Bản án số 13/2025/DS-PT ngày 16/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 13/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 13/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 13/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 13/2025/DS-PT ngày 16/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 13/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 60/2024/DS-ST ngày 17/8/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 20/2025/HS-PT
Ngày: 13/01/2025.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: bà Trần Thị Kim Liên
Các Thẩm phán: ông Nguyễn Tấn Long
ông Phạm Văn Hợp
- Thư ký phiên tòa: bà Đặng Ngọc Gia Linh, Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: ông Nguyễn Xuân Thanh, Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình
xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 580/2024/TLPT-HS ngày 29
tháng 10 năm 2024 đối với các b cáo Trương Tiến C, Phan Văn T về tội “Mua
bán trái phép chất ma tuý”. Do có kháng cáo của các b cáo đối với Bản án hnh
sự sơ thẩm số 58/2024/HSST ngày 23/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Bình.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Trương Tiến C - sinh ngày 20/02/1996 tại tỉnh Quảng Bnh; nơi cư trú:
tổ dân phố D, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: lao động
tự do; trnh độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không;
quốc tch: Việt Nam; con ông Trương Văn V và bà Phan Th V1; vợ, con chưa
có; tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân: ngày 14/12/2010, b Công an phường N, thành phố Đ xử phạt
hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi Gây rối trật tự công cộng.
B bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/3/2024. Có mặt.
2. Phan Văn T - sinh ngày 27/9/2005 tại tỉnh Quảng Bnh; nơi cư trú: tổ dân
phố H, th trấn N, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình
độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tch:
Việt Nam; con ông Phan Văn T1 và bà Trần Th N; vợ, con chưa có; tiền án, tiền
sự: không.
2
B bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/3/2024. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Phan Văn T: ông Bùi Công T2 - Luật sư
thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Q và ông Vũ Xuân H, ông Phạm Thành T3 - Luật sư
của Công ty L thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Q. Các Luật sư có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Trương Tiến C: ông Lê Minh T4 - Luật sư
của Văn phòng L1 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Q. Có mặt.
Ngoài ra, vụ án còn có b cáo Phạm Hải N1 không có kháng cáo và không
b kháng cáo, kháng ngh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 27/3/2024, Phạm Hải N1 (sinh năm 1985,
trú tại: số nhà G đường H, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình) chuẩn b
dụng cụ tự chế làm bằng chai nhựa và ống hút (cóng), máng làm bằng giấy bạc
trong bao thuốc lá, bật lửa, rồi lấy trong người ra khoảng 03 - 04 viên ma túy
hồng phiến và ngồi ở bàn tại v trí lối hành lang đi ra phòng bếp để sử dụng. Một
lúc sau có Trương Tiến C đến chơi. C thấy ma túy trên bàn thì tự lấy để sử dụng
và ngồi cùng nhau chơi game. Khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày, Nguyễn Anh
T5 (sinh năm 1984, trú tại: tổ dân phố E, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng
Bình) đến chơi, thấy ma túy trên bàn thì tự lấy sử dụng. Sau đó, N1, C và T5 vừa
ngồi sử dụng ma túy vừa chơi điện thoại. Khoảng 09 giờ 50 phút cùng ngày có
Hồ Thân T6 (sinh năm 1986, trú tại huyện Q, tỉnh Nghệ An) đến và ngồi vào
bàn. Tuy nhiên, T6 chưa sử dụng ma túy thì lực lượng chức năng phát hiện bắt
quả tang. Khi thấy lực lượng chức năng đi vào, C cầm theo 01 gói nilon màu đỏ
có ghi chữ Supreme và 01 chai nhựa có gắn ống hút để ở trên bàn rồi mang ra
khu vực bếp và vứt xuống dưới gầm kệ đựng bát. Quá trình bắt quả tang, Cơ
quan điều tra đã thu giữ trên bàn gồm: 02 dụng cụ tự chế để sử dụng ma túy làm
bằng vỏ chai nhựa có gắn ống hút; 02 viên nén hình tròn màu hồng trong đó có
01 viên b cháy ở một phần góc cạnh; 09 mảnh giấy màu trắng bạc nhiều mảnh
đã b cháy một phần ở góc cạnh; 10 bật lửa nhiều chủng loại, màu sắc và nhiều
đồ vật liên quan. Sau đó, N1 tự nguyện lấy trong túi quần bên phải đang mặc
trên người 01 túi nilon màu xanh bên trong chứa 20 viên nén hình tròn màu
hồng. N1 khai nhận là ma túy hồng phiến cất giấu để sử dụng một mình, còn 02
viên nén hình tròn màu hồng thu giữ trên bàn là ma túy loại hồng phiến do N1
đưa ra để cùng sử dụng chung; số ma túy trên N1 khai nhận đã mua từ lâu để sử
dụng, không nhớ đã mua của ai. Kiểm tra 01 gói nilon màu đỏ có ghi chữ S do C
vứt ra ở khu vực bếp dưới kệ đựng bát bên trong chứa 142 viên nén hình tròn
màu hồng và 01 viên nén hình tròn màu xanh. C khai nhận số viên nén trên là
ma túy hồng phiến do C mua của một người không quen biết ở khu vực đường
tránh thành phố Đ nhằm mục đích sử dụng và bán kiếm lời.
3
Khám xét khẩn cấp chỗ ở của N1 tại số nhà G đường H, phường B, thành
phố Đ, tỉnh Quảng Bình, C đã tự nguyện giao nộp: 01 túi nilon trong suốt chứa
46 viên nén màu xám, hình lựu đạn và 03 túi nilon trong suốt chứa chất tinh thể
màu trắng được cất giấu bên trong túi áo khoác bò của C đặt ở ghế trong phòng
khách; 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 164 viên nén màu xám, hình lựu
đạn được cất giấu bên trong cốp xe Honda Waversx màu đỏ, biển kiểm soát
73B1-074.58 của C đang dựng trong sân nhà của N1. Về nguồn gốc số ma túy
trên, C khai nhận số viên nén màu xám hình lựu đạn được C lấy ra từ số ma túy
cất giấu tại số A đường L, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình và mang
theo người ai mua thì bán; còn 03 túi nilon trong suốt chứa chất tinh thể màu
trắng là ma túy loại Ketamine do C nhờ Phan Văn T mua từ một người không
quen biết về cho đưa cho C bán kiếm lời.
Vào lúc 15 giờ 00 phút ngày 27/3/2024, Cơ quan điều tra tiến hành khám
xét khẩn cấp tại số A đường L, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình đối với
C (C là nhân viên Văn phòng X). Quá trình khám xét, C đã tự nguyện giao nộp:
01 va ly màu đen nhãn hiệu Hùng Phát, mặt trên có dán giấy trắng có dòng chữ
viết tay “CỦA BÉO ĐẠI CA”, bên trong va ly gồm: 25 gói nilon (trong đó có
05 gói màu xanh và 20 gói màu đen), bên ngoài được cuốn bằng băng dính trong
suốt, lớp phía trong là túi nilon, tiếp đến là lớp giấy than và lớp giấy bạc, trong
cùng là túi nilon đựng các viên nén màu xám hình dạng lựu đạn; tổng số lượng
các viên nén trong 25 gói là 25.000 viên; 01 túi nilon trong suốt có kích thước
10x15 bên trong có 95 viên nén màu xám hình dạng lựu đạn. Về nguồn gốc số
ma túy trên, C và T khai nhận: vào ngày 22/3/2024, có một người không quen
biết gọi điện thoại cho T vào số điện thoại 0876594810 do T sử dụng khi làm
vận chuyển hàng hóa tại Hà Nội báo có 01 kiện hàng chuyển từ Đức về và yêu
cầu T nhận. T biết trong kiện hàng đó có ma túy tổng hợp dạng kẹo nên gọi điện
thoại cho C hỏi C có muốn nhận kiện hàng đó không, nếu không nhận thì vứt. C
đồng ý nhận và thống nhất sau khi bán thì sẽ chia tiền với T. Sau đó, C bảo T
gọi điện lại cho người giao hàng nói đưa hàng tới M, Hà Nội và C sẽ nhờ người
nhận hàng gửi về Quảng Bình. Khoảng 01 giờ sáng ngày 23/3/2024, C gọi điện
thông báo cho T hàng đã về và dặn T lên nhà xe H1 ở đường tránh thành phố Đ
để nhận. Kiện hàng gồm 03 thùng loa hiệu Lenco, C và T cùng mở 03 chiếc loa
ra, bên trong có chứa tổng cộng 29 túi nilon màu đen và xanh, bên trong có chứa
ma túy tổng hợp loại kẹo, hình lựu đạn, màu xám. C lấy ra 02 viên để C và T
cùng sử dụng, số ma túy còn lại C cất vào thùng nhôm và giấu ở dưới phản trong
kho nhà xe H1 ở đường tránh thành phố Đ. Đến khoảng 21 giờ ngày 25/3/2024,
C gọi điện thoại nói T đến Văn phòng X (tại số A, đường L, thành phố Đ) lấy
chìa khóa chạy lên kho nhà xe H1 lấy cho C 01 “thùng” (1.000 viên) ma túy
thuốc lắc về cho C bán. Sau đó, T sử dụng xe máy lên kho nhà xe H1 lấy 01
“thùng” (1.000 viên) ma túy thuốc lắc về cất giấu tại ngăn kéo đầu tiên của quầy
bán vé nhà xe H1 cho C. Sau đó, C mua một vali để đựng số ma túy nói trên và
tối ngày 26/3/2024, C nhờ anh Nguyễn Tiến T7 (là lái xe của nhà xe H1) chở
4
chiếc vali từ kho nhà xe H1 (ở đường tránh thành phố Đ) về Văn phòng xe X tại
số A, đường L, thành phố Đ cho C.
* Tại Bản Kết luận giám định số 380/KL-KTHS ngày 04/4/2024, Phòng K
Công an tỉnh Q kết luận:
- 02 (hai) viên nén hình tròn màu hồng thu giữ trong lúc bắt quả tang là
chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,22gam.
- 20 (hai mươi) viên nén hnh tròn màu hồng do Phạm Hải N1 giao nộp lúc
bắt quả tang là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 1,877gam.
- 142 (một trăm bốn mươi hai) viên nén hnh tròn màu hồng thu giữ của
Trương Tiến C lúc bắt quả tang là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối
lượng 12,891gam.
- 210 (hai trăm mười) viên nén màu xám, hình lựu đạn do Trương Tiến C
giao nộp lúc khám xét nhà số G đường H, phường B, Đ là chất ma túy, loại
MDMA, khối lượng 102,953gam.
- 25.095 (hai mươi lăm nghn không trăm chín mươi lăm) viên nén màu
xám, hình lựu đạn thu giữ trong lúc khám xét đa điểm tại số A, đường L,
phường Đ, thành phố Đ là chất ma túy, loại MDMA, khối lượng 11.911,13gam.
- 03 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng do Trương Tiến C giao nộp lúc
khám xét nhà số G đường H, phường B, Đ là chất ma túy, loại Ketamine, khối
lượng 3,315gam.
- 01 (một) viên nén hình tròn màu xanh thu giữ trong lúc bắt quả tang
không phải là chất ma túy, khối lượng 0,089gam.
* Tại Bản kết luận giám định số 379/KL-KTHS Ngày 03/4/2024, Phòng K
Công an tỉnh Q kết luận: phát hiện một số dấu vết đường vân không đủ yếu tố
giám đnh trên mẫu cần giám đnh.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2024/HSST ngày 23 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã quyết định:
Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51,
Điều 40 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trương Tiến C tử hình về tội “Mua bán
trái phép chất ma tuý”. Tiếp tục tạm giam b cáo Trương Tiến C để bảo đảm thi
hành án.
Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều
40 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phan Văn T tử hình về tội “Mua bán trái phép
chất ma tuý”. Tiếp tục tạm giam b cáo Phan Văn T để bảo đảm thi hành án.
Nếu các b cáo Trương Tiến C và Phan Văn T không kháng cáo, trong thời
hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người b kết án được gửi
đơn lên Chủ tch N2 xin ân giảm án tử hình.
5
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết đnh về tội danh và hình phạt đối với b
cáo Phạm Hải N1, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và thông báo
quyền kháng cáo theo quy đnh của pháp luật.
Ngày 24/9/2024, b cáo Trương Tiến C kháng cáo với nội dung xin giảm
nhẹ hình phạt vì cho rằng mức án nặng so với hành vi phạm tội, thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải, tích cực phối hợp với cơ quan điều tra, tự nguyện giao nộp
ma tuý, cha là thương binh, ông nội và bà nội có công cách mạng.
Ngày 24/9/2024, b cáo Phan Văn T kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ
hình phạt vì thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đnh khó khăn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Các b cáo Trương Tiến C, Phan Văn T đều giữ nguyên nội dung kháng
cáo.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu: đề ngh
Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các b cáo Trương Tiến C,
Phan Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Luật sư Lê Minh T4 bào chữa cho b cáo Trương Tiến C nhất trí với tội
danh mà án sơ thẩm đã tuyên. B cáo C tích cực phối hợp cơ quan điều tra, gia
đnh có công cách mạng. Đề ngh Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho b cáo.
- Luật sư Bùi Công T2, Luật sư Vũ Xuân H và Luật sư Phạm Thành T3 bào
chữa cho b cáo Phan Văn T cho rằng b cáo T không chủ động trong việc mua
bán trái phép chất ma tuý, vai trò thấp, không biết chủng loại ma tuý, b cáo mới
bước qua tuổi 19, hoàn cảnh gia đnh khó khăn, b cáo thành khẩn khai báo, ăn
năn hối cải, gia đnh có công cách mạng. Đề ngh Hội đồng xét xử xử b cáo
mức án chung thân.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận đnh như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của các b cáo: quá trnh điều tra, truy tố, xét xử sơ
thẩm và tại phiên toà phúc thẩm, các b cáo Trương Tiến C, Phan Văn T đều
thừa nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của b cáo Phạm Hải
N1, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ
vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác đnh: ngày 27/3/2024, Phạm Hải N1 đã
có hành vi chuẩn b đa điểm, dụng cụ và ma túy để tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy cho Nguyễn Anh T5 và Trương Tiến C thì b bắt quả tang, thu giữ
trên bàn 02 viên ma túy loại Methamphetamine (trong đó có một viên b cháy
dỡ, khối lượng 0,22gam). Ngoài ra, N1 đã tự nguyện giao nộp 20 viên ma túy
loại Methamphetamine cất giấu trong người có khối lượng 1,877gam nhằm mục
đích để sử dụng. Trương Tiến C và Phan Văn T đã có hành vi bàn bạc, thống
nhất đưa 25.305 viên ma túy loại MDMA, khối lượng 12.014,083gam từ thành
6
phố Hà Nội về tỉnh Quảng Bnh để bán kiếm lời. Ngoài ra, T còn có hành vi
mua giúp 3,315gam ma túy loại Ketamine cho C. C đã cất giấu 3,315gam ma
túy loại Ketamine và 142 viên ma túy loại Methamephetamine, khối lượng
12,891gam nhằm mục đích vừa để sử dụng, vừa bán kiếm lời. Xét Toà án cấp sơ
thẩm xử b cáo Trương Tiến C, b cáo Phan Văn T đều về tội “Mua bán trái phép
chất ma tuý” là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các b cáo Trương Tiến C,
Phan Văn T, Hội đồng xét xử thấy: C và T đã có hành vi mua bán trái phép chất
ma tuý, loại MDMA, khối lượng 12.014,083gam. Ngoài ra, T đã mua giúp cho
C 3,315gam ma túy, loại Ketamine và C đã cất giấu số ma tuý này cùng 142
viên ma túy, loại Methamephetamine, khối lượng 12,891gam nhằm mục đích sử
dụng và bán kiếm lời nên các b cáo C, Trung phạm vào điểm h khoản 4 Điều
251 của Bộ luật Hình sự. Hành vi phạm tội của các b cáo là đặc biệt nghiêm
trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà
nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội tại đa phương. B
cáo C là người trực tiếp hướng dẫn b cáo T nhận và cất giấu ma tuý nên là
người chu trách nhiệm với vai trò chính. B cáo T là người giúp b cáo C nhận,
cất giữ ma tuý và mua bán ma tuý cho các đối tượng nghiện. Các b cáo C,
Trung đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, sẽ b
trừng tr nghiêm khắc nhưng v hám lợi, các b cáo đã thực hiện hành vi mua bán
trái phép chất ma tuý với khối lượng đặc biệt lớn. Do đó, việc loại bỏ vĩnh viễn
b cáo C và b cáo T ra khỏi đời sống xã hội là cần thiết, mới đủ tác dụng răn đe,
giáo dục, phòng ngừa chung. Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất,
mức độ hành vi phạm tội của các b cáo, đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy đnh tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật
Hình sự, xử phạt b cáo C hình phạt tử hình và b cáo T hình phạt tử hình là thoả
đáng. Mặc dù tại phiên toà phúc thẩm, gia đnh b cáo C xuất trình thêm tài liệu
thể hiện ông nội và bà nội của b cáo C là người có công cách mạng nhưng hành
vi phạm tội của b cáo C là đặc biệt nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử không
thể giảm hình phạt cho b cáo.
[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận
kháng cáo của b cáo C và b cáo T cũng như lời bào chữa của các Luật sư; chấp
nhận đề ngh của Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm.
[4] Do nội dung kháng cáo của các b cáo Trương Tiến C, Phan Văn T
không được chấp nhận nên các b cáo phải chu án phí hình sự phúc thẩm theo
quy đnh tại điểm b khoản 2 Điều 23 của Ngh quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy đnh về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
[5] Các quyết đnh khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng ngh nên không xét.
7
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình
sự;
Không chấp nhận kháng cáo của b cáo Trương Tiến C và b cáo Phan Văn
T, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2024/HSST ngày 23/9/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.
1. Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51,
Điều 40 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Trương Tiến C: tử hình về tội “Mua bán
trái phép chất ma tuý”.
Áp dụng khoản 4 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: tiếp tục tạm giam
b cáo Trương Tiến C để bảo đảm thi hành án.
2. Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51,
Điều 40 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Phan Văn T: tử hình về tội “Mua bán trái
phép chất ma tuý”.
Áp dụng khoản 4 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: tiếp tục tạm giam
b cáo Phan Văn T để bảo đảm thi hành án.
Trong thời hạn 07 (bảy) ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, b
cáo Trương Tiến C và b cáo Phan Văn T có quyền làm đơn gửi Chủ tch nước
xin ân giảm án tử hình.
3. Về án phí: các b cáo Trương Tiến C, Phan Văn T - mỗi b cáo phải chu
200.000đồng án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết đnh khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng ngh đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
ngh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
* Nơi nhận:
- Vụ Giám đốc kiểm tra I - TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND, VKSND tỉnh Quảng Bnh;
- Cơ quan CSĐT-Công an tỉnh Quảng Bnh;
- Phòng HSNV-Công an tỉnh Quảng Bnh;
- Cơ quan CSTHAHS-CA tỉnh Quảng Bnh;
- Sở Tư pháp tỉnh Quảng Bnh;
- Cục THADS tỉnh Quảng Bnh;
- Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bnh;
- B cáo; người bào chữa;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Trần Thị Kim Liên
8
Tải về
Bản án số 13/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 13/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm