Bản án số 13/2024/KDTM ngày 16/12/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp hợp đồng tín dụng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 13/2024/KDTM

Tên Bản án: Bản án số 13/2024/KDTM ngày 16/12/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tín dụng
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Bình
Số hiệu: 13/2024/KDTM
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/12/2024
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ngân hàng kiện Công ty V về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Nghĩa
Các Thẩm phán: Ông Dương Viết Hải
Bà Hoàng Thị Thanh Nhàn
Ghi biên bản phiên tòa: Ông Hoàng Anh Việt Thư ký, Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Bình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Sáng - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 12 năm 2024, tại trụ sTòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
m phiên tòa xét xử v án kinh doanh thương mại phúc thẩm thụ số
11/2024/TLPT- KDTM ngày 25 tháng 10 năm 2024 về tranh chấp hợp đồng tín
dụng. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 391/2024/QĐ PT
ngày 07 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: - Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần Á
Địa chỉ: Số D đường N, Phường E, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Dương Đức T,
Chuyên viên xử nNgân hàng Thương mại cổ phần Á - Chi nhánh Q2 (Văn
bản ủy quyền ngày 05/9/2018); có mặt.
- Bị đơn: ng ty trách nhiệm hữu hạn V
Địa chỉ: Số B, ngõ E, đường H, phường B, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình.
Người đại diện theo pháp luật: Trần Thị H - Giám đốc Công ty;
mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Trần Thị H, sinh năm 1955; ông Lê M, sinh năm 1948
Cùng trú tại: Số B, ngõ E, đường H, phường B, thành phố Đ, tỉnh
Quảng Bình; bà H mặt, ông M vắng mặt.
+ Ông Lê Quang C, sinh năm 1962; bà Trần Thị H1, sinh năm 1966
Cùng trú tại: Số B, đường L, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng
Bình; vắng mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH
Bản án số: 13/2024/KDTM - PT
Ngày 16 tháng 12 năm 2024
V/v Tranh chấp hợp đồng tín dụng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
+ Ông Hà Công Đ, sinh năm 1957; bà Phạm Thị Q, sinh năm 1958
Cùng cư trú tại: Số A, đường N, tổ G, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng
Bình; có mặt.
+ Anh Hà Công Đ1, sinh năm 1983; anh Hà Công Đ2, sinh năm 1990
Cùng cư trú tại: Số A, đường N, tổ G, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng
Bình; anh Đ1 có mt, anh Đ2 vắng mặt.
+ Bà Hà Thị P, sinh năm 1956
trú tại: Số A, đường H, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình;
mặt.
+ Bà Hà Thị N, sinh năm 1954
Cư trú tại: Tổ G, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
+ Bà Hà Thị K, sinh năm 1947
Cư trú tại: Thôn B, xã P, huyện L, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.
+ Cụ Hà Thị K1, sinh năm 1944
Cư trú tại: Thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.
+ Bà Hà Thị Hải Y, sinh năm 1981
Cư trú tại: Thôn Đ, xã Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
+ Phòng C1 tỉnh Quảng Bình
Địa chỉ: Phường Hải Đình, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; vắng
mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
+ Ông TĐình P1 - ng chứng viên Phòng C1 tỉnh Quảng Bình; vắng
mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
+ Bùi Thị Thu H2 - Công chứng viên Phòng C1 tỉnh Quảng Bình;
vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
- Người kháng cáo: Ngân hàng Thương mại cổ phần Á
Địa chỉ: Số D đường N, Phường E, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh;
mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung Bản án thẩm số 27/2019/KDTM ST ngày 16 tháng 12
năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, thì nội dung vụ án được
tóm tắt như sau: Ngày 13 tháng 5 năm 2016 Ngân hàng thương mại cổ phần Á
(viết tắt là Ngân hàng) và Công ty trách nhiệm hữu hạn V (viết tắt là Công ty V)
kết hợp đồng tín dụng số QBLDN.01.090516, ngày 10/3/2017 kết hợp
đồng sửa đổi, bổ sung số QBI.DN.01.090516/SĐBS-01 đã được giải ngân
729.000.000 đồng theo Khế ước nhận nợ số 11 (tài khoản s237967279) ngày
13/5/2017, thời hạn vay 06 tháng kể từ ngày 14/5/2017 đến ngày 13/11/2017, lãi
suất vay trong hạn tính theo tháng 8,5%/năm, tính theo ngày 10,5%/năm,
3
một năm tính 365 ngày, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, lãi suất
phạt chậm trả lãi là 10%/năm.
Ngày 14 tháng 6 m 2017 hai bên kết hợp đồng sửa đổi, bổ sung số
QBI.DN.01.090516/SĐBS- 02, được giải ngân theo Khế ước nhận nợ số 12 (tài
khoản số 240168429) ngày 15/6/2017, số tiền 490.000.000 đồng, thời hạn vay
06 tháng, lãi suất vay trong hạn tính theo tháng 8,5%/năm, tính theo ngày
10,5%/năm, một năm tính 365 ngày, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong
hạn, lãi suất phạt chậm trả lãi 10%/năm. Theo khế ước số 13 (tài khoản số
240281929) ngày 17/6/2017, giải ngân 3.438.000.000 đồng; đã trả được số tiền
gốc 1.137.000.000 đồng, còn lại stiền gốc 2.301.000.000 đồng, thời hạn
vay 06 tháng kể từ ngày 14/3/2017 đến ngày 13/11/2017, lãi suất vay trong hạn
8,5%/năm, tính theo ngày 10,5%/năm, một năm tính 365 ngày, lãi suất quá
hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, lãi suất phạt chậm trả lãi 10%/năm. Tính
đến ngày 16/12/2019 Công ty V còn nợ 4.849.554.305 đồng; trong đó
3.520.000.000 đồng tiền gốc, 918.102.657 đồng tiền lãi trong hạn, 375.579.965
đồng lãi quá hạn và 35.871.683 đồng lãi chậm trả.
Để đảm bảo cho hợp đồng tín dụng các khế ước nhận nợ nêu trên,
Công ty V đã thế chấp các tài sản sau: Quyền sử dụng đất tài sản trên đất tại
thửa đất số 15, tờ bản đồ số 15 phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình thuộc
quyền sở hữu, quyền sử dụng của ông Quang C, bà Trần Thị H1 được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) số AC 186571 ngày
09/8/2005 theo hợp đồng thế chấp số QBI.BDDN.03.050314 ngày 11/3/2014.
Quyền sử dụng đất tài sản trên đất tại thửa đất số 19, tờ bản đồ số 52
phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng nh thuộc quyền sở hữu, sử dụng của hộ
ông ng Đ, Phạm Thị Q được cấp GCNQSDĐ số Y 347167 ngày
04/12/2003; theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
QBI.BDDN.07.220415 ngày 27/4/2015. Ngoài ra, ngày 13/5/2016 giữa Ngân
hàng ông M, Trần Thị H ký chứng thư bảo lãnh với nội dung: Ông
M, Trần Thị H đồng ý cùng trả nợ với Công ty V, khi Công ty V không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Nghĩa vụ bảo
lãnh bao gồm toàn bộ nghĩa vụ trả ncủa bên được cấp tín dụng với Ngân hàng
(bao gồm vốn gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi chậm trả, phí, các khoản phải
trả khác).
Quá trình thực hiện hợp đồng Công ty V vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên
Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Công ty V trả số nợ nêu trên. Trong trường hợp
Công ty V không trả hoặc trả không đầy đủ thì ông M Trần Thị H thực
hiện trả nợ theo Chứng thư bảo lãnh đã kết còn phải tiếp tục chịu tiền i
phát sinh theo mức lãi suất nợ quá hạn do các bên thỏa thuận tại các hợp đồng
tín dụng khế ước nhận nợ đến ngày trả xong nợ. Nếu Công ty V, ông M,
4
Trần Thị H không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì
số tài sản đã thể chấp nêu trên được quan thẩm quyền xử tài sản thế
chấp để thu hồi nợ.
Công ty trách nhiệm hữu hạn V do bà Trần Thị H người đại diện theo
pháp luật trình bày.
Công ty V thừa nhận kết hợp đồng tín dụng, Hợp đồng sửa đổi, bổ
sung các khế ước nhận nợ đã vay số tiền như Ngân hàng đã trình bày. Khi
vay vốn Công ty thế chấp GCNQSDĐ số Y 347167 ngày 04/12/2003 mang
tên hộ ông Công Đ, bà Phạm Thị Q GCNQSDĐ s AC 186571 ngày
09/8/2005 mang tên ông Quang C, Trần Thị H1. Tuy nhiên, do Công ty V
làm ăn khó khăn dẫn đến không trả được nợ nên xin Ngân hàng tạo điều kiện
kéo dài thời gian trả nợ, xin trả nợ số gốc, miễn trả lãi. GCNQSDĐ mang tên hộ
ông Công Đ, bà Phạm Thị Q, khi hợp đồng thể chấp các con của ông Đ,
Q không ký, do không biết và phía công chứng không hướng dẫn cụ thể.
Bà đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê M, Trần Thị H trình
bày: Công ty V vay vốn tại Ngân hàng sau đó Công ty không trả được nợ thì
Ngân hàng cùng ông, chứng thư bảo lãnh, nay ng ty không trả được
ông, bà đồng ý trả thay cho Công ty V toàn bộ số nợ trên.
Người quyền lợi, nghĩa vliên quan ông Công Đ, bà Phạm Thị
Q và ông Lê Quang C, bà Trần Thị H1 trình bày: Các ông bà thừa nhận đã dùng
tài sản của mình quyền sử dụng đất đã được cấp GCNQSDĐ thế chấp cho
Ngân hàng để đảm bảo vốn vay cho Công ty V tại Ngân hàng.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại thẩm số 27/2019/KDTM-ST
16/12/2019, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới quyết định: Chấp nhận một
phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Á.
Buộc Công ty V phải trả nợ cho Ngân ng tổng số tiền gốc lãi tính
đến ngày 16/12/2019 là 4.849.554.305 đồng; trong đó, tiền gốc là 3.520.000.000
đồng, lãi trong hạn 918.102.657 đồng, lãi quá hạn 375.579.965 đồng, lãi chậm
trả 35.871.683 đồng.
Trong trường hợp Công ty V không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ nghĩa vụ trả nợ thì ông M, bà Trần Thị H nghĩa vụ phải trả nợ thay cho
Công ty V toàn bộ số nợ mà Công ty V phải trả, theo thỏa thuận tại Chứng thư
bảo lãnh được ký kết ngày 13/5/2016 giữa Ngân hàng với ông M, bà H.
Tài sản bảo đảm để thi hành nghĩa vụ thi hành án của Công ty V gồm:
Toàn bộ quyền sdụng đất tài sản gắn liền với đất, tại thửa đất số 15,
tờ bản đồ số 15 phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; diện tích 177,5m², đã
được Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp GCNQSDĐ số AC 186571 ngày
09/8/2005 mang tên ông Quang C, Trần Thị H1. Hợp đồng thế chấp số
5
QBI.BDDN.03.050314 ngày 11/3/2014 kết giữa ông Quang C, Trần
Thị H1 Ngân hàng; bên được cấp tín dụng Công ty V tài sản đảm bảo để
thi hành nghĩa vụ thi hành án của Công ty trách nhiệm hữu hạn V.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng về yêu cầu xử tài
sản thế chấp của ông Đ, bà Q để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Công ty V.
Chấp nhận yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập chị Thị Hải Y, tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
QBI.BDDN.07.220415 ngày 27/4/2015 được kết giữa ông Công Đ,
Phạm Thị Q Ngân hàng. Tài sản thế chấp thửa đất số 19, tờ bản đồ số 52
phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; diện tích 248.8m² được UBND thị
(nay là thành phố) Đồng Hới cấp GCNQSDĐ số Y 347167 ngày 04/12/2003 cho
hộ ông Hà Công Đ, Phạm Thị Q vô hiệu.
Ngân hàng phải trả lại Bản chính GCNQSDĐ s Y347167 ngày
04/12/2003 của UBND thị (nay thành phố) Đồng Hới mang tên hộ ông
Công Đ, bà Phạm Thị Q, chị Thị Hải Y, anh Hà Công Đ2.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định về án phí quyền kháng
cáo cho các đương sự.
Ngày 28/12/2019 Ngân hàng kháng cáo Bản án thẩm về việc không
chấp nhận tuyên bố hợp đồng thế chấp tài sản quyền sử dụng đất số
QBI.BDDN.07.220415 ngày 27/4/2015 được kết giữa ông Công Đ,
Phạm Thị Q và Ngân hàng bị vô hiệu.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm s 02/2020/KDTM-PT
ngày 20/7/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình quyết định: Chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của Ngân hàng, buộc Công ty V phải trả nợ cho Ngân hàng với
tổng số tiền gốc lãi tính đến ngày 16/12/2019 4.849.554.305 đồng; trong
đó, tiền gốc 3.520.000.000 đồng, lãi trong hạn 918.102.657 đồng, lãi quá hạn
375.579.965 đồng, lãi chậm trả 35.871.683 đồng.
Trong trường hợp Công ty V không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ nghĩa vụ trả nợ thì ông M, bà Trần Thị H nghĩa vụ phải trả nợ thay cho
Công ty V toàn bộ số nợ mà Công ty V phải trả, theo thỏa thuận tại Chứng thư
bảo lãnh được ký kết ngày 13/5/2016 giữa Ngân hàng với ông M, bà H.
Không chấp nhận yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vliên quan có
yêu cầu độc lập chị Thị Hải Y về yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất số QBI BĐDN.07.220415 ngày 27/4/2015 được kết giữa ông
Hà Công Đ, bà Phạm Thị Q và Ngân hàng ngày 27/4/2015 vô hiệu.
Khi Bản án hiệu lực pháp luật mà Công ty V không trả được nợ, ông
M, Trần Thị H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho Công ty V theo
Chứng thư bảo lãnh ký ngày 13/5/2016 giữa ông M, bà HCông ty V thì Ngân
hàng quyền yêu cầu quan thẩm quyền phát mại tài sản để đảm bảo thu
6
hồi nợ theo các hợp đồng thế chấp tài sản quyền sử dụng đất số
QBI.BDDN.03.050314 ngày 11/3/2014 được kết giữa ông Quang C,
Trần Thị H1; Ngân hàng và Công ty V quyền sdụng đất tài sản gắn liền
với đất, tại thửa đất số 15, tờ bản đồ số 15 phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng
Bình; diện tích 177,5m² đã được UBND thành phố Đ cấp GCNQSDĐ số
AC186571 mang tên ông Lê Quang C, bà Trần Thị H1;
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số QBI.BĐDN.07.220415 ngày
27/4/2015 được kết giữa ông Công Đ, Phạm Thị Q Ngân hàng
248.8m² đất tại thửa đất số 19, tờ bản đồ số 52 phường Đ, thành phố Đ, tỉnh
Quảng Bình đã được UBND thị (nay thành phố) Đồng Hới cấp
GCNQSDĐ số Y 347167 ngày 04/12/2003 mang tên hộ ông Công Đ,
Phạm Thị Q.
Tại quyết định Giám đốc thẩm số 21/2021/KDTM-GĐT ngày 30/11/2021,
Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng quyết định: Hủy toàn
bộ Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 02/2020/KDTM-PT ngày
20/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, giữ nguyên Bản án kinh
doanh, thương mại sơ thẩm s27/2019/KDTM-ST ngày 16/12/2019 của Tòa án
nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Bản án kinh doanh, thương
mại sơ thẩm số 27/2019/KDTM-ST ngày 16/12/2019 của Tòa án nhân dân thành
phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình có hiệu lực pháp luật thi hành.
Tại quyết định Giám đốc thẩm số 18/2024/KDTM-GĐT ngày 24/9/2024
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quyết định: Hủy quyết định
Giám đốc thẩm s 21/2021/KDTM-GĐT ngày 30/11/2021 của Ủy ban Thẩm
phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng; hủy Bản án kinh doanh, thương mại
phúc thẩm số 02/2020/KDTM- PT ngày 20/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Bình; hủy Bản án kinh doanh, thương mại thẩm số 27/2019/KDTM-
ST ngày 16/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng
Bình.
Tại phiên tòa phúc thẩm Ngân hàng thừa nhận Cơ quan Thi hành án dân
sự đã xử lý tài sản thế chấp của ông Lê Quang C, bà Trần Thị H1; tính đến ngày
xét xử phúc thẩm 16/12/2024 Công ty V đã trả hết nợ gốc, còn nợ 3.758.218.133
đồng tiền lãi; trong đó n lãi trong hạn 167.741.629 đồng, nợ lãi quá hạn
3.567.533.047 đồng, phạt 22.943.457 đồng nên buộc Công ty V tiếp tục trả nợ;
nếu không trả nợ thì yêu cầu được xử lý tài sản thế chấp của ông Công Đ, bà
Phạm Thị Q. Bị đơn thừa nhận đã trả hết nợ gốc và một số nợ lãi, hiện nay còn
nợ 3.758.218.133 đồng tiền lãi; do Công ty đã giải thể từ năm 2017 nên đề ngh
Ngân hàng M1, giảm 50% tiền lãi; ông Đ, Q những người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan yêu cầu giữ nguyên Bản án thẩm. Các đương sự không
thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án.
7
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa
phúc thẩm phát biểu quan điểm: Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm các đương sự và
người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân
sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xchấp nhận kháng cáo của Ngân hàng
để sửa Bản án thẩm theo hướng buộc Công ty V trả nợ lãi còn lại cho Ngân
hàng; không chấp nhận yêu cầu độc lập của Thị Hải Y; trường hợp Công
ty V không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì ông Lê M,
Trần Thị H nghĩa vụ phải trả nợ thay cho Công ty V toàn bộ số nợ
Công ty V phải trả, theo thỏa thuận tại Chứng thư bảo lãnh được kết ngày
13/5/2016 giữa Ngân hàng với ông M, H. Khi ng ty V không trả được nợ,
ông M, Trần Thị H không thực hiện nghĩa vụ trả nthay cho Công ty V
thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thẩm quyền phát mại tài sản tại hợp
đồng thế chấp số QBI.BĐDN.07.220415 ngày 27/4/2015 được kết giữa ông
Công Đ, Phạm Thị Q Ngân hàng đthu hồi nợ; buộc ông Đ, Q trả
lại GCNQSDĐ số Y 347167 ngày 04/12/2003 mang tên hộ ông Công Đ,
Phạm Thị Q cho Ngân hàng. Ngân hàng không phải chịu án phí kinh doanh
thương mại thẩm phúc thẩm được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp;
Hà Thị Hải Y phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Sau khi xem xét nội dung kháng cáo, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã
được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; kết quả tranh luận, ý kiến của Kiểm sát
viên, Ngân hàng, Công ty V và những người liên quan vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ngày 16 tháng 12 năm 2019 Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới,
tỉnh Quảng Bình xét xvà ban hành Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm s
27/2019/KDTM ST. Ngày 28 tháng 12 năm 2019 Ngân hàng kháng cáo bản án
thẩm. Đơn kháng cáo của Ngân hàng làm trong hạn luật định đã nộp tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm đúng quy định tại Điều 272 Điều 273 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, nên chấp nhận đơn kháng o của Ngân hàng để xét
xử phúc thẩm.
[2] Kháng cáo của Ngân hàng về việc không chấp nhận tuyên bố hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất số QBI.BDDN.07.220415 ngày 27/4/2015
được ký kết giữa ông Hà Công Đ, bà Phạm Thị Q và Ngân hàng bị vô hiệu thấy:
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số QBI.BĐDN.07.220415 ngày
27/4/2015 được kết giữa ông Công Đ, Phạm Thị Q với Ngân hàng A -
Chi nhánh Q2 hình thức đảm bảo đúng quy định tại Điều 343 Bộ luật Dân sự
năm 2005, Hợp đồng người làm chứng theo quy định khoản 2 Điều 47 Luật
Công chứng năm 2014 được công chứng tại Phòng C1 tỉnh Quảng Bình đúng
8
thủ tục theo quy định của Luật Công chứng năm 2014. Tài sản thế chấp thửa
đất số 19, tờ bản đồ số 52 phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Thửa đất
này có nguồn gốc do cụ ông Hà Công T1 cụ Nguyễn Thị L (là cha mẹ của
ông Đ) tạo lập khi còn sống. Ông Đ sống cùng hai cụ trên thửa đất này, khi hai
cụ chết, ông Đ tiếp tục quản lý, sử dụng, khai đăng được Ủy ban nhân
dân thị (nay thành phố) Đ, tỉnh Quảng Bình cấp GCNQSDĐ số Y347167
ngày 04/12/2003 mang tên hộ ông Hà Công Đ, bà Phạm Thị Q.
[3] Tại h cấp GCNQSDĐ số Y347167 ngày 04/12/2003 thể hiện
người sử dụng đất ông Đ, bà Q; không thể hiện thông tin các thành viên khác.
Tại Công văn số 422/UBND-TNMT ngày 15/3/2019 của Ủy ban nhân dân thành
phố Đ xác nhận tại thời điểm đăng cấp GCNQSDĐ, hồ thhiện thông tin
người sử dụng đất là ông Đ, bà Q (không thể hiện thông tin của người khác) nên
GCNQSDĐ ghi cấp cho Hộ” ông Công Đ, Phạm Thị Q sai sót của
quan cấp GCNQSDĐ. Khi ký kết hợp đồng thế chấp tại Văn phòng C2 tỉnh
Quảng Bình, ông Đ, bà Q Văn bản cam đoan quyền sử dụng đất là tài sản của
ông Đ, Q, không liên quan đến các con. Do đó, mặc GCNQSDĐ số
Y347167 ngày 04/12/2003 ghi là hộ ông Đ, bà Q nhưng người có quyền sử dụng
đất là ông Đ, bà Q.
[4] Như vậy, việc ông Đ, bà Q thế chấp quyền sử dụng đất của mình cho
Ngân hàng để đảm bảo vốn vay cho Công ty V đúng quy định tại Điều 188
Luật Đất đai năm 2013. Tòa án cấp thẩm xác định GCNQSDĐ số Y347167
ngày 04/12/2003 cấp cho hộ gia đình nên các thành viên trong hộ đều quyền
đối với diện tích đất này, không xem xét nguồn gốc sdụng đất, h cấp
GCNQSDĐ, từ đó tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
QBI.BDDN.07.220415 ngày 27/4/2015 được kết giữa ông Công Đ,
Phạm Thị QNgân hàng V1 là không có cơ sở.
[5] Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 28/4/2020 thể hiện trên
thửa đất số 19, tờ bản đồ 52 phường Đ, thành phố Đ đang thế chấp tại Ngân
hàng, ngoài ngôi nhà hai tầng của ông Đ, bà Q n ngôi nhà cấp bốn của cha
mẹ ông Đ để lại, hiện tại ông Công Đ1 đang sử dụng. Ông Đ, bà Q thể chấp
quyền sử dụng đất, không thế chấp tài sản trên đất, nên khi hợp đồng thể
chấp không cần phải ý kiến của anh Đ1. Mặt khác, ông ng Đ1 không
kháng cáo, nội dung này không bị kháng nghị nên cấp phúc thẩm không xem
xét.
[6] Tại phiên tòa phúc thẩm người quyền lợi liên quan vụ án ông
Công Đ1, Thị P và Thị N yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét thửa đất
số 19, tờ bản đồ 52 phường Đ, thành phố Đ di sản thừa kế của bố mẹ các ông,
để lại làm nơi thờ cúng nên không chấp nhận để vợ chồng ông Đ thế chấp
cho Ngân hàng thấy: Tại cấp thẩm và phiên tòa phúc thẩm ngày 20/7/2020
9
những người có quyền lợi liên quan không yêu cầu chia di sản thừa kế tài sản
vợ chồng ông Đ đã thế chấp cho Ngân hàng, hơn nữa tại cấp thẩm những
người quyền lợi liên quan không yêu cầu độc lập, sau khi xét xử thẩm
không kháng cáo, nội dung này không bkháng nghị; do đó cấp phúc thẩm
không xem xét.
[7] Từ phân tích tại các mục [2], [3], [4], [5] [6] thấy, kháng cáo của
Ngân hàng về việc không chấp nhận tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất số QBI.BDDN.07.220415 ngày 27/4/2015 được ký kết giữa ông Công Đ,
Phạm Thị Q Ngân hàng bị hiệu căn cứ; do đó cần chấp nhận để
sửa Bản án sơ thẩm theo hướng duy trì hợp đồng thế chấp này để đảm bảo nghĩa
vụ trả nợ cho Công ty V.
[8] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm tuyên buộc Công ty V trả nợ
cho Ngân hàng 4.849.554.305 đồng; trong đó, tiền gốc 3.520.000.000 đồng,
lãi trong hạn 918.102.657 đồng, lãi quá hạn 375.579.965 đồng, lãi chậm trả
35.871.683 đồng duy trì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
QBI.BDDN.03.050314 ngày 11/3/2014 được kết giữa bên thế chấp ông
Quang C, Trần Thị H1 bên nhận thế chấp Ngân hàng; án phí thẩm không
kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực thi hành.
[9] Tuy nhiên, do Bản án sơ thẩm và phúc thẩm hai lần giải quyết theo thủ
tục Giám đốc thẩm nên đã kéo dài thời gian thi hành án. Tại Công văn số
2656/CCTHADS ngày 04/11/2024 của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố
Đồng Hới thông báo kết quả thi hành án thì đơn vnày đã trả lại GCNQSDĐ số
Y347167 ngày 04/12/2003 cho ông Đ, Q. Phạt mại tài sản thế chấp tại hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất số QBI.BDDN.03.050314 ngày 11/3/2014
được kết giữa ông Quang C, Trần Thị H1 và Ngân hàng để trả nợ cho
Ngân hàng 3.725.528.095 đồng (trong đó 3.520.000.000 đồng nợ gốc
205.528.095 đồng nợ lãi); tính đến ngày xét xử phúc thẩm 16/12/2024 ng ty
V còn phải thi hành theo Bản án thẩm 1.124.026.210 đồng tiền lãi phát
sinh sau khi xét xử thẩm ván cho đến khi thi hành xong tiền gốc. Việc Chi
Cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới xử tài sản thế chấp của ông C,
H1 đtrả nợ cho Ngân hàng đúng quy định, quyết định Giám đốc thẩm
không ảnh hưởng đến tài sản thế chấp này nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp
nhận để khấu trừ vào việc trả nợ cho Công ty V.
[10] Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Ngân hàng đại diện Công ty V
thừa nhận tính đến ngày xét x phúc thẩm 16/12/2024 Ngân hàng đã trả lại
GCNQSDĐ số Y347167 ngày 04/12/2003 cho ông Đ, bà Q; Cơ quan thi hành án
dân sự đã phát mại tài sản thế chấp tại hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
QBI.BDDN.03.050314 ngày 11/3/2014 được kết giữa ông Quang C,
Trần Thị H1 Ngân hàng; quan thi hành án dân sự đã chuyển thanh toán
10
cho Ngân hàng 3.725.528.095 đồng (trong đó 3.520.000.000 đồng nợ gốc
205.528.095 đồng nợ lãi). Tính đến ngày xét xử phúc thẩm 16/12/2024 Công ty
V đã trả hết nợ gốc, còn nợ 3.764.804.367 đồng nợ lãi; trong đó 1.124.026.210
đồng nợ lãi theo Bản án sơ thẩm và 2.640.778.157 đồng nợ tiền lãi phát sinh sau
khi xét xử thẩm ngày 16/12/2019 cho đến ngày 25/7/2024 (ngày trả hết nợ
gốc). Do đó, cần sửa Bản án sơ thẩm theo hướng buộc Công ty V phải trả toàn
bộ nợ lãi tính đến ngày xét xử phúc thẩm 16/12/2024.
[11] Đại diện Công ty V yêu cầu Tòa án xem xét miễn, giảm 50% stiền
lãi thấy: Tòa án cấp phúc thẩm không thẩm quyền miễn, giảm tiền lãi cho
Công ty V; tuy nhiên hiện nay Công ty V đã phá sản, không còn hoạt động nên
yêu cầu Ngân hàng xem xét miễn, giảm một phần tiền lãi cho Công ty V theo
quy định của pháp luật.
[12] Tại biên bản ghi lời khai ngày 13/11/2024 và tại phiên tòa phúc thẩm
ông Đ, Q thừa nhận đã nhận lại GCNQSDĐ số Y347167 ngày 04/12/2003,
hiện nay ông bà chưa thế chấp, cầm cố, chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng
đất tài sản trên đất đối với thửa đất số 19, Tờ bản đồ số 52 phường Đ, thành
phố Đ. Do cấp phúc thẩm xác định ông Đ, Q thế chấp tài sản cho Ngân hàng
đúng quy định nên cần buộc ông Đ, Q1 trả lại GCNQSDĐ số Y347167 ngày
04/12/2003 để Ngân hàng giữ nhằm đảm bảo tài sản thế chấp theo quy định.
[13] Tại cấp thẩm bà Thị Hải Y đơn yêu cầu độc lập yêu cầu
xem xét thửa đất số 19, tờ bản đồ số 52 phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng
Bình tài sản chung của hộ gia đình, nhưng nphân tích tại mục [7] thì cấp
phúc thẩm không chấp nhận thửa đất tài sản của hộ gia đình nên không chấp
nhận yêu cầu độc lập của Y buộc Y phải chịu 3.000.000 đồng án phí
kinh doanh thương mại thẩm. Theo công văn của quan thi hành án dân s
thành phố Đ thì quá trình thi hành án Y đã nộp 3.000.000 đồng (300.000
đồng tại Biên lai s0000727 ngày 04/12/2018 2.700.000 đồng tại Biên lai số
0002867 ngày 13/4/2021) tại Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới.
Tại Biên lai số PC 2022/83 ngày 16/02/2022 của Chi Cục Thi hành án dân s
thành phố Đồng Hới đã trả lại cho Y 3.000.000 đồng; do đó cần buộc bà Y
nộp 3.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
[14] Ngân hàng kháng cáo được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận nên
không phải chịu án phí kinh doanh thương mại thẩm phúc thẩm. Theo
công văn của quan thi hành án dân sự thành phố Đ thì quá trình thi hành án
quan này đã trả cho Ngân hàng 56.031.000 đồng cho Ngân ng qua ủy
nhiệm chi số 2021:193/210423 1054964 1511003 ngày 23/4/2021; ngày
17/01/2022 Ngân hàng nộp 3.000.000 đồng án phí tại Biên lai số 0001569; hiện
nay số tiền này quan Thi nh án dân sự thành phố Đ đã sung ng, do đó
cần thoái thu ngân sách số tiền này để trả lại cho Ngân hàng.
11
[15] Bản án thẩm buộc ng ty V phải chịu 112.849.554 đồng án phí
kinh doanh thương mại thẩm nội dung này không bị kháng cáo, không bị
kháng nghị hiệu lực thi hành; tại Công văn số 2656/CCTHADS ngày
04/11/2024 của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới thông báo kết
quả thi hành án thì đơn vị này đã thu sung công 112.849.554 đồng tiền án phí
kinh doanh thương mại thẩm của Công ty V theo đúng quy định nên Hội
đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 272, Điều 273, Điều 293, khon 2 Điều 308
khoản 1 Điều 309 của B lut T tng dân s năm 2015. Áp dụng Điều 343 của
Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 188 Luật Đất đai năm 2013; khoản 2 Điều 47
Luật Công chứng 2014; khoản 2 Điều 29 Ngh quyết s 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 ca U ban Thường v Quc Hội quy định v mc thu, min,
gim, thu, np, qun lý, s dng án phí và l phí Toà án, x:
1. Chấp nhận đơn kháng cáo của Ngân hàng Thương mại cổ phần Á để
sửa Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 27/2019/KDTM - ST 16/12/2019
của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Á.
Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn V phải trả cho Ngân hàng Thương mại cổ
phần Á 3.725.528.095 đồng tiền lãi.
3. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử phúc thẩm 16/12/2024 Công ty
trách nhiệm hữu hạn V còn phải chịu trả lãi chậm trả lãi 10%/năm theo hợp
đồng tín dụng số QBLDN.01.090516, ngày 10/3/2017 kết hợp đồng sửa đổi,
bổ sung số QBI.DN.01.090516/SĐBS 01 và hợp đồng sửa đổi, bổ sung số
QBI.DN.01.090516/SĐBS- 02 ngày 14/6/2017, kết giữa Ngân hàng thương
mại cổ phần ÁCông ty trách nhiệm hữu hạn V.
4. Trong trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn V không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ lãi thì ông Lê M, bà Trần Thị H
nghĩa vụ phải trả nợ thay cho Công ty trách nhiệm hữu hạn V toàn bộ số nợ lãi
Công ty V phải trả, theo thỏa thuận tại Chứng thư bảo lãnh được ký kết ngày
13/5/2016 giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Á và ông Lê M, bà Trần Thị H.
5. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của Thị Hải Y về việc tuyên
bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số QBI BĐDN.07.220415 ngày
27/4/2015 được kết giữa ông Công Đ, Phạm Thị Q Ngân hàng
Thương mại cổ phần Á ngày 27/4/2015 vô hiệu.
6. Trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn V không trả được nợ; ông
M, Trần Thị H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho Công ty trách
nhiệm hữu hạn V theo Chứng thư bảo lãnh kết ngày 13/5/2016 giữa ông
12
M, Trần Thị H Công ty trách nhiệm hữu hạn V thì Ngân hàng thương mại
cổ phần Á quyền yêu cầu quan thẩm quyền phát mại tài sản theo hợp
đồng thế chấp tài sản quyền s dụng đất số QBI.BĐDN.07.220415 ngày
27/4/2015 được kết giữa ông Công Đ, Phạm Thị Q Ngân hàng
thương mại cổ phần Á để đảm bảo thu hồi nợ.
7. Buộc ông Hà Công Đ, bà Phạm Thị Q trả lại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số Y347167 ngày 04/12/2003 mang tên ông Đ, Q cho Ngân hàng
Thương mại cổ phần Á1.
8. Ngân hàng Thương mại cổ phần Á được nhận lại 5.000.000 đồng đã
nộp (2.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại biên lai số
0005698 ngày 06/01/2020 3.000.000 đồng tiền án phí đã nộp tại biên lai số
0001569 ngày 17/01/2022) của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng
Hới, tỉnh Quảng Bình.
9. Thị Hải Y phải chịu 3.000.000 đồng án phí kinh doanh thương
mại sơ thẩm.
10. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9
Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 16/12/2024.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Quảng Bình;
- VKSNDCC tại Đà Nẵng;
- TAND thành phố Đồng Hới;
- CCTHADS thành phố Đồng Hới;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án;
.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ã ký)
Nguyễn Văn Nghĩa
13
Tải về
Bản án số 13/2024/KDTM Bản án số 13/2024/KDTM

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 13/2024/KDTM Bản án số 13/2024/KDTM

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất