Bản án số 19/2024/KDTM-PT ngày 23/12/2024 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 19/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 19/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 19/2024/KDTM-PT
Tên Bản án: | Bản án số 19/2024/KDTM-PT ngày 23/12/2024 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp hợp đồng tín dụng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tín dụng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Thái Nguyên |
Số hiệu: | 19/2024/KDTM-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/12/2024 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | . Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Ngân hàng TMCP Đ; giữ nguyên Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 24/2024/KDTM-ST ngày 23/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THÁI NGUYÊN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án s: 19/KDTM-PT
Ngày: 23/12/2024
V/ v: Tranh chấp Hợp đồng tín dụng
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Quý Sửu
Các thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Quế và bà Nguyễn Thị Thuỷ
- Thư ký phiên tòa: Bà Lương Thị Thuý Linh, Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Thái Nguyên
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên: Bà Lý Hoà, Kiểm
sát viên.
Ngày 23/12/2024, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên,
xét xử phúc thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý s
20/2024/KDTM-PT ngày 04/10/2024, về việc tranh chấp Hợp đồng tín dụng.
Do bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm s 24/2024/KDTM-ST ngày
23/7/2024 của Tòa án nhân dân thành ph Phổ Yên có kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử s 194/2024/QĐ-PT ngày
04/11/2024; giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ (S1); địa chỉ: S A T,
phường L, quận H, thành ph Hà Nội; đại diện theo uỷ quyền: Ông Trần Hải V;
Chuyên viên xử lý nợ; có mặt.
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1981 và bà Cao Thị N, sinh năm
1988; đều có địa chỉ: xóm H, xã V, thành ph P, tỉnh Thái Nguyên; có đơn xin
xét xử vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1970; địa chỉ: tổ dân ph H, phường N,
thành ph P, tỉnh Thái Nguyên; vắng mặt
2. Ông Trần Quc T1, sinh năm 1958; địa chỉ: tổ dân ph H, phường N,
thành ph P, tỉnh Thái Nguyên; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Trần Quốc T1: Luật sư
Phùng Đức T2, luật sư Nguyễn Thị T3, Văn phòng L, Đoàn luật sư tỉnh T; có
mặt
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn Ngân hàng TMCP Đ (S1) trình bày:
Năm 2019, ông Nguyễn Văn S, bà Cao Thị N ký 03 hợp đồng tín dụng
vay vn tại S1, cụ thể:
1. Hợp đồng tín dụng theo hạn mức s REF1911300117/HDTD/TNA-TVS
ký ngày 24/4/2019 với hạn mức tín dụng 1.300.000.000 đồng; mục đích vay
vn: Bổ sung vn lưu động phục vụ hoạt động kinh doanh; thời hạn vay: 06
tháng kể từ ngày 25/4/2019 đến ngày 25/10/2019; lãi suất cho vay tại thời điểm
giải ngân là 11,1%/năm, c định trong 06 tháng; lãi suất quá hạn bằng 150% lãi
suất trong hạn được áp dụng đi với dư nợ gc quá hạn và/hoặc bằng 10%/năm
áp dụng với dư nợ lãi chậm trả.
2. Hợp đồng hạn mức thấu chi s REF1911300125/HDTD/TNA-PTK ký
ngày 25/4/2019 với hạn mức 80.000.000 đồng; mục đích vay vn: Tiêu dùng cá
nhân; thời hạn vay: 12 tháng, kể từ ngày 25/4/2019 đến ngày 25/4/2020; lãi suất
cho vay tại thời điểm giải ngân là 22,4%/năm; lãi suất cho vay bằng lãi suất
VND kỳ hạn 14 tháng của sản phẩm tiết kiệm lĩnh lãi cui kỳ đi với khách
hàng cá nhân của S1 đang áp dụng tại thời điểm điều chỉnh với biên độ
14%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn được áp dụng đi với
dư nợ gc quá hạn và/hoặc bằng 10%/năm áp dụng với dư nợ lãi chậm trả.
3. Hợp đồng hạn mức, phát hành, sử dụng thẻ tín dụng Visa ngày
05/4/2019 với hạn mức tín dụng là 20.000.000 đồng, lãi quá hạn được thực hiện
theo biểu lãi suất được niêm yết trên website chính thức của S1, biến động theo
từng thời kỳ.
Thực hiện các hợp đồng nêu trên, S1 đã giải ngân cho ông Nguyễn Văn S
và bà Cao Thị N s tiền 1.400.000.000 đồng.
Tài sản bảo đảm cho khoản vay là toàn bộ quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở, tài sản gắn liền với đất tại thửa đất s 371, tờ bản đồ s 20, diện tích
1029m
2
tại xã N, thị xã P (nay là phường N, thành ph P), tỉnh Thái Nguyên, Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 18/4/2019 mang tên
ông Nguyễn Văn S. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất được công chứng và
đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định pháp luật.
Quá trình thực hiện các hợp đồng tín dụng nêu trên, ông Nguyễn Văn S, bà
Cao Thị N đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ gc và nợ lãi cho S1. Tính đến ngày xét
xử sơ thẩm 22/7/2024, ông S, bà N còn nợ 2.588.523.645 đồng, gồm nợ gc là:
1.391.639.174 đồng; lãi trong hạn là: 22.372.630 đồng; lãi quá hạn là:
1.174.511.841 đồng.
Đại diện S1 yêu cầu Toà án các yêu cầu như sau:
1. Buộc ông Nguyễn Văn S, bà Cao Thị N thanh toán cho S1 khoản nợ theo
Hợp đồng tín dụng nêu trên, gồm nợ gc, lãi trong hạn, lãi quá hạn tính đến
ngày 22/7/2024 là: 2.588.523.645 đồng.
3
Ông Nguyễn Văn S, bà Cao Thị N phải tiếp tục trả nợ cho S1 s tiền nợ lãi,
phạt, phí phát sinh theo lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn quy định tại các
hợp đồng tín dụng đã ký với S1 kể từ ngày 23/7/2024 cho đến khi thanh toán
xong khoản nợ;
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, nếu ông Nguyễn Văn S và bà Cao
Thị N không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thanh toán khoản nợ
nêu trên thì S1 có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự tiến hành kê biên,
phát mại tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa
đất s 371, tờ bản đồ s 20, diện tích 1029 m
2
tại phường N, thành ph P, tỉnh
Thái Nguyên để thu hồi toàn bộ khoản nợ còn lại cho S1;
Trường hợp s tiền phát mại/thu hồi từ tài sản bảo đảm vẫn không đủ trả nợ
cho S1, thì ông Nguyễn Văn S và bà Cao Thị N phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ
trả nợ cho S1 cho đến khi tất toán toàn bộ khoản vay.
Bị đơn ông Nguyễn Văn S và bà Cao Thị N trình bày:
Ông S và bà N thừa nhận có vay tiền của S1 vào khoảng tháng 4/2019, với
khoản tiền vay hạn mức tín dụng là 1.300.000.000 đồng, vay hạn mức thấu chi
là 80.000.000 đồng, vay hạn mức visa là 20.000.000 đồng. Mục đích vay vn để
kinh doanh chăn nuôi gia súc. Cui năm 2019, do chăn nuôi lâm vào tình trạng
khó khăn, tình hình dịch bệnh phức tạp nên vợ chồng ông làm ăn thua lỗ và
không có khả năng thanh toán cho ngân hàng. Nay, đề nghị S1 tạo điều kiện cho
vợ chồng ông được trả dần khoản nợ nói trên. Nếu không trả được, đồng ý để cơ
quan thi hành án có thẩm quyền xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất tại
thửa đất s 371, tờ bản đồ s 20, tại phường N, thành ph P và toàn bộ tài sản
gắn liền với đất.
Quá trình giải quyết vụ án, thể hiện một phần thửa đất s 371, tờ bản đồ s
20, diện tích 605m
2
hiện đang do ông Trần Quc T1 mua của chủ đất cũ từ lâu
và sử dụng ổn định từ năm 2004 cho đến nay. Tuy nhiên, do ông T1 chưa làm
thủ tục sang tên nên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông S, bà N
vẫn thể hiện thửa đất s 371 có diện tích 1029m
2
. Nội dung này đến khi Toà án
xem xét thẩm định ông S và bà N mới phát hiện ra. Đi với yêu cầu của ông T1
về việc đề nghị tuyên b vô hiệu một phần hợp đồng thế chấp giữa S1 và ông S,
bà N đi với diện tích 605m
2
tại thửa đất s 371, ông bà đề nghị giải quyết theo
quy định pháp luật.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T trình bày:
Toàn bộ thửa đất s 371, tờ bản đồ s 20, địa chỉ: phường N, thành ph P
có nguồn gc của b mẹ bà T là ông Nguyễn Văn P và bà Trần Thị Q, được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Q. Năm 2018 bà Q đã tặng cho
riêng bà T thửa đất nói trên, bà T được UBND huyện P cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ngày 20/11/2018. Năm 2019, bà T đã chuyển nhượng thửa
đất nói trên cho ông Nguyễn Văn S. Sau khi bán đất cho ông S, bà T vẫn đang
quản lý, sử dụng nhà đất nói trên.
Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ đi với thửa đất s 371, xác định một
4
phần thửa đất diện tích 605m
2
hiện đang do ông Trần Quc T1, địa chỉ: tổ dân
ph H, phường N, thành ph P, tỉnh Thái Nguyên quản lý, sử dụng. Bà T không
biết phần đất ông T1 quản lý, sử dụng là một phần của thửa đất s 371. Bản thân
bà T sau khi ly hôn mới chuyển về sinh sng tại tổ dân ph H và được mẹ đẻ
tặng cho thửa đất 371, khi làm thủ tục tặng cho bà T không biết về tổng diện tích
được tặng cho, sau đó chuyển nhượng đất cho ông S cũng không thấy cơ quan
nhà nước thông báo gì. Đến khi Toà án tiến hành xem xét thẩm định thì bà mới
biết việc này. Bà T thừa nhận trước đây nhà bà có một cái ao, ông T1 đã mua
của gia đình bà và quản lý sử dụng từ lâu, ranh giới giữa nhà bà và nhà ông T1
là bức tường chia thửa đất s 371 thành hai phần giữa nhà bà T và nhà ông T1
được xây từ khoảng năm 2004.
Ông Trần Quốc T1 trình bày:
Thửa đất s 371, tờ bản đồ s 20, ông S thế chấp để vay tiền ngân hàng có
một phần diện tích hiện đang do gia đình ông quản lý sử dụng. Lý do ông T1
quản lý, sử dụng diện tích 605 m2 của thửa đất s 371 nói trên, ông mua của ông
Nguyễn Văn P là b mẹ đẻ của bà T từ năm 2004, trước đây là 01 cái ao với giá
40.000.000 đồng. Ông và ông P có lập giấy tờ mua bán viết tay, nhưng chưa làm
thủ tục sang tên. Sau khi mua đất, ông đã xây 01 bức tường rào bằng gạch vôi
phân cách giữa đất ao ông mua với đất nhà ông P vào năm 2004 và sử dụng diện
tích đất này ổn định từ đó cho đến nay, không có tranh chấp với ai. Năm 2022,
ông T1 lấp diện tích ao này để cải tạo thành vườn trồng cây. Ông T1 đề nghị
Toà án tuyên b vô hiệu một phần hợp đồng thế chấp thửa đất s 371 giữa S1
với vợ chồng ông S, bà N đi với diện tích đất 605 m2 ông đã mua của vợ
chồng ông P từ trước.
Tại bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm s 24/2024/KDTM-ST ngày
23/7/2024 của Tòa án nhân dân thành ph Phổ Yên đã quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của S1:
1.1 Buộc ông Nguyễn Văn S và bà Cao Thị N thanh toán cho S1 khoản nợ
theo Hợp đồng tín dụng theo hạn mức s REF1911300117/HDTD/TNA-TVS ký
ngày 24/04/2019; Hợp đồng hạn mức thấu chi s REF1911300125/HDTD/TNA-
PTK ký ngày 25/04/2019 và Hợp đồng hạn mức, phát hành, sử dụng thẻ tín
dụng Visa ngày 05/04/2019 s tiền tạm tính đến ngày 22/7/2024 là:
2.588.523.645 đồng. Cụ thể như sau: nợ gc là: 1.391.639.174 đồng; nợ lãi
trong hạn là: 22.372.630 đồng; nợ lãi quá hạn là: 1.174.511.841 đồng;
1.2. Buộc ông Nguyễn Văn S và bà Cao Thị N phải tiếp tục trả nợ cho S1
s tiền nợ lãi, phạt, phí phát sinh theo lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn quy
định tại các hợp đồng tín dụng đã ký với S1 kể từ ngày 23/7/2024 cho đến khi
thanh toán xong khoản nợ;
1.3. Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, nếu ông Nguyễn Văn S và bà
Cao Thị N không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thanh toán
khoản nợ nêu trên thì S1 có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự tiến
hành kê biên, phát mại, bán/chuyển nhượng tài sản bảo đảm của khoản vay là:
5
Toàn bộ quyền sử dụng 463,1m
2
đất ở và quyền sở hữu nhà ở, tài sản gắn liền
với đất tại thửa đất s 371, tờ bản đồ s 20, địa chỉ: Xã N, thị xã P (nay là
phường N, thành ph P), tỉnh Thái Nguyên theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất s CR 036411, s
vào sổ cấp GCN: CS00747 do Sở tài Nguyên và môi trường tỉnh T cấp ngày
18/04/2019 cho ông Nguyễn Văn S để thu hồi toàn bộ khoản nợ còn lại cho S1;
1.4. Trường hợp s tiền phát mại/thu hồi từ tài sản bảo đảm vẫn không đủ
trả nợ cho S1, thì ông Nguyễn Văn S và bà Cao Thị N phải tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ trả nợ cho S1 cho đến khi tất toán toàn bộ khoản vay.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của S1, chấp nhận yêu cầu
độc lập của ông Trần Quc T1. Tuyên b:
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất s REF1911300117/HDTC/TNA-
NVS ngày 24 tháng 4 năm 2019, s công chứng 1520, quyển s 01 giữa S1 và
ông Nguyễn Văn S, bà Cao Thị N bị vô hiệu một phần liên quan đến tài sản thế
chấp là diện tích 605m
2
của thửa đất s 371, tờ bản đồ s 20, địa chỉ thửa đất tại
phường N, thành ph P, tỉnh Thái Nguyên.
Trường hợp bị đơn không trả được nợ thì S1 không có quyền yêu cầu xử lý,
phát mại đi với diện tích 605m
2
của thửa đất s 371, tờ bản đồ s 20, địa chỉ
thửa đất tại phường N, thành ph P, tỉnh Thái Nguyên mà ông Trần Quc T1
đang quản lý, sử dụng. Ông T1 và ông S, bà N có trách nhiệm liên hệ với cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để thực hiện việc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất theo quy định. Nếu có phát sinh tranh chấp sẽ được giải quyết trong
vụ án khác.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí t tụng và quyền
kháng cáo của các đương sự.
Ngày 06/8/2024, nguyên đơn S1 có đơn kháng cáo một phần bản án sơ
thẩm. Nội dung kháng cáo, nguyên đơn không nhất trí với quyết định của bản án
sơ thẩm về việc tuyên phát mại một phần tài sản bảo đảm. Đề nghị Toà án cấp
phúc thẩm công nhận toàn bộ hợp đồng thế chấp quyền sử dụng thửa đất s 371,
tờ bản đồ s 20, diện tích 1.029 m2.
Tại phiên toà phúc thẩm: Nguyên đơn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo;
các đương sự giữ nguyên nội dung quan điểm trình bày tại Toà án cấp sơ thẩm.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Trần Quốc T1 trong phần
tranh luận trình bày:
Ông Trần Quc T1 nhận chuyển nhượng 605 m2 đất thuộc thửa 371 của
ông P, bà Q là b mẹ đẻ của bà T từ năm 2004. Mặc dù ông T1 chưa làm thủ tục
đăng ký sang tên theo quy định, nhưng ông T1 đã nhận đất, xây dựng bức tường
gạch ngăn cách thửa đất thành 02 phần riêng biệt và sử dụng liên tục từ năm
2004 đến nay. Việc sử dụng đất của ông T1 là có thật được các hộ dân, Tổ
trưởng dân ph, Ban công tác Mặt trận xác nhận.Theo quy định tại Điều 129 Bộ
luật dân sự năm 2015, Án lệ s 55 của Toà án nhân dân ti cao, thì thoả thuận
6
chuyển nhượng quyền sử dụng 605 m2 đất giữa ông P cho ông T1 được công
nhận có hiệu lực. Ngân hàng khi thẩm định ký hợp đồng thế chấp không làm rõ
lý do bức tường ngăn cách thửa đất làm hai phần riêng biệt; không làm rõ ai là
người trực tiếp quản lý, sử dụng đất; Ngân hàng chỉ định giá diện tích đất ở,
không định giá đất cây lâu năm là tài sản thế chấp. Vì vậy, Hợp đồng thế chấp
thửa đất s 371 giữa Ngân hàng với ông S, bà N không ngay tình. Đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên phát biểu quan điểm:
Thẩm phán chủ tọa, Hội đồng xét xử, các đương sự quan chấp hành đúng các
quy định của Bộ luật t tụng dân sự. Về nội dung giải quyết vụ án, đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp phần kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án
Kinh doanh thương mại sơ thẩm của Toà án nhân dân thành ph Phổ Yên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, sau khi nghe
đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, Hội đồng xt xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Nguyên đơn kháng cáo trong hạn luật định, đã nộp tạm ứng án phí phúc
thẩm được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung:
Xét kháng cáo của nguyên đơn về việc yêu cầu công nhận hợp đồng thế
chấp thửa đất số 371, tờ bản đồ số 20, diện tích 1.029 m2, giữa ông Nguyễn Văn
S, bà Cao Thị N với S1 thấy:
[2] Ông Trần Quc T1 khai, diện tích đất 605 m2 thuộc thửa 371, tờ bản đồ
s 20, diện tích 1.029 m2 (gọi tắt là thửa đất s 371), ông T1 đang sử dụng hiện
nay do ông T1 nhận chuyển nhượng của ông P, bà Q năm 2004 với giá
40.000.000 đồng. Ông T1 xuất trình Giấy bán đất, nội dung: Ngày 19/7 tức ngày
03/9/2004, ông Nguyễn Văn P là chồng bà Trần Thị Q viết giấy chuyển nhượng
cho ông bà T1 + Minh đất ao; hai bên tự thoả thuận cắm mc. Lời khai của bà T,
là người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó chuyển nhượng
cho ông S, bà N cũng xác định phần đất ông T1 sử dụng 605 m2 từ trước thời
điểm được mẹ đẻ là bà Q tặng cho.
[3] Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ và lời khai của các bên đương sự xác
định: Phần đất ông T1 nhận chuyển nhượng của ông P năm 2004 là đất Ao, phù
hợp với thực tế sử dụng đất, năm 2022 ông T1 đổ đất trên toàn bộ diện tích ao
để trồng cây như hiện tại. Phần diện tích đất ông T1 sử dụng với phần đất còn lại
được ngăn cách bằng tường rào xây bằng gạch vôi, cao trung bình 02 mét, dài
46,83 mét.
[4] Tại thời điểm năm 2019, khi S1 với ông S, bà N ký hợp đồng thế chấp
thửa đất s 371, ranh giới phía Tây theo hiện trạng thửa đất 371 là 01 tường rào
7
do ông T1 xây dựng. Tại Báo cáo kết quả định giá tài sản bảo đảm là bất động
sản ngày 19/4/2019 của S1 thể hiện mô tả thực địa ranh giới phía Tây của thửa
đất 371 là đường giao thông, diện tích tài sản bảo đảm là 1029m
2
, nhưng thực tế
diện tích chỉ còn 463,1m
2
. Việc mô tả trong hồ sơ thẩm định của ngân hàng
không đúng với hiện trạng sử dụng thửa đất.
[5] Những người là hàng xóm liền kề với phần đất hiện trạng thuộc thửa đất
s 371 ông T1 sử dụng và xác nhận của ông Tổ trưởng tổ dân ph H, ông T4
Ban công tác Mặt trận tổ dân ph H đều xác định, ông Trần Quc T1 nhận
chuyển nhượng phần đất ao của vợ chồng ông P, bà Q là b mẹ đẻ của bà T, xây
tường gạch vôi ngăn cách giữa hai phần đất, thuê máy múc đất, cải tạo làm ao
thả cá từ năm 2004 đến năm 2022 lấp ao để trồng cây và sử dụng liên tục cho
đến nay.
[6] Thời điểm Ngân hàng ký hợp đồng thế chấp thửa đất s 371 với ông S,
bà N ngày 24/4/2019, phần diện tích đất 605 m2 ông T1 đang quản lý sử dụng
làm ao thả cá. Diện tích đất này được ngăn cách với diện tích đất còn lại bằng
bức tường xây cao trung bình 02 mét, dài 46,83 mét, Ngân hàng không làm rõ lý
do vì sao thửa đất nhận thế chấp lại có bức tường xây chia thửa đất làm hai phần
và ai là người trực tiếp quản lý, sử dụng, nhưng vẫn ký hợp đồng thế chấp toàn
bộ thửa đất s 371, diện tích 1.029 m2 với ông S, bà N.
[7] Khoản 1 Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của
Chính phủ quy định về giao dịch bảo đảm quy định: “3. Bên nhận bảo đảm ngay
tình là bên nhận bảo đảm trong trường hợp không biết và không thể biết về việc
bên bảo đảm không có quyền dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự”.
Theo tinh thần hướng dẫn tại Phần III, mục 1 Giải đáp s: 02/TANDTC-PC
ngày 02 tháng 8 năm 2021 của Toà án nhân dân ti cao thì: Ngân hàng không
thẩm định, xác minh nên không biết ông T1 quản lý, sử dụng 605 m
2
trong thửa
đất nhận thế chấp. Trong trường hợp này, bên nhận thế chấp tài sản (Ngân hàng)
không phải là người thứ ba ngay tình theo quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ
luật Dân sự năm 2015, do vậy, hợp đồng thế chấp tài sản vô hiệu đi với phần
diện tích đất ông T1 nhận chuyển nhượng đang quản lý, sử dụng.
[8] Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng
về yêu cầu phát mại toàn bộ diện tích đất thửa 371 là tài sản thế chấp; chấp nhận
yêu cầu độc lập của ông Trần Quc T1, xác định hợp đồng thế chấp thửa đất s
371 giữa Ngân hàng với ông S, bà N vô hiệu đi với phần đất 605 m2 ông T1
quản lý sử dụng liên tục từ năm 2004 đến nay là có căn cứ.
Về n ph:
[9] Án phí phúc thẩm: Đương sự kháng cáo không được chấp nhận, nên
phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.
8
Bởi các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật t tụng dân sự; không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn Ngân hàng TMCP Đ; giữ nguyên Bản án Kinh doanh
thương mại sơ thẩm s 24/2024/KDTM-ST ngày 23/7/2024 của Tòa án nhân
dân thành ph Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
2. Án phí phúc thẩm: Ngân hàng TMCP Đ phải chịu 2.000.000 đồng án phí
Kinh doanh thương mại phúc thẩm; được trừ vào 2.000.000 đồng tạm ứng án phí
phúc thẩm theo biên lai thu s 0001797 ngày 08/8/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự thành ph Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
3. Các quyết định khác của Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm s
24/2024/KDTM-ST ngày 23/7/2024 của Tòa án nhân dân thành ph Phổ Yên,
tỉnh Thái Nguyên không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử
không xem xét và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Thái Nguyên;
- TAND thành ph Phổ Yên;
- Chi cục THADS TP. Phổ Yên;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Hoàng Quý Sửu
Tải về
Bản án số 19/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 19/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm