Bản án số 07/2025/DS-ST ngày 25/03/2025 của TAND Q. Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 07/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 07/2025/DS-ST ngày 25/03/2025 của TAND Q. Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Hoàn Kiếm (TAND TP. Hà Nội)
Số hiệu: 07/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: bản án tuyên liên
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Bản án số: 07/2025/DS-ST
Ngày 25 tháng 3 năm 2025
V/v: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CH NGHĨA VIT NAM
Độc lập - Tdo - Hạnh pc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
-------------------------
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Phan Lan Hương
Các Hội thẩm nhân dân: Chu Thị Hà
Ông Lê Hổ Bình
- Thư ký phiên tòa: Bà Đặng Thị Ngọc Ánh Thư ký Toà án
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm tham gia phiên toà:
Nguyễn Huyền Trang - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 3 năm 2025 tại: Trụ sở Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm,
thành ph Nội xét xử công khai vụ án dân sự thẩm thụ số: 167/2024/TLST-
DS ngày 25 tháng 10 năm 2024 về việc: “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” theo Quyết
định đưa ván ra xét xử số: 06/2025/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 02 năm 2025;
Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/2025/QĐST-DS ngày 03 tháng 3 năm 2025 giữa
các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1974; CCCD số
024074000342 do Cục Cảnh sát QLHC về TTXH cấp ngày 16/5/2019; HKTT: CH
số 6, tầng 12, tòa R2 CC RC 72A NT, TĐ, TX, Nội; Đại diện theo y quyền:
Ông Phùng Ngọc T, sinh năm 1962; Nơi ở: Căn hộ 502, KĐT KVKL, ĐK, HM,
Nội. (Giấy ủy quyền ngày 25/10/2024). Ông Thanh có mặt.
* Bị đơn: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1944; CCCD số 034044000508 do
Cục Cảnh sát QLHC về TTXH cấp ngày 28/12/2022; HKTT: số 6 ngõ 75 CĐ,
phường CD, HK, Hà Nội. Ông L có mặt.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ L quan: Văn phòng công chứng NH; Địa
chỉ: Số 165 GV, phường CL, quận DD, Nội; Đại diện theo pháp luật: Nguyễn
Thị H. Vắng mặt.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
*Tại đơn khởi kiện đề ngày 12/10/2024, bản tự khai, lời khai tại Tòa án,
nguyên đơn người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Phùng
Ngọc T trình bày:
Theo Hợp đồng đặt cọc, ông Nguyễn Văn L đã nhận của ông Nguyn Mnh
T 1.300.000.000 đồng (Bằng chữ: Một tỉ, ba trăm triệu đồng) từ ngày 19/9/2024, để
chuyển nhượng cho ông T căn nhà, thửa đất số 04, tờ bản đồ số 29, địa chỉ số 42,
ngõ 12, phBD, phường BD, quận LB, thành ph Nội. Nng do lỗi chủ quan của
ông L, nên nguyên đơn không mua căn nhà, thửa đất như hai bên đã thỏa thuận. Sau
đó, nguyên đơn đã nhiều lần L lạc, gặp ông L để yêu cầu trả lại số tiền đã đặt cọc,
nhưng ông L không trả.
Việc ông L không trả tiền đã gây cho nguyên đơn nhiều thiệt hại, do vậy
nguyên đơn bổ sung đơn khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết buộc ông L phải bồi
thường thiệt hại cho nguyên đơn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy
định đối vi s tin 1.300.000.000 đồng đã nhận.
Đề nghị Toà án buộc ông Nguyễn Văn L phải thanh toán tin lãi suất đối vi
s tin 1.300.000.000 đồng đã nhận của ông T. Cụ thể:
1. V mc lãi sut: Áp dng mc lãi suất bản do Ngân hàng Nhà c Vit
Nam công b (theo Quyết đnh s 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 ca Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước) bằng đồng Việt Nam là 9,0%/năm.
2. Thi gian tính lãi: Tính t ngày 19/9/2024 (ngày ông Nguyễn Văn L nhn
đủ s tiền 1.300.000.000 đồng) đến khi Tòa án xét x thẩm.
Tính t ngày 19/9/2024 đến ngày 15/11/2024 (nộp đơn bổ sung ni dung khi
kin) ông L đã nhận ca nguyên đơn 1.300.000.000 đồng đưc 57 ngày (01 tháng
27 ngày). Như vậy, s tin lãi ông L phi tr là: 18.525.000 đồng (i tám triu,
năm trăm hai lăm nghìn đồng).
Lúc đầu nguyên đơn đặt cọc đmua mảnh đất trên với giá 5.800.000.000 đồng
(năm tỷ tám trăm triệu đồng); đã đặt cọc cho ông L là 1.300.000.000 đồng.
Đề nghị bị đơn trả lại số tiền đặt cọc 1.300.000.000 đồng hoặc nguyên đơn sẽ
mua mảnh đất trên với giá 800.000.000 đồng. Nếu vẫn không thoả thuận được, đề
nghị không tiến hành hoà giải nữa.
Ông L có vợ Lò Thị Ngọc L, sinh ngày 27/10/1974; Con gái: Nguyễn Minh
A, sinh ngày 14/12/1998; Con trai: Nguyễn Minh H, sinh ngày 17/8/2007 (hiện đang
cư trú tại CH số 6, tầng 12, tòa R2 CC RC, 72A N T, TD, TX, Hà Nội), vợ con ông
không L quan đến phần số tiền đã đặt cọc mua nhà đất, đây khoản tiền của
riêng ông T.
* Tại các lời khai tại Tòa án, bị đơn ông Nguyễn Văn L trình bày:
Do gia đình ông không nhu cầu sử dụng nhà đất tại Số nhà 42, ngõ
3
12, phố BD, phường BD, quận LB, thành phố Nội n ngày 19/9/2024, ông đã
hợp đồng nhận tiền đặt cọc của ông Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1974 để chuyển
nhượng cho ông T quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở tại địa chỉ nói trên với
giá chuyển nhượng là 5.800.000.000 đồng. Số tiền đặt cọc ông L đã nhận của anh T
là: 1.300.000.000đồng (một tỷ ba trăm triệu đồng). Thời hạn đặt cọc xtiền
đặt cọc đã quy định rõ tại điều 3. Điểm 3.1 là vào ngày 02/10/2024.
Tuy nhiên đến ngày 02/10/2024, ông Nguyễn Mạnh T không đến để làm thủ
tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
theo hợp đồng đặt cọc.
Ngày 07/10/2024, ông Nguyễn Mạnh T hẹn gặp ông L quán phê, khu vực
cổng bến xe Gia Lâm. Yêu cầu thanh lý hợp đồng đặt cọc và đòi lại số tiền đặt cọc
đã chuyển cho ông L. Tuy nhiên ông L người nhận tiền đặt cọc, vẫn tỏ quan
điểm tiếp tục chuyển nhượng quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất cho ông
Nguyễn Mạnh T. Còn ông T thì yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc đòi lại tiền cọc với
lý do: "đất nằm trong quy hoạch".
Ông xác định, ông là người có tài sản là nhà đất để chuyển nhượng một cách
hợp pháp, không có lỗi trong hợp đồng đặt cọc vì:
Một là: Trước khi lập hợp đồng đặt cọc, ông Nguyễn Mạnh T đã xem xét kỹ
nhà, đất ở. Đã xem xét kỹ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản gốc.
Hai là: Sau khi thỏa thuận gía chuyển nhượng, lập hợp đồng đặt cọc, hai bên
đã đến văn phòng công chng NH, địa chỉ: Số 165, GV, phường CL, quận DD thành
phố Hà Nội chứng thực.
Ba là: Gia đình ông một nơi khác, ngôi ncấp 4 cùng mảnh đất 59,5m2
nói trên chuyển nhượng quận khác. Gia đình ông không biết được mảnh đất này
có nằm trong quy hoạch hay không. Nhưng đđảm bảo cho việc hợp đồng đặt cọc,
hai bên đã đến văn phòng công chứng chứng thực. Văn phòng công chứng đã xem
xét các điều kiện cần thiết được ghi trong điều 5 của hợp đồng đặt cọc và đã chứng
thực hợp đồng đặt cọc.
Một lần nữa ông khẳng định việc hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 04, tờ bản đồ số 29, địa chỉ số
42, ngõ 12, phố BĐ, phường BĐ, quận LB, thành phố Hà Nội và tài sản gắn liền với
đất trong hợp đồng đặt cọc bên nhận tiền đặt cọc không vi phạm, không có lỗi. Bên
vi phạm người đặt cọc, người có nghĩa vL quan văn phòng công chứng NH
địa chỉ: Số 165, GV, phường CL, quận DD thành phố Hà Nội
vậy ông bên nhận tiền đặt cọc sẽ không thanh toán trả tiền cọc đã nêu
tại điều 3 của hợp đồng đặt cọc ngày 19/9/2024 không đồng ý bồi thường mọi tổn
thất do ông Nguyễn Mạnh T yêu cầu.
Toàn bộ nhà đất tại địa chỉ: thửa đất số 04, tờ bản đồ số 29, địa chỉ số 42, ngõ
4
12, phố Bồ Đề, phường Bồ Đề, quận Long Biên, thành phố Nội quy hoạch đất
công cộng đến nay đã được 10 năm nhưng quan nhà nước chưa ban hành quyết
định thu hồi phương án bồi thường, tỉ lệ quy hoạch 1/2000. Do đó, việc mua
bán vẫn diễn ra bình thường. Công trình trên đất tại địa chỉ: số 42 ngõ 12 phố BĐ,
phường BĐ, quận LB, thành phố Nội nhà cấp bốn đang cho thuê. Trước đây
ông có xây dựng nhà cấp bốn trên đất, ông không xin phép vì nghĩ chỉ xây dựng
đơn giản. Nhà lợp mái tôn xây tường gạch trên toàn bộ thửa đất diện tich 93.4m2,
bao gồm 59.5m2 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
gắn liền với đất mà anh T đặt cọc mua. Hiện tại ông đang cho thuê nhưng không
có hợp đồng thuê nhà nên đề nghị không đưa vào tham gia tố tụng.
Ông không đồng ý với đề nghị của đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn,
nếu tiếp tục Hợp đồng mua bán thì ông sẽ cân nhắc bớt cho một phần, còn ông không
đồng ý trả cọc.
Ông không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện, yêu cầu khởi kiện bổ sung
của nguyên đơn. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Người quyền lợi nghĩa vụ L quan - Văn phòng công chứng NH
đơn xin giải quyết vắng mặt trình bày: Việc ký kết “Hợp đồng đặt cọc ngày
19/9/2024 đúng theo quy định của pháp luật. Đnghị Toà án giải quyết yêu cầu
của nguyên đơn theo đúng quy định của pháp luật. Văn phòng công chứng NH đề
nghị được vắng mặt tại các buổi làm việc của Toà án.
* Lò Thị Ngọc L (vợ ông Nguyễn Văn T) đơn trình bày: Khoản tiền
1.300.000.000 đồng là của riêng ông T, bà không L quan đến vụ án, đề nghị không
triệu tập với cách người quyền lợi nghĩa vụ L quan và xin được vắng mặt tại
các buổi làm việc của Toà án và tại phiên toà.
* Chị Lê Thị Thanh P, anh Kiều Văn T cùng vợ là Hoàng Thị O, chị Kiều
Thị H, chị Hoàng Thị T anh Nguyễn Tất T (người thuê nhà của ông L) đơn
trình bày ý kiến về việc đề nghị giải quyết vắng mặt: Đều trình bày không L quan
đến vụ án này, thuê nhà của ông L không có Hợp đồng thuê nhà, đề nghị không đưa
vào tham gia tố tụng.
Tại phiên toà:
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Trước ngày hai n
thỏa thuận Hợp đồng chuyển nhượng căn nhà, thửa đất (ngày 02/10/2024), ông
T đã nhiều lần yêu cầu ông L trả lại số tiền 1.300.000.000 đồng đã đặt cọc do nhà
đất nằm trong quy hoạch, nhưng ông L không trả, gây cho ông T nhiều thiệt hại.
Nguyên đơn không muốn tiếp tục thực hiện việc mua bán nhà đất tại địa chỉ: Số 42
ngõ 12 phố BĐ, phường BĐ, quận LB, thành phố Hà Nội.
1. Căn cứ các Điều 122, 127, 407 của BLDS, gii quyết ni dung thỏa thuận
giữa ông Nguyễn Văn L và ông Nguyễn Mạnh T (ký ngày 19/9/2024) về đặt cọc để
5
chuyển nhượng quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất là: Giao dịch dân sự hiệu
(hợp đồng vô hiệu). Đề nghị T vô hiệu và huỷ Hợp đồng đặt cọc kí ngày 19/9/2024
được ký kết tại Văn phòng công chứng NH; Địa chỉ: Số 165 GV, phường CL, quận
DD, Hà Nội; số công chứng 26459.2024, quyển số: 03TP/CC – SCC/HĐGD.
2. Căn cứ Điều 131 Bộ luật dân sự 2015, vgiải quyết hậu quả của Hợp đồng
vô hiệu buộc ông Nguyễn Văn L:
- Phải trả cho ông Nguyễn Mạnh T số tiền 1.300.000.000 đồng (một tỷ ba
trăm triệu đồng). Đây là số tiền đặt cọc ông L đã nhận của ông T. Không yêu cầu
ông L phải trả số tiền phạt cọc.
- Áp dng mc lãi suất cơ bản do NHNN Vit Nam công b (theo Quyết đnh
s 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010) 9,0%/năm trên s tin n gc
1.300.000.000 đồng, buc ông L phải bồi thường cho ông Nguyễn Mạnh T stiền
lãi chậm trả cho đến khi trả xong số nợ gốc. Tạm tính t ngày 19/9/2024 đến ngày
25/03/2025 (ngày Toà án m phiên toà) 188 ngày : 60.263.014 đồng. Tổng cả
hai khoản là: 1.360.263.014 đồng (Bằng chữ: Một tỉ, ba trăm sáu mươi triệu, hai
trăm sáu mươi ba nghìn, không trăm mười bốn đồng).
Về án phí dân sự thẩm: Đnghị buộc bđơn phải chịu án phí dân sự
thẩm.
Bị đơn ông Nguyễn Văn L trình bày: Ginguyên ý kiến trình bày quá trình
giải quyết tại Toà án, đề nghị Toà án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện, yêu cầu khởi
kiện bổ sung của nguyên đơn và đề nghị huỷ Hợp đồng đặt cọc ký ngày 19/9/2024
được kí kết tại Văn phòng công chứng NH; Địa chỉ: Số 165 GV, phường CL, quận
DD, Hà Nội; số công chứng 26459.2024, quyển số: 03TP/CC – SCC/HĐGD vì ông
T đã đơn phương chấm dứt Hợp đồng mua bán. Xác nhận các đoạn tin nhắn đã trao
đổi với zalo với ông T. Nhà đất tại thửa đất số 04, tờ bản đồ số 29, địa chỉ s42, ngõ
12, phố phố BĐ, phường BĐ, quận LB, thành phốNội, giáp danh nhà văn hoá.
Khi ký kết Hợp đồng đặt cọc văn phòng công chứng có đưa cho ông đọc hôm trước
hôm sau luôn nên ông không đọc các cam kết, các điều khoản. Ông cho rằng
ông T dấu hiệu lừa đảo nhưng không làm đơn ra quan công an vì: Tại sao đồng
ý mua với g5.800.000.000 đồng nhưng lại lấy do đất nằm trong quy hoạch để
trả ông bằng giá đất bị thu hồi. Sau khi thấy ông T thông báo nđất nằm trong quy
hoạch, ông mới biết, ông thấy việc nhà đất nằm trong quy hoạch nhưng chưa
Quyết định thu hồi đất thì nhà đất vẫn giao dịch, mua bán bình thường.
* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm
phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa của người tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị
án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết ván:
6
Về tố tụng, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư phiên tòa đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
về việc tống đạt các văn bản tố tụng, thu thập chứng cứ, đảm bảo đúng các thủ tục
tố tụng khác, việc chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát đầy đủ, đúng quy định, đảm bảo
đúng thời hạn xét xử. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, trong
quá trình Tòa án giải quyết vụ án, nguyên đơn, bị đơn, người quyền lợi nghĩa
vụ L quan chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Mạnh T đối với ông Nguyễn
Văn L về việc “tranh chấp Hợp đồng đặt cọc.
- Buộc ông Nguyễn Văn L phải trả cho ông Nguyễn Mạnh T số tiền đặt cọc
gốc là 1.300.000.000 đồng
- Chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hãi lãi phải trả trên số tiền gốc nêu
trên, lãi suất 09%/năm.
- Kể tngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tin
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của B luật
Dân sự năm 2015.
- Về án phí quyền kháng cáo: Các đương sự phải chịu án phí Dân sự
có quyền kháng cáo theo đúng quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà, căn cứ vào kết quả diễn biến tại phiên toà, sau khi thảo luận và nghị án, Hội
đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền và thủ tục tố tụng:
1.1. Về thẩm quyền quan hệ pháp luật: Ngày 12/10/2024, ông Nguyễn
Mạnh T có đơn khởi kiện bị đơn: Ông Nguyễn Văn L, nơi đăng ký hộ khẩu thường
trú: S6 n75 CĐ, phường CD, HK, Hà Nội, yêu cầu Toà án giải quyết các tranh
chấp phát sinh từ Hợp đồng đặt cọc ký ngày 19/9/2024, để mua bất động sản tại:
thửa đất số 04, tờ bản đồ số 29, địa chỉ số 42, ngõ 12, phố BĐ, phường BĐ, quận
LB, thành phố Hà Nội. Do đó, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm thụ lý giải quyết
vụ án với quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng đặt cọcđúng thẩm quyền
theo quy định tại Điều 26; đim a khon 1 Điu 35; đim a khon 1 Điu 39 B luật t
tng Dân s năm 2015 (BLTTDS 2015). Vụ án trong thi hiu khởi kiện theo Điều 429
của Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS 2015).
7
1.2. Về việc vắng mặt đương sự tại phiên tòa: Xét thấy, Người quyền lợi,
nghĩa vụ L quan: Văn phòng công chứng NH có đơn xin giải quyết vắng mạt, do đó
Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt Văn phòng công chứng NH căn cứ
đúng quy định tại khoản 1 Điều 228 BLTTDS 2015.
1.3. Về các chứng cứ tài liệu trong vụ án:
Quá trình giải quyết ván, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm đã thu thập xác
minh các tài liệu chứng cứ, tiến hành các Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hoà giải đúng quy định của pháp luật.
Về việc bổ sung người tham gia tố tụng:
Ông T và vợ là bà Lò Thị Ngọc L lời khai trình bày khoản tiền
1.300.000.000 đồng là của riêng ông T, vợ con ông T không L quan, đề nghị không
triệu tập vào tham gia tố tụng với cách người có quyền lợi nghĩa vụ L quan và xin
được vắng mặt tại các buổi làm việc của Toà án và tại phiên toà.
Quá trình sdụng, ông L đã xây dựng thành các phòng nhỏ, mái lợp tôn. Hiện
tại ông đang cho thuê nhưng không hợp đồng thuê nhà nên đề nghị không đưa
những người thuê nhà vào tham gia tố tụng. Quá trình xem xét thẩm định tại chỗ tại
số 42 ngõ 12 phố BĐ, phường BĐ, quận LB, thành phố Nội, Tòa án đã ghi ý kiến
của những người thuê nhà về việc chỉ thuê tạm thời, không quyền lợi, nghĩa vụ L
quan đến Hợp đồng đặt cọc nêu trên, đề nghị không đưa vào tham gia tố tụng trong
vụ án.
Đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn, bị đơn đồng ý với thành phần những
người tham gia tố tụng đã được Tòa án triệu tập, không yêu cầu Tòa án phải triệu
tập thêm người tham gia tố tụng.
Như vậy, Toà án không triệu tập bà Lò Thị Ngọc L, chị Lê Thị Thanh P, anh
Kiều Văn T cùng vợ là Hoàng Thị O, chị Kiều ThH, chị Hoàng Thị T anh Nguyễn
Tất T với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ L quan là đúng theo quy định của
pháp luật.
[2]. Về nội dung vụ án:
[2.1]. Các chứng cứ, các bên đã thống nhất không cần phải chứng minh:
Nguyên đơn, bị đơn đều xác nhận có ký “Hợp đồng đặt cọc” ngày 19/9/2024,
được ký kết tại Văn phòng công chứng NH; Địa chỉ: Số 165 GV, phường CL, quận
DD, Nội; số công chứng 26459.2024, quyển số: 03TP/CC SCC/HĐGD. Việc
ký kết “Hợp đồng đặt cọc ký ngày 19/9/2024” giữa các bên là để đảm bảo việc giao
kết thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (thửa đất số 04, tờ bản
đồ số 29, địa chỉ số 42, ngõ 12, phố BĐ, phường BĐ, quận LB, thành phố Nội,
Tnh phố Hà Nội) của nguyên đơn và bị đơn là hoàn toàn tự nguyện.
Bị đơn: Ông L xác nhận đã nhận đủ số tiền cọc là 1.300.000.000 đồng.
2.2. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
8
2.2.1. Xét yêu cầu T hiệu T huỷ Hợp đồng đặt cọc ký ngày 19/9/2024
và buộc bị đơn phải trả số tiền đặt cọc là 1.300.000.000 đồng:
Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn
liền với đất số BĐ: 475734, svào sổ cấp giấy chứng nhận 526, tại thửa đất số: 300,
tờ bản đồ số 11, địa chỉ: Số 42 ngõ 12 phố BĐ, phường BĐ, quận LB, thành phố Hà
Nội, do UBND quận Long Biên cấp ngày 28/11/2011, đứng tên ông Nguyễn Văn L
và bà Nguyễn Thị N. Ông Nguyễn Văn L nhận chuyển sử dụng đất theo Bản án số:
358/2024/DS PT 30/5/2024 về việc Tranh chấp chia thừa kế” của Toà án nhân
dân Thành phố Hà Nội. Như vậy, ông L chủ sở hữu duy nhất của nhà đất nêu trên.
Trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng không có nội dung nào ghi nhà đất
nói trên nằm trong quy hoạch.
Xét “Hợp đồng đặt cọcký ngày 19/9/2024:
- Về hình thức: Hợp đồng được lập thành văn bản được ký kết tại Văn
phòng công chứng, các bên ký kết là hoàn toàn tự nguyện, đúng quy định pháp luật
về Hợp đồng có công chứng.
- Về nội dung: Bên nhận đặt cọc ông Nguyễn Văn L đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, đất không bị tranh chấp, không bị kê biên để thi hành án…
nên ông L có đủ điều kiện để thực hiện quyền của người sử dụng đất theo quy định
Pháp luật đất đai. Tại Điều 5 Hợp đồng đặt cọc c bên cam kết như sau: “Bên A
cam đoan căn nhà quyền sử dụng đất nêu trên thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng
hợp pháp ca Bên A; Không có tranh chấp, khiếu kiện; Không thuộc quy hoạch của
Nhà nước”.
Quá trình làm việc tại Tòa án, ông L lời khai xác định Toàn bộ nhà đất
tại địa chỉ: thửa đất số 04, tờ bản đồ số 29, địa chỉ số 42, ngõ 12, phố BĐ, phường
BĐ, quận LB, thành phố Hà Nội quy hoạch đất công cộng đến nay đã được 10 năm
nhưng quan nhà nước chưa ban hành quyết định thu hồi phương án bồi
thường, tỉ lệ quy hoạch là 1/2000”.
Thực tế, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm đã
công văn xác minh tại Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội chi nhánh Long Biên xác
định: “…toàn bộ thửa đất của ông L đã được quy hoạch thành đất có chức năng là
đất công cộng (thuộc ô quy hoạch E.3/CC1, theo đồ án quy hoạch phân khu đô thị
N01, tỷ lệ 1/2000 được UBND thành phố Nội phê duyệt tại quyết định số
6115/QĐ-UBND ngày 21/11/2014)”; Và UBND quận Long Biên xác định: ...Theo
Quyết định số 6115/QĐ-UBND ngày 21/11/2014 của UBND thành phHà Nội về
việc phê duyệt đồ án quy hoạch phân khu N10, tl1/2000, toàn bộ thửa đất
300, tờ bản đồ số 7 năm trong quy hoạch E3/CC1 chức năng công cộng đơn vị
ở (không phù hợp quy hoạch đất ở); - Bản đồ quy hoạch phân khu N10 được niêm
9
yêt công khai tại Trụ sở UBND phường, Nhà văn hóá c Tố dân phố theo quy
định..”.
Như vậy, ông L biết nhà đất của mình nằm trong diện quy hoạch, tuy nhiên
vẫn cam kết như tại Điều 5 của Hợp đồng đặt cọc là hành vi vi phạm hợp đồng. Việc
ông L cam kết nhà đất không nằm trong quy hoạch đã khiến ông T tin giao kết
Hợp đồng đặt cọc để nhận chuyển nhượng nhà đất. Khi phát hiện việc vi phạm nêu
trên, ông T đã nhiều lần L lạc với ông L để hai bên thỏa thuận về sự việc phát sinh,
tuy nhiên thực tế hai bên không có bất kỳ thỏa thuận nào khác do ông L không hợp
tác. Do đó, căn cứ xác định Hợp đồng đặt cọc ngày 19/9/2024 giữa ông Nguyễn
Mạnh T ông Nguyễn Văn L hiệu do bị lừa dối theo quy định tại Điều 127
BLDS. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu T vô hiệu T huỷ Hợp đồng đặt cọc
ngày 19/9/2024 của nguyên đơn.
Về giải quyết hậu quả pháp của Hợp đồng hiệu: Căn cứ quy định tại
Điều 131 BLDS 2015, các bên hoàn trả lại nhau những đã nhận, bên lỗi phải
bồi thường. Do đó:
Buộc ông Nguyễn Văn L trả số tiền cọc 1.300.000.000 đồng cho ông Nguyễn
Mạnh T.
Đối với yêu cầu bồi thường: Do ông L chậm trễ trong việc thực hiện nghĩa vụ
hoàn trả nên phải chịu lãi trên số tiền hoàn trả đúng quy định của pháp luật:
Nguyên đơn yêu cầu ông L trả lãi chậm trả 09% theo mc lãi suất bản do Ngân
hàng Nhà c Vit Nam công b (theo Quyết định s 2868/QĐ-NHNN ngày
29/11/2010) trên số tiền nợ gốc 1.300.000.000 đồng, tạm tính t ngày 19/9/2024
đến ngày 25/03/2025 (ngày xét x) 188 ngày: 1.300.000.000 đồng x 09%/ 365
ngày x 188 ngày = 60.263.014 đồng (Bằng chữ: Sáu mươi triệu, hai trăm sáu mươi
ba nghìn, không trăm mười bốn đồng), phù hợp với quy định theo Điều 357,
khoản 2 Điều 468 BLDS 2015 nên được chấp nhận.
Tổng số tiền ông L phải trả cho ông T, tạm tính đến ngày 25/3/2025 là:
1.300.000.000 đồng + 60.263.014 đồng = 1.360.263.014 đồng (Bằng chữ: Một tỉ,
ba trăm sáu mươi triệu, hai trăm sáu mươi ba nghìn, không trăm mười bốn đồng).
Ông L còn phải tiếp tục thanh toán cho ông T khoản tiền lãi phát sinh kể từ
26/3/2025 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản ntheo mức lãi suất 10%/năm
theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.
[3]. Xét ý kiến của bị đơn:
Ông L biết nhà đất nằm trong quy hoạch nhưng vẫnkết Hợp đồng đặt cọc,
nhận tiền đặt cọc dẫn đến tranh chấp là lỗi của ông L.
10
Trong quá trình tòa án giải quyết và xét xử nguyên đơn và bị đơn cùng thống
nhất yêu cầu Tòa án hủy “Hợp đồng đặt cọc ký ngày 19/9/2024”, do đó bị đơn đề
nghị T hủy Hợp đồng đặt cọc này là có cơ sở.
[4]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm:
Phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5]. V án ph quyền kháng cáo: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
được chấp nhận nên nguyên đơn: Ông Nguyễn Mạnh T không phải chịu án phí, hoàn
trả cho ông T số tiền tạm ứng án phí đã tạm nộp. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn L, sinh
năm: 1944, là người cao tuổi không phải chịu án p. Các đương scó quyền kháng
cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ: Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; khoản 1 Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 271; Điều 273 - Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015;
- Căn cứ: Điều 117, Điều 119, Điều 122, Điều 127, Điều 131, Điều 328, Điều
357; Điều 429, Điều 468 - Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Điều 2 Luật người cao tuổi 2009;
- Căn cứ điểm đ khoản 1 điều 12; khoản 1 điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 m 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí
Tòa án và Danh mục mức lệ phí, án phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Mạnh
T đối với bị đơn ông Nguyễn Văn L về việc “ Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.
T Hợp đồng đặt cọc được ký kết ngày 19/9/2024 giữa ông Nguyễn Mạnh T
ông Nguyễn Văn L tại: Văn phòng công chng NH; Địa chỉ: Số 165 GV, phường
CL, quận DD, Nội; số công chứng 26459.2024, quyển số: 03TP/CC
SCC/HĐGDvô hiệu và huỷ Hợp đồng đặt cọc nói trên.
Buộc bị đơn ông Nguyễn Văn L có trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Mạnh T
số tiền cọc là 1.300.000.000 đồng (Bằng chữ: Một tỉ ba trăm triệu đồng) và số tiền
lãi chậm trả trên số tiền nợ gốc nói trên với mức lãi suất 09%/năm kể từ ngày
19/9/2024 cho đến khi thanh toán xong toàn b n gc, tm tính t đến ngày
25/03/2025 là: 60.263.014 đồng (Bằng chữ: Sáu mươi triệu, hai trăm sáu mươi ba
nghìn, không trăm mười bốn đồng). Tổng cả hai khoản là: 1.360.263.014 đồng
11
(Bằng chữ: Một tỉ, ba trăm sáu mươi triệu, hai trăm sáu mươi ba nghìn, không trăm
mười bốn đồng).
Ông L còn phải tiếp tục thanh toán cho ông T khoản tiền lãi phát sinh kể từ
26/3/2025 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ theo mức lãi suất 10%/năm
theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.
2. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa
thuận về việc thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự.
Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án
dân sự.
3. Về án ph dân sự sơ thẩm:
Hoàn trả cho nguyên đơn ông Nguyễn Mạnh T số tiền tạm ứng án phí đã nộp
là: 25.500.000 đồng theo biên lai thu tiền số: 0069097 ngày 25/10/2024 465.000
đồng theo biên lai thu tiền số: 0069342 ngày 12/3/2025 mà ông T đã nộp tại Chi cục
Thi hành án Dân sự quận Hoàn Kiếm.
Ông Nguyễn Văn L được miễn toàn bộ án phí.
4. Về quyền kháng cáo:
Án xử công khai thẩm. Có mặt đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:
Ông Phùng Ngọc T, bị đơn: Ông Nguyễn Văn L. Vắng mặt: Văn phòng công chứng
NH.
Các đương s có mặt đưc quyn kháng cáo trong hn 15 ngày k t ngày T
án. Đương sự vắng mặt quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án
được tống đạt hợp lệ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN T
Phan Lan Hương
Tải về
Bản án số 07/2025/DS-ST Bản án số 07/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 07/2025/DS-ST Bản án số 07/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất