Bản án số 891/2024/DS-ST ngày 12/09/2024 của TAND Q. Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 891/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 891/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 891/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 891/2024/DS-ST ngày 12/09/2024 của TAND Q. Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng tín dụng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tín dụng |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND Q. Gò Vấp (TAND TP. Hồ Chí Minh) |
Số hiệu: | 891/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ngân hàng TMCP S khởi kiện yêu cầu bà Lương Huỳnh Thiên K thanh toán khoản nợ vay và tiền lãi |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN GÒ VẤP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
____________________________
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
______________________________
Bản án số: 891/2024/DS-ST
Ngày: 12/9/2024.
V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Thành Huế
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Võ Thị Mai
2. Ông Phạm Nguyễn Anh Tuấn
- Thư ký phiên tòa : Ông Nguyễn Minh Tú – Thư ký Tòa án nhân dân quận
Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Đinh Hương Liên – Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 9 năm 2024, tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân quận G,
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
319/2024/TLST-DS ngày 01 tháng 4 năm 2024 về tranh chấp hợp đồng tín dụng theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 441/2024/QĐXXST- DS ngày 24 tháng 7 năm
2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 401/2024/QĐST-DS ngày 20 tháng 8 năm 2024
giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần S; địa chỉ trụ sở: Số 266-268
đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D- Chức vụ: Tổng
giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: Công ty TNHH MTV Quản lý nợ và khai thác tài
sản Ngân hàng S
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Ngọc T- Chức vụ Tổng giám đốc
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Đức T (Giấy ủy quyền
số 763/2024/UQ-TGĐ ngày 16/01/2024). (Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).
2
Bị đơn: Bà Lương Huỳnh Thiên K; địa chỉ: Số A đường Số B, Phường C,
quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S và lời khai trong
quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Trần Đức
Th trình bày:
Ngày 08/11/2019 bà Lương Huỳnh Thiên K có ký với Ngân hàng TMCP
S Tín (gọi tắt là Ngân hàng) hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề
nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản điều khoản và điều kiện phát hành
và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng – sau đây được viết tắt là hợp đồng tín
dụng), hạn mức tín dụng là 15.000.000 đồng với mục đích tiêu dùng cá nhân, lãi
suất là 2.766%/ tháng. Sau khi được cấp Thẻ tín dụng, Bà K đã thực hiện các
giao dịch với tổng số tiền là 338.531.160 đồng. Lãi được tính trên từng giao dịch
phát sinh theo từng ngày và theo lãi suất Ngân hàng áp dụng vào từng thời điểm
khác nhau. Bà K phải chịu các khoản phí theo quy định trong Điều 24 của bản
điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng, chi tiết
lãi, phí trong sao kê tóm tắt.
Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay bà K đã thanh
toán cho Ngân hàng số tiền 331.062.105 đồng. Tổng số tiền trên được thanh
toán áp dụng theo điều 20 của bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng
thẻ tín dụng của Ngân hàng cụ thể việc thanh toán sẽ được áp dụng theo thứ tự
như sau: Các khoản phí và/hoặc lãi của kỳ trước; Giao dịch rút tiền mặt của kỳ
trước; Giao dịch mua hàng hóa của kỳ trước; Các khoản phí và/hoặc lãi trong
kỳ; Giao dịch rút tiền mặt trong kỳ và giao dịch mua hàng hóa trong kỳ. Qua
nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng bà K vẫn không có thiện chí trả nợ. Do bà K
vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 23/01/2023 Ngân hàng đã chấm dứt
quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Ngân
hàng đã chuyển toàn bộ dư nợ tại thời điểm này là 16.789.190 đồng làm nợ gốc,
áp dụng lãi suất nợ quá hạn (là 150% của lãi suất được công bố và áp dụng tại
thời điểm hiện tại). Số tiền lãi quá hạn được tính trên số tiền nợ gốc 16.789.190
đồng với lãi suất quá hạn là 4.149%/ tháng (2.766%* 150%) từ ngày Ngân hàng
chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn
cho đến hiện tại.
Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Ngân hàng yêu cầu Bà K thanh toán
toàn bộ khoản nợ tính đến ngày 12/9/2024 là 30.697.371 đồng. Trong đó: Nợ
gốc: 16.789.190 đồng; Lãi quá hạn: 13.908.181 đồng. Yêu cầu bà K tiếp tục
thanh toán lãi quá hạn phát sinh kể từ ngày 13/9/2024 cho đến khi trả dứt nợ
theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án niêm yết hợp lệ các văn bản và giấy
triệu tập của Tòa án cho bà Lương Huỳnh Thiên K tại địa chỉ số A đường Số B,
Phường C, quận G, TP. Hồ Chí Minh, nhưng bị đơn không đến Tòa trong các buổi
mời làm việc và vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
3
chứng cứ và hòa giải nên Tòa án không lấy được lời khai của bị đơn , cũng như Tòa
án không nhận được các tài liệu chứng cứ do bị đơn cung cấp. Tòa án vẫn tiến hành
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vào ngày 18/7/2024
và gửi cho bị đơn thông báo kết quả phiên họp (Đính kèm theo thông báo là các tài
liệu, chứng cứ được công bố tại phiên họp, trừ hồ sơ pháp lý liên quan đến hoạt động
của Ngân hàng). Do bị đơn vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và
nguyên đơn có yêu cầu Tòa án không tiếp tục tổ chức phiên hòa giải. Do đó, Tòa án
đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận G phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng:
1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ
án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử
Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã chấp hành đúng quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Cụ thể: Thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định
đúng quan hệ tranh chấp cũng như tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa những người
tham gia tố tụng; chuẩn bị xét xử đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quyết
định đưa vụ án ra xét xử và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát đảm bảo thời hạn theo
quy định pháp luật.
2. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và thư ký tại phiên tòa: Hội
đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã tuân thủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về
xét xử sơ thẩm vụ án.
3. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn thực
hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70 và Điều 71 Bộ luật
Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định
tại Điều 70 và Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung:
Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 08/11/2019 được
Ngân hàng phê duyệt vào ngày 11/11/2019, xác định bà Lương Huỳnh Thiên K có sử
dụng dịch vụ thẻ tín dụng của Ngân hàng TMCP S với mức tín dụng được Ngân hàng
phê duyệt là 15.000.000 đồng.
Căn cứ vào bản Tóm tắt sao kê do Ngân hàng cung cấp tính đến ngày
12/9/2024 Bà K còn nợ Ngân hàng với số tiền là 30.697.371 đồng. Trong đó: Nợ
gốc: 16.789.190 đồng; Lãi quá hạn: 13.908.181 đồng, việc vi phạm nghĩa vụ
thanh toán của bà Lương Huỳnh Thiên K đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
Ngân hàng S
Do đó căn cứ khoản 1 Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 91 Luật
các tổ chức tín dụng năm 2010, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn: Buộc bà Lương Huỳnh Thiên K thanh toán các khoản nợ còn thiếu
và lãi phát sinh theo thỏa thuận tại hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 08/11/2019
4
cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng TMCP S. Bị đơn chịu án phí theo quy định của
pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra
tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng thương mại cổ
phần S có đơn khởi kiện yêu cầu bà Lương Huỳnh Thiên K trả toàn bộ khoản nợ gốc
và tiền lãi phát sinh từ giao dịch sử dụng thẻ tín dụng tạm tính đến ngày 12/9/2024 là
30.697.371 đồng. Đây là tranh chấp hợp đồng tín dụng, nên căn cứ khoản 3 Điều 26
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Theo
kết quả xác minh của Công an Phường N, quận G tại địa chỉ M đường T, Phường N,
quận G (Địa chỉ được ghi trong đơn khởi kiện) Bà K không đăng ký thường trú, tạm
trú và không thực tế cư trú. Căn cứ kết quả xác minh Công an Phường C quận G, TP.
Hồ Chí Minh thể hiện bà Lương Huỳnh Thiên K có hộ khẩu thường trú tại Số A
đường Số B, Phường C, quận G. Hiện không thực tế cư trú đã bán nhà chuyển đi từ
năm 2021, đi đâu không rõ. Như vậy, bà K thay đổi nơi cư trú không báo địa chỉ mới
cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định luật cư trú đã thể hiện nhằm mục
đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện. Việc bà K thay đổi
nơi cư trú mà không báo cho Ngân hàng biết địa chỉ nơi cư trú mới, cũng được coi là
cố tình giấu địa chỉ theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-
HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Hội đồng
xét xử xét thấy có đủ cơ sở xác định địa chỉ của bị đơn tại quận G, TP. Hồ Chí Minh.
Căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm a
khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm (có đơn xin vắng mặt). Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng
vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
Căn cứ quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt người đại diện hợp pháp của
nguyên đơn và bị đơn.
[3] Về nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn thanh toán đối
với khoản nợ gốc và tiền lãi phát sinh từ giao dịch sử dụng thẻ tín dụng của Ngân
hàng, theo hợp đồng tín dụng ký ngày 08/11/2019 và được Ngân hàng phê duyệt ngày
11/11/2019. Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ kiện do nguyên đơn cung
cấp gồm: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng do Bà K ký ngày 08/11/2019 và bản điều
khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng có hiệu lực ngày
15/8/2016; biểu phí dịch vụ sử dụng thẻ tín dụng; bản sao kê chứng minh khoản tiền
giao dịch và thanh toán nợ của khách hàng, đối chiếu các văn bản, tài liệu khác của
Ngân hàng đủ cơ sở xác định giữa Ngân hàng với bà Lương Huỳnh Thiên K có ký kết
với nhau hợp đồng tín dụng ngày 08/11/2019, được Ngân hàng phê duyệt ngày
5
11/11/2019 và Bà K đã được Ngân hàng cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng
15.000.000 đồng mục đích tiêu dùng cá nhân, lãi suất là 2.766%/ tháng.
Xét nội dung thoả thuận của các bên tại hợp đồng tín dụng nêu trên về khoản
nợ vay, lãi suất và trách nhiệm trả nợ phù hợp với quy định tại Điều 463, Điều 466 Bộ
luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 17 của Thông tư số 19/2016/TT-NHNN ngày
30/6/2016 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước; Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng
năm 2010 “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp
tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp
luật” và phù hợp với quy định tại Điều 7, khoản 2 Điều 8 của Nghị quyết số
01/2019/NQ-HĐTP ngày 01/01/2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định về lãi, lãi
suất, phạt vi phạm nên đã làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Theo chứng cứ nguyên đơn cung cấp, tại bản sao kê tài khoản chứng minh giao
dịch và thanh toán của khách hàng theo hợp đồng tín dụng ký ngày 08/11/2019, thể
hiện sau khi được cấp thẻ tín dụng số tiền bà K thực hiện các giao dịch và được Ngân
hàng chấp nhận với tổng số tiền là 338.531.160 đồng. Bà K đã thanh toán cho Ngân
hàng tổng số tiền là 331.062.105 đồng (Chi tiết các lần thanh toán trong bảng sao
kê tóm tắt đính kèm). Ngân hàng thu khoản nợ trên phù hợp với quy định tại Điều 20
bản điều kiện và điều khoản phát hành thẻ tín dụng của Ngân hàng. Do Bà K không
thanh toán nợ còn lại là vi phạm Điều 2 của bản điều khoản và điều kiện nên ngày
23/01/2023 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ sang
nợ quá hạn. Ngân hàng đã khởi kiện yêu cầu bà K thực hiện việc nghĩa vụ trả nợ là
phù hợp với thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Bà K không đến Tòa, không có lời
khai, không cung cấp chứng cứ để xác nhận hoặc phản bác yêu cầu của nguyên đơn.
Như vậy, bà K đã từ bỏ các quyền được pháp luật quy định. Theo khoản 4 Điều 91 của
Bộ luật tố tụng dân sự quy định:“Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng
minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải
quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”.
Hội đồng xét xử căn cứ hợp đồng tín dụng ký ngày 08/11/2019 đương Ngân hàng phê
duyệt ngày 11/11/2019, bao gồm: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng; bản điều kiện và điều
khoản; các chứng cứ trong hồ sơ vụ kiện do nguyên đơn cung cấp để xác định bà Kim
đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
Ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng yêu cầu bà K thanh toán khoản nợ và tiền lãi tính đến
ngày 12/9/2024 là 30.697.371 đồng. Trong đó: Nợ gốc: 16.789.190 đồng; Lãi
quá hạn: 13.908.181 đồng và kể từ ngày 13/9/2024 yêu cầu Bà K tiếp tục trả tiền lãi
quá hạn phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp
đồng sử dụng thẻ tín dụng là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về thời hạn và phương thức thanh toán.
Xét thấy, bà Lương Huỳnh Thiên K vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa
thuận mà các bên ký kết đã gây thiệt hại cho Ngân hàng. Do đó, Ngân hàng yêu cầu bà
Kim thanh toán ngay toàn bộ khoản nợ gốc và tiền lãi phát sinh nêu trên là phù hợp
với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, buộc bà Lương Huỳnh Thiên K trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S
6
toàn bộ khoản nợ gốc và tiền lãi quá hạn tính đến ngày 12/9/2024 là 30.697.371
đồng. Trong đó: Nợ gốc: 16.789.190 đồng; Lãi quá hạn: 13.908.181 đồng. Trả
làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày 13/9/2024 bà Lương Huỳnh Thiên K phải tiếp tục trả khoản tiền lãi
quá hạn phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh
lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng
vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng
sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị
đơn thanh toán khoản nợ là 30.697.371 đồng được Tòa án chấp nhận toàn bộ, nên
theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự với mức thu là
(5% của giá trị tranh chấp) 1.534.868 đồng.
Ngân hàng thương mại cổ phần S không phải chịu án phí, được nhận lại số tiền
tạm ứng án phí đã nộp là 625.218 đồng theo biên lai thu số 0012942 ngày 27/3/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
điểm a khoản 1 Điều 40, điểm a, b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và khoản 1 Điều 273
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
- Căn cứ các Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;
- Căn cứ khoản 2 Điều 17 Thông tư số 19/2016/TT-NHNN ngày 30/6/2016 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước;
- Áp dụng Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 01/01/2019 hướng dẫn áp
dụng một số quy định về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;
- Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015;
- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
1. Buộc bà Lương Huỳnh Thiên K trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S
toàn bộ khoản nợ gốc và tiền lãi quá hạn tính đến ngày 12/9/2024 là 30.697.371
7
đồng (Ba mươi triệu sáu trăm chín mươi bảy nghìn ba trăm bảy mươi mốt đồng).
Trong đó: Nợ gốc: 16.789.190 đồng; Lãi quá hạn: 13.908.181 đồng. Trả làm một
lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày 13/9/2024 bà Kim phải tiếp tục thanh toán khoản tiền lãi quá hạn
của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng hai bên đã ký kết cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp
trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo
từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh
toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho
phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
Thi hành tại cơ quan Thi hành án có thẩm quyền.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Lương Huỳnh Thiên K phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm 1.534.868
đồng (Một triệu năm trăm ba mươi bốn nghìn tám trăm sáu mươi tám đồng).
Ngân hàng thương mại cổ phần S không phải chịu án phí, được nhận lại số tiền
tạm ứng án phí đã nộp là 625.218 đồng (Sáu trăm hai mươi lăm nghìn hai trăm mười
tám đồng) theo biên lai thu số 0012942 ngày 27/3/2024 của Chi cục Thi hành án dân
sự quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải
thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm
2014).
3. Về quyền kháng cáo: Ngân hàng thương mại cổ phần S và bà Lương Huỳnh
Thiên K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản
án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Đương sự; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND quận Gò Vấp; Đã ký
- Chi cục THADS quận Gò Vấp;
- Lưu VP, hồ sơ.
Lê Thị Thành Huế
8
Tải về
Bản án số 891/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 891/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm