngày 16/01/2025 của TAND tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 09/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 09/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 09/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 09/2025/DS-PT ngày 16/01/2025 của TAND tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lạng Sơn |
Số hiệu: | 09/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Hoàng Thị S khởi kiện ông Hoàng Văn K tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, yêu cầu chấm dứt hành vi tranh chấp |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 09/2025/DS-PT
Ngày 16-01-2025
V/v Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử đất, yêu cầu chấm dứt
hành vi tranh chấp
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lộc Sơn Thái;
Các Thẩm phán: Ông Phạm Văn Tuệ;
Ông Cao Đức Chiến.
- Thư ký phiên tòa: Bà Lương Thị Phương Chi, Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn tham gia phiên toà:
Bà Hoàng Thị Loan, Kiểm sát viên.
Ngày 16/01/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc
thẩm công khai vụ án thụ lý số 53/2024/TLPT-DS, ngày 13/11/2024 về việc Tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử đất, yêu cầu chấm dứt hành vi tranh chấp.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2024/DS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2025/QĐ-PT ngày 03 tháng 01
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị S, sinh năm 1955. Nơi cư trú: Thôn B, xã
Hoàng V, huyện Văn L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Hoàng Văn B, sinh
năm 1958. Nơi thường trú: Thôn Dọc C, xã Cổ L, huyện Phú L, tỉnh Thái
Nguyên. Chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã Hoàng V, huyện Văn L, tỉnh Lạng Sơn. Có
mặt.
- Bị đơn: Ông Hoàng Văn K, sinh năm 1955. Nơi cư trú: Thôn B, xã
Hoàng V, huyện Văn L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Hoàng Văn B, sinh năm 1958. Nơi thường trú: Thôn Dọc C, xã Cổ
L, huyện Phú L, tỉnh Thái Nguyên. Chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã Hoàng V, huyện
Văn L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

2
2. Chị Hoàng Thị B, sinh năm 1991. Nơi cư trú: Thôn B, xã Hoàng V,
huyện Văn L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
3. Bà Hoàng Thị V, sinh năm 1954. Nơi cư trú địa chỉ: Thôn Phù H, xã
Trấn N, huyện Văn Q, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
4. Bà Nông Thị Í, sinh năm 1956. Nơi cư trú: Thôn B, xã Hoàng V, huyện
Văn L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
5. Chị Hoàng Thị K, sinh năm 1980. Nơi cư trú: Thôn Pác B, xã Hồng T,
huyện Văn L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
6. Chị Hoàng Thị T, sinh năm 1982. Nơi cư trú: Thôn Bản T, xã Tân T,
huyện Văn L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
7. Anh Hoàng Ký K, sinh năm 1988. Nơi thường trú: Thôn B, xã Hoàng
V, huyện Văn L, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ở hiện nay: Xã Tân T, huyện Văn L, tỉnh
Lạng Sơn. Có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn:
1. Ông Đinh Công T - Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Đinh Công T -
Đoàn luật sư tỉnh Lạng Sơn; địa chỉ: Thôn Cốc B, xã Hùng V, huyện Tràng Đ,
tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
2. Bà Lê Thị L - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp
pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn; địa chỉ: Đường Bà T, phường Đông K, thành
phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn:
1. Bà Lương Thị Kim M - Luật sư thuộc Văn phòng luật sư Kim M –
Đoàn luật sư tỉnh Lạng Sơn; địa chỉ: Số 11, đường Cao T, phường Hoàng Văn T,
thành phố Lạng S. Có mặt.
2. Ông Mai Xuân T - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp
lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn; địa chỉ: Đường Bà T, phường Đông K, thành phố
Lạng S, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
Người kháng cáo: Ông Hoàng Văn B là người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn bà Hoàng Thị S.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và Bản án dân sự sơ thẩm, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyên đơn bà Hoàng Thị S và người đại diện theo uỷ quyền của nguyên
đơn ông Hoàng Văn B trình bày: Bà Thị S kết hôn với ông Hoàng Văn K1 từ
năm 1976, sau khi kết hôn bà Hoàng Thị S về sống cùng gia đình chồng tại Thôn
B, xã Hoàng V, huyện Văn L, tỉnh Lạng Sơn. Năm 1994 ông Hoàng Văn K1
chết; bà Hoàng Thị S ở cùng bố chồng là ông Hoàng Văn S. Năm 1995 khi thực
hiện kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất của
gia đình thì ông Hoàng Văn S cho bà Hoàng Thị S là người đứng tên, thực hiện

3
thủ tục kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các diện
tích đất của gia đình, trong đó có diện tích đất ruộng tại địa danh Hát Đ.
Đến năm 2015 thì ông Hoàng Văn S chết, bà Hoàng Thị S vẫn quản lý, sử
dụng canh tác diện tích đất từ đó. Đến khoảng năm 2010 thì có ông Hoàng Văn
K là họ hàng với gia đình, đến xin bà Hoàng Thị S canh tác nhờ một năm. Đến
năm 2021, khi tiến hành kiểm đếm để đền bù dự án thủy điện Bản N, thì ông
Hoàng Văn K mới đến nói ruộng ở khu vực Hát Đ là của ông Hoàng Văn K đã
mua với bà Hoàng Thị S, nên mới xảy ra tranh chấp.
Bà Hoàng Thị S yêu cầu hủy các giấy bán ruộng lập ngày 10/4/1993 được
lập giữa bà Hoàng Thị S và ông Hoàng Văn K; giấy bán ruộng lập ngày
24/6/2011 giữa bà Hoàng Thị S và ông Hoàng Văn K; giấy mua ruộng lập không
ngày tháng giữa ông Hoàng Văn S và ông Hoàng Văn K; giấy mua bán ruộng lập
không ngày tháng giữa bà Hoàng Thị S và ông Hoàng Văn K; yêu cầu gia đình
ông Hoàng Văn K chấm dứt mọi hành vi tranh chấp. Bà khẳng định chữ ký ghi
“S” trong các giấy bán ruộng do ông Hoàng Văn K đang giữ không phải là chữ
ký của bà.
Nguyên đơn rút yêu cầu được quản lý, sử dụng các thửa đất tranh chấp và
yêu cầu được trả tiền đền bù đối với các thửa đất tranh chấp số tiền là
540.000.000 (năm trăm bốn mươi triệu) đồng.
Bị đơn ông Hoàng Văn K trình bày: Ông đã mua khu ruộng Hát Đ với bà
Hoàng Thị S với giá là 5.000.000 (năm triệu) đồng, từ năm 1993. Sau khi mua
bán ruộng ông Hoàng Văn K đã trực tiếp canh tác quản lý, sử dụng, đến năm
2011 để tạo điều kiện cho ông Hoàng Văn K được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, bà Hoàng Thị S đã thống nhất với ông Hoàng Văn K viết lại giấy mua
bán ruộng cho ông Hoàng Văn K qua Ủy ban nhân dân xã xác nhận. Năm 2015
ông Hoàng Văn K đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
với toàn bộ khu đất ruộng Hát Đ, khi ông Hoàng Văn K được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất bà Hoàng Thị S không có ý kiến gì. Khi Nhà nước thu
hồi đất để làm đập thủy điện được bồi thường, thì xảy ra tranh chấp. Nay ông
Hoàng Văn K đề nghị Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện đối giấy mua bán
ruộng giữa ông Hoàng Văn K và bà Hoàng Thị S theo quy định của pháp luật.
Ông đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thời hiệu, ông xin rút lại toàn bộ yêu cầu
phản tố.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phía nguyên đơn và là người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Hoàng Văn B trình bày: Ông là con trai
của ông Hoàng Văn S; bà Hoàng Thị S là chị dâu của ông. Ông sinh ra và lớn lên
tại Thôn B, xã Hoàng V, huyện Văn L, tỉnh Lạng Sơn, ông được biết gia đình
ông có một khu ruộng tại địa danh Hát Đ, thôn Bản Ỏ. Ông có biết việc bố ông
giao đất cho bà Hoàng Thị S đứng tên và quản lý phần diện tích đất của gia đình;
việc này ông không có ý kiến gì.
Đến khoảng năm 2021 ông có được bà Hoàng Thị S thông tin về việc khi
tiến hành kiểm đếm đền bù dự án thủy điện Bản N, thì có ông Hoàng Văn K đến
tranh chấp; khi hòa giải ở xã thì ông Hoàng Văn K có đưa ra một số giấy bán
4
ruộng và nói là đã mua diện tích đất ruộng tại Hát Đ với gia đình ông từ lâu, ông
khẳng định không có việc gia đình ông bán diện tích đất ruộng cho gia đình ông
Hoàng Văn K. Ông nhất trí với các yêu cầu của nguyên đơn bà Hoàng Thị S.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phía nguyên đơn chị Hoàng Thị B
trình bày: Chị là con gái của bà Hoàng Thị S, chị yêu cầu giải quyết theo như
yêu cầu của mẹ là bà Hoàng Thị S.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phía nguyên đơn bà Hoàng Thị V
trình bày: Ông Hoàng Văn S là bố đẻ có chia đất cho bà và ông Hoàng Văn K1
(chồng bà Hoàng Thị S), ở địa danh Hát Đ, thôn B, xã Hoàng V, bà có canh tác
vài năm. Sau đó đường xa bà không làm nữa, bà có giao lại cho bà Hoàng Thị S
không có giấy tờ gì. Ông Hoàng Văn B được chia phần ở địa danh Đông Hấu,
ông Hoàng Văn B đã bán phần được chia. Sau đó bà Hoàng Thị S đã cho ông
Hoàng Văn K canh tác từ lâu, năm nào bà không rõ, bà Hoàng Thị S đã bán cho
ông Hoàng Văn K hay không, thì bà không biết. Bà không có yêu cầu và đề nghị
gì.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phía bị đơn chị Hoàng Thị
T, chị Hoàng Thị K, anh Hoàng Ký K, bà Nông Thị Í đều khẳng định là gia đình
đã mua ruộng Hát Đ với bà Hoàng Thị S từ năm 1993 và đã thực hiện xong có
hiệu lực pháp luật, người mua đã trả tiền, người bán đã nhận đủ tiền và giao đất
cho gia đình quản lý, sử dụng đến nay trên 30 năm, gia đình đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Đề nghị Tòa án áp dụng thời hiệu theo quy định
của pháp luật.
Tại biên bản lấy lời khai ông Hoàng Văn S2, ông Đàm Văn Đ, ông Bế Đức
Minh, đều khẳng định bà Hoàng Thị S đã bán khu ruộng Hát Đ cho ông Hoàng
Văn K và những người làm chứng ông Hoàng Văn S2, ông Đàm Văn Đ, bà
Lương Thị L, bà Triệu Thị M đều khẳng định thấy ông Hoàng K canh tác khu
ruộng Hát Đ từ lâu.
Tại bản kết luận giám định số: 445/KL-KTHS, ngày 02/4/2024 của Phòng
kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chữ ký dạng chữ viết “S” và
chữ viết họ tên mang tên “Hoàng Thị S” trên các tài liệu cần giám định ký hiệu
A2, A3 so với chữ ký, chữ viết mang tên Hoàng Thị S trên các tài liệu mẫu so
sánh ký hiệu M1, M3, M5, M6, M8, M9, M10, M11, M12 do cùng một người
ký, viết ra.
Tại Bản án số 04/2024/DS-ST ngày 18/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện
Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn quyết định:
1. Đình chỉ giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử đất
của nguyên đơn bà Hoàng Thị S yêu cầu hủy các giấy bán ruộng lập ngày
10/4/1993 được lập giữa bà Hoàng Thị S và ông Hoàng Văn K; giấy bán ruộng
lập ngày 24/6/2011 giữa bà Hoàng Thị S và ông Hoàng Văn K; giấy mua ruộng
lập không có ngày tháng giữa ông Hoàng Văn S và ông Hoàng Văn K; giấy mua
bán ruộng lập không có ngày tháng giữa bà Hoàng Thị S và ông Hoàng Văn K.
2. Không chấp nhận yêu cầu của bà Hoàng Thị S yêu cầu gia đình ông
Hoàng Văn K chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với quyền sử dụng đất.
5
3. Đình chỉ giải quyết yêu cầu của bà Hoàng Thị S yêu cầu được quản lý,
sử dụng các thửa đất tranh chấp và yêu cầu được trả tiền đền bù đối với các thửa
đất tranh chấp số tiền là 540.000.000 (năm trăm bốn mươi triệu) đồng.
4. Đình chỉ giải quyết toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn ông Hoàng Văn
K.
Đương sự không có quyền khởi kiện lại vụ án, nếu việc khởi kiện không
có gì khác với vụ án đã bị đình chỉ về người khởi kiện, người bị kiện và quan hệ
pháp luật có tranh chấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c
khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và trường hợp khác theo
quy định của pháp luật.
5. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn bà Hoàng Thị S phải chịu toàn bộ số
tiền chi phí giám định chữ ký, chữ viết là 6.060.000 (sáu triệu không trăm sáu
mươi nghìn) đồng. Xác nhận bà Hoàng Thị S đã nộp đủ số tiền nêu trên.
Ngoài ra Quyết định còn tuyên án phí, quyền khởi kiện lại và quyền kháng
cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm ông Hoàng Văn B là người đại diện theo ủy quyền
của nguyên đơn bà Hoàng Thị S kháng cáo Bản án sơ thẩm. Đề nghị cấp phúc
thẩm giải quyết: Yêu cầu không áp dụng thời hiệu, yêu cầu hủy các giấy mua bán
ruộng giữa bà Hoàng Thị S và ông Hoàng Văn K; Buộc ông Hoàng Văn K chấm
dứt hành vi cản trở đối với quyền sử dụng đất.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Ông Hoàng Văn B là người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn bà Hoàng Thị S vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn đề nghị HĐXX
chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.
Bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn đề nghị
HĐXX không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của nguyên đơn, đề nghị
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn: Về việc tuân
theo pháp luật tố tụng của người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm và tại phiên tòa phúc
thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa chấp hành đúng quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự; người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa đã được
thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự; tuy có đương sự vắng mặt nhưng đã có lời khai tại cấp sơ thẩm, có
người có ủy quyền, có người có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên việc xét xử vụ
án vắng mặt một số người tham gia tố tụng là phù hợp với quy định tại khoản 2
Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX sửa Bản án sơ thẩm của TAND huyện Văn
Lãng, tỉnh Lạng Sơn do bản án có thiếu xót, vi phạm như: Việc áp dụng thiếu
điều luật của Bộ luật dân sự năm 1995, 2005; Bản án sơ thẩm tuyên không rõ
ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án, tuyên vượt quá phạm vi thụ lý ban
đầu, tuyên quyền khởi kiện lại chưa rõ ràng...
6
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:[
[1] Đây là phiên tòa đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất. Tại
phiên tòa vắng mặt một số người tham gia tố tụng tuy nhiên tại cấp sơ thẩm đã
có lời khai và có đơn xin xét xử vắng mặt. Việc vắng mặt của những người này
không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố
tụng dân sự; Kiểm sát viên và các đương sự có mặt đề nghị Hội đồng xét xử tiếp
tục phiên tòa.
[2] Hội đồng xét xử (HĐXX) thấy: Đối với yêu cầu kháng cáo không áp
dụng thời hiệu, yêu cầu hủy các giấy mua bán ruộng giữa bà Hoàng Thị S và ông
Hoàng Văn K: Đối với các giấy mua bán ruộng là ký tên Hoàng Thị S bán ruộng
Hát Đ cho ông Hoàng Văn K từ năm 1993, khi giao dịch các bên có đủ năng lực
pháp luật và năng hành vi dân sự và gia đình ông Hoàng Văn K cũng đã canh tác
quản lý, sử dụng từ lâu. Ngày 24/6/2011 giữa bà Hoàng Thị S và ông Hoàng Văn
K tiếp tục viết giấy bán ruộng cho ông Hoàng Văn K, có xác nhận của chính
quyền phương và năm 2015 ông Hoàng Văn K đã được Nhà nước cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và có quá trình quản lý, sử dụng. Căn cứ kết luận
giám định số: 445/KL-KTHS, ngày 02/4/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công
an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chữ ký dạng chữ viết “S” và chữ viết họ tên mang tên
“Hoàng Thị S” trên các tài liệu cần giám định ký hiệu A2, A3 so với chữ ký, chữ
viết mang tên Hoàng Thị S trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1, M3, M5,
M6, M8, M9, M10, M11, M12 do cùng một người ký, viết ra. Về quá trình sử
dụng đất tranh chấp những người làm chứng đều khẳng định là gia đình ông
Hoàng Văn K quản lý, sử dụng từ lâu. Hơn nữa phía nguyên đơn bà Hoàng Thị S
cũng khẳng định là ông Hoàng Văn K canh tác, là cho mượn đất. Như vậy
nguyên đơn bà Hoàng Thị S không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh về quá
trình quản lý, sử dụng đất đã chuyển nhượng.
[3] Về yêu cầu hủy các giấy mua bán đất của bà Hoàng Thị S yêu cầu hủy
các giấy bán ruộng lập ngày 10/4/1993 được lập giữa bà Hoàng Thị S và ông
Hoàng Văn K; giấy bán ruộng lập ngày 24/6/2011 giữa bà Hoàng Thị S và ông
Hoàng Văn K; giấy mua ruộng lập không ngày tháng giữa ông Hoàng Văn S và
ông Hoàng Văn K; giấy mua bán ruộng lập không ngày tháng giữa bà Hoàng Thị
S và ông Hoàng Văn K, các giấy mua bán ruộng đều có người làm chứng và năm
2011 ông Hoàng Văn K không làm được thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, bà Hoàng Thị S và ông Hoàng Văn K viết giấy mua bán ruộng có xác
nhận của chính quyền phương, nên ông Hoàng Văn K đã được Nhà nước cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông Hoàng Văn K là người quản lý, sử dụng
ổn định từ năm 1993 đến năm 2020, thì có dự án thu hồi đất làm đập thủy điện
Bản N, thì bà Hoàng Thị S, ông Hoàng Văn K mới xảy ra tranh chấp. Xét thấy
thời hiệu khởi kiện đã hết theo quy định của Bộ luật dân sự. Xét thấy thời hiệu
khởi kiện đã hết nhưng cấp sơ thẩm quyết định tại các mục của phần quyết định:
“2. Không chấp nhận yêu cầu của bà Hoàng Thị S yêu cầu gia đình ông
Hoàng Văn K chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với quyền sử dụng đất.

7
3. Đình chỉ giải quyết yêu cầu của bà Hoàng Thị S yêu cầu được quản lý,
sử dụng các thửa đất tranh chấp và yêu cầu được trả tiền đền bù đối với các
thửa đất tranh chấp số tiền là 540.000.000 (năm trăm bốn mươi triệu) đồng.
4. Đình chỉ giải quyết toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn ông Hoàng Văn
K.”
[4] Việc cấp sơ thẩm tuyên án như vậy là không đúng do quyền sử dụng
đất đối với các thửa đất tranh chấp đã được Nhà Nước đền bù GPMB theo dự án
Thủy điện Bản N. Tại phiên tòa các đương sự cũng đều thừa nhận các thửa đất
tranh chấp đã được Nhà Nước đền bù GPMB theo dự án Thủy điện Bản N hiện
nay không còn. Xét thấy yêu cầu của nguyên đơn đã hết thời hiện và đình chỉ
giải quyết do đó cấp sơ thẩm tuyên tại mục 2, 3, 4 như vậy là gây khó khăn cho
công tác thi hành án, tuyên án không rõ ràng, khó thi hành do đối tượng không
còn.
[5] Từ phân tích nêu trên Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy, không chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, nhưng sửa Bản án dân sự số
04/2024/DS-ST ngày 18/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh
Lạng Sơn.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa bản án nên nguyên đơn không
phải chịu án phí phúc thẩm và đã thuộc trường hợp được miễn án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 29
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án, xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Hoàng Văn B là người đại diện theo
ủy quyền của nguyên đơn bà Hoàng Thị S.
2. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2024/DS-ST ngày 18/9/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, cụ thể:
Đình chỉ giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử đất của
nguyên đơn bà Hoàng Thị S yêu cầu hủy các giấy bán ruộng lập ngày 10/4/1993
được lập giữa bà Hoàng Thị S và ông Hoàng Văn K; giấy bán ruộng lập ngày
24/6/2011 giữa bà Hoàng Thị S và ông Hoàng Văn K; giấy mua ruộng lập không
có ngày tháng giữa ông Hoàng Văn S và ông Hoàng Văn K; giấy mua bán ruộng
lập không có ngày tháng giữa bà Hoàng Thị S và ông Hoàng Văn K do hết thời
hiệu khởi kiện.
Đương sự không có quyền khởi kiện lại vụ án, nếu việc khởi kiện không
có gì khác với vụ án đã bị đình chỉ về người khởi kiện, người bị kiện và quan hệ
pháp luật có tranh chấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c
8
khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và trường hợp khác theo
quy định của pháp luật.
3. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn bà Hoàng Thị S phải chịu toàn bộ số
tiền chi phí giám định chữ ký, chữ viết là 6.060.000 (sáu triệu không trăm sáu
mươi nghìn) đồng. Xác nhận bà Hoàng Thị S đã nộp đủ số tiền nêu trên.
4. Về án phí phúc thẩm: Bà Hoàng Thị S được miễn không phải nộp án phí
dân sự phúc thẩm.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Lạng Sơn;
- Tổ HCTP; Phòng KTNV&THA;
- TAND TP huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn;
- CCTHADS h.V, tỉnh Lạng Sơn;
- Các đương sự;
- Tòa Dân sự.
- Lưu: Hồ sơ vụ án;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Lộc Sơn Thái
9
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 21/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm