Bản án số 720/2024/DS-PT ngày 06/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 720/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 720/2024/DS-PT ngày 06/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 720/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Giữ nguyên bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ H
Bản án số: 720/2024/DS-PT
Ngày 06 tháng 9 năm 2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà,
đòi nhà, yêu cầu tuyên bố văn bản công
chứng vô hiệu, hủy Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất, hủy nội dung cập nhật và yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ trả tiền
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ H
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Hòa Hiệp
Các Thẩm phán: Ông Vương Minh Tâm
Bà Đinh Ngọc Thu Hương
- Thư phiên toà: Nguyễn Thị Châu Loan - Thư Toà án nhân dân
cấp cao tại Thành phố H.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H tham gia
phiên toà: Ông Nguyễn Văn Phượng - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 30 tháng 8 năm 2024 ngày 06 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án
nhân dân cấp cao tại Thành phố H t xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự
phúc thẩm thụ số: 433/2024/TLPT-DS ngày 29 tháng 5 năm 2024 về vụ án
“Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, đòi nhà, yêu cầu tuyên bố văn bản công
chứng hiệu, hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất,
hủy nội dung cập nhật và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trtiền”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 68/2024/DS-ST ngày 02 tháng 02 năm 2024
của Tòa án nhân dân Thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3009/2024/QĐ-PT
ngày 08 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị M, sinh năm 1954 (có mặt; vắng mặt lúc
tuyên án);
Địa chỉ: Số B, đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Phạm Thanh
D, sinh năm 1978; Địa chỉ liên lạc: Số B, đường D Phường A, Quận H, Thành
2
phố H (Hợp đồng ủy quyền lập ngày 03/3/2015 tại Phòng C3, Thành phố H, số
D, quyển số 3) (có mặt);
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Phạm
Thị Thanh H Công ty L4, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt);
Địa chỉ: P.903 - L.01, Tầng I, Tòa nhà D, số C L, phường B, Quận A,
Thành phố H.
- Bị đơn:
1/ Ông Vũ Duy M1, sinh năm 1960 (vắng mặt);
2/ Bà Nguyễn Thị Thanh X, sinh năm 1962 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số D N, Phường E, Quận C, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của đồng bị đơn: Ông Đồng Anh T, sinh năm
1973 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số F Đ, Phường H, quận T, Thành phố H (Giấy ủy quyền lập ngày
29/8/2018 tại Văn phòng C4, Thành phố H, số A, quyển số 08).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Huỳnh Minh H1, sinh năm 1957 (chết ngày 04/01/2021);
Người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông Huỳnh Minh H1:
Huỳnh Thị H2, sinh năm 1955 (vắng mặt);
Địa chỉ liên lạc: Số H, đường T, phường T, Quận G, Thành phố H.
2/ Bà Huỳnh Thị H2, sinh năm 1955 (vắng mặt);
Địa chỉ liên lạc: Số H, đường T, phường T, Quận G, Thành phố H.
3/ Ông Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1946 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số B, đường D Phường A, Quận H, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Đ: Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm
1977 (có mặt);
Địa chỉ: Số B L, phường B, Quận A, Thành phố H (Hợp đồng ủy quyền lập
ngày 02/4/2015 tại Văn phòng C5, Thành phố H, số C).
4/ Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1949 (vắng mặt);
Địa chỉ: D Belle Glade DR R, Hoa K.
5/ Ông Nguyễn Thanh H3, sinh năm 1950 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số B, Tổ I, Ấp D, xã L, huyện C, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Thanh H3 Nguyễn Thị
T2: Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1977 (có mặt);
Địa chỉ: Số B L, phường B, Quận A, Thành phố H (Hợp đồng ủy quyền của
Nguyễn Thị T2 lập ngày 09/4/2015 tại Đ4 tại Washington D, Hoa Kỳ chứng
nhận số: 147/CNLS-2015; Hợp đồng ủy quyền của ông Nguyễn Thanh H3 lập
ngày 02/4/2015 tại Văn phòng C5, số C).
6/ Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1958 (có mặt; vắng mặt lúc tuyên án);
Địa chỉ: Số E T, Khu phố E, phường T, Quận G, Thành phố H.
7/ Bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1959 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số G, Đường số E, phường T, quận B, Thành phố H.
8/ Bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1966 (có mặt; vắng mặt lúc tuyên án);
Địa chỉ: Số B, đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H.
9/ Bà Võ Thị Đ1, sinh năm 1968 (vắng mặt);
3
Địa chỉ: Số B, Lầu B, Chung T, số D Â, Phường D, Quận A, Thành phố
H.
10/ Bà Võ Thị T3, sinh năm 1969 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số A, khóm V, phường N, thị xã C, tỉnh An Giang.
11/ Ông Đặng Ngọc C1, sinh năm 1972 (vắng mặt);
12/ Bà Trần Thị Kim T4, sinh năm 1970 (vắng mặt);
13/ Chị Đặng Ngọc Kim N, sinh năm 2003 (vắng mặt);
14/ Trẻ Đặng Ngọc Bảo N1, sinh năm 2007 (vắng mặt);
Người đại diện theo pháp luật của trẻ Bảo N2: Ông Đặng Ngọc C1
Trần Thị Kim T4 (vắng mặt);
15/ Bà Nguyễn Thị Thanh T5, sinh năm 1983 (vắng mặt);
16/ Bà Nguyễn Thị T6, sinh năm 1954 (vắng mặt);
17/ Ông Nguyễn Vũ Vĩnh P1, sinh năm 1972 (vắng mặt);
18/ Bà Nguyễn Thụy Ngọc B, sinh năm 1973 (vắng mặt);
19/ Bà Phạm Thị Hồng L1, sinh năm 1985 (vắng mặt);
20/ Chị Nguyễn Ngọc Trúc M2, sinh năm 2005 (vắng mặt);
21/ Trẻ Nguyễn Vũ Thiên B1, sinh ngày 03/9/2006 (vắng mặt);
Người đại diện theo pháp luật của trẻ Thiên Bảo: Ông Nguyễn Vũ Vĩnh P1
(vắng mặt);
22/ Bà Nguyễn Phạm Thanh T7, sinh năm 1987 (vắng mặt);
23/ Trẻ Nguyễn Bảo N3, sinh năm 2016 (vắng mặt);
24/ Trẻ Nguyễn Bảo Y, sinh năm 2020 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số B, đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H;
Người đại diện theo pháp luật của hai trẻ Bảo N3 Bảo Y: Nguyễn
Phạm Thanh T7 ông Nguyễn Hoàng P2 (Ông Nguyễn Hoàng P2 sinh năm
1985 (vắng mặt);
Địa chỉ: E Ấp E, xã Đ, huyện B, Thành phố H;
25/ Phòng C3, Thành phố H;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Phương V, sinh năm 1991
(vắng mặt);
Cùng địa chỉ: I - I N, Phường G, Quận E, Thành phố H (Giấy ủy quyền
ngày 02/3/2020).
26/ Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H;
Trụ sở: Số 4, đường Dương Quang Đông, Phường 5, Quận 8, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lưu Quang Huy Q - Phó Trưởng phòng
- Phòng T13 (Giấy ủy quyền số 759/UBND-TNMT ngày 05/5/2021) (vắng mặt).
27/ Văn phòng C6, Thành phố H;
Trụ sở: Số 214/B2, đường Nguyễn Trãi, phường Nguyễn Trinh, Quận
1, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền: Nguyễn Thị H4, sinh năm 1987 (vắng
mặt);
Địa chỉ: Số B N, phường N, Quận A, Thành phố H (Giấy ủy quyền số
230/VPCC ngày 01/12/2021).
28/ Văn phòng C7 (tên cũ: Văn phòng C5), Thành phố H;
4
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Xuân T8 - Trưởng Văn phòng
(vắng mặt);
Địa chỉ: Số B, đường N, Phường F, Quận C, Thành phố H.
29/ Bà Võ Lan P3, sinh năm 1963 (vắng mặt);
Địa chỉ: A T, Lô C V, phường C, Quận A, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của bà P3:
29.1/ Bà Phạm Võ Phương D1, sinh năm 1984 (vắng mặt);
Địa chỉ: A T, Lô C V, phường C, Quận A, Thành phố H (Giấy ủy quyền lập
ngày 14/7/2020 tại Văn phòng C8, Thành phố H, số E, quyển số 07).
29.2/ Bà Nguyễn Thị T9, sinh năm 1985 (có mặt);
29.3/ Ông Dương Hồng D2, sinh năm 1997 (có đơn xin vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số F N, Phường A, Quận E, Thành phố H (Giấy ủy quyền lập
ngày 25/12/2020 tại Văn phòng C9, Thành phố H, số A, quyển số 12).
30/ Văn phòng Đăng ký đất đai Thành phố H;
Trụ sở: Số A, P, Phường G, quận B, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền: Nguyễn Thị Thanh T10, sinh năm 1977 -
Phó Giám đốc Chi nhánh Văn phòng Đ (vắng mặt);
Địa chỉ: D D, Phường E, Quận H, Thành phố H (Giấy ủy quyền số
6691/GUQ-VPĐK-HC ngày 27/7/2023).
31/ Ông Phạm Văn Đ2, sinh năm 1963 (vắng mặt);
Địa chỉ: Tổ C, ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh Long An.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn là Nguyễn Thị M; những người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thị T2
ông Nguyễn Thanh H3.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyên đơn Nguyễn Thị M (có ông Nguyễn Phạm Thanh D người
đại diện theo ủy quyền) trình bày:
Căn nhà sB đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H di sản thừa kế
do cha mẹ M là cụ Nguyễn Thanh S (chết năm 1972) cụ Nguyễn Thị N4
(chết năm 1998) để lại. Cụ S và cụ N4 chết không có di chúc.
Cụ Nguyễn Thanh S cụ Nguyễn Thị N4 08 người con chung: Ông
Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thị T2 (định Hoa Kỳ), ông Nguyễn Thanh
H3, ông Nguyễn Thanh P, Nguyễn Thị Kim L, Nguyễn Thị Kim C, ông
Nguyễn Thanh M3 (chết năm 1975) và bà Nguyễn Thị M.
Năm 2009, để tiện cho việc xin giấy phép sửa chữa nhà nên ông P, bà L,
C đã đồng ý cho M đứng tên trên Giấy chứng nhận. Còn ông Đ, ông H3,
T2 không đồng ý.
5
Ngày 18/3/2009, Nguyễn Thị M được Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất hồ gốc:
1052/2009/GCN đứng đại diện cho những người thừa kế.
Do quan hệ quen biết nên M cho ông Huỳnh Minh H1, Huỳnh
Thị H2 mượn giấy tờ căn nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H
để thế chấp vay tiền của ông Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X để hùn vốn
làm ăn với Công ty M4 theo Giấy mượn nhà ngày 07/4/2011. Cùng ngày, ông
H1 H2 yêu cầu M ra Phòng công chứng làm thủ tục vay mượn dưới
hình thức hợp đồng mua bán nhà cho bên cho vay ông M1. Lúc đầu M
không đồng ý, nhưng ông M1 ông H1 nói đây chỉ mượn giấy tđể thế
chấp vay tiền hứa 06 tháng sau sẽ hoàn lại giấy tờ nhà cho M, đồng thời
hủy hợp đồng mua bán nhà. Do không hiểu biết pháp luật tin tưởng bạn nên
bà M đã ký vào hợp đồng bán nhà và không làm thủ tục đăng bộ.
Tuy nhiên, vợ chồng ông H1, H2 đóng tiền lãi vay cho ông M1 được 05
tháng tkhông đóng nữa nên vchồng ông M1, X đã làm thủ tục sang tên
chủ quyền nhà ép buộc bàn giao nhà. Vì vậy, ngày 28/3/2012, làm đơn
khởi kiện yêu cầu tuyên hủy hợp đồng mua bán nhà giữa Nguyễn ThM
ông Duy M1. Tuy nhiên, do thấy không phù hợp với quy định của pháp luật
không đúng với thực tế, nên ngày 04/6/2019 M đã thay đổi nội dung khởi
kiện như sau:
- Tuyên hủy Hợp đồng mua bán nhà số: 002163 ký ngày 07/4/2011 giữa
Nguyễn Thị M ông Duy M1 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường
A, Quận H, Thành phố H vô hiệu;
- Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất
hồ sơ gốc số: 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp cho bà Nguyễn
Thị M ngày 18/3/2009 cập nhật thay đổi chủ sở hữu cho ông Duy M1,
Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011;
- Buộc ông Huỳnh Minh H1, Huỳnh Thị H2 trlại toàn bộ số tiền đã
vay cho ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X.
Nhà đất số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H từ ngày được cấp
giấy chứng nhận đến nay không thay đổi kết cấu, hiện trạng vẫn như cũ, không
sửa chữa gì. Nhà đất nói trên hiện không cho ai thuê. Ngoài những người nói
trên, thì hiện nay cũng không còn ai khác cư trú tại nhà.
* Nguyên đơn thống nhất lấy giá trị nhà đất tranh chấp theo giá mà ông
Duy M1 bán cho bà Võ Lan P3 5.700.000.000 đồng làm căn cứ giải quyết vụ án.
Nguyên đơn đã được Tòa án giải thích các quy định của pháp luật liên quan
đến việc định giá hoặc thẩm định giá tài sản tranh chấp theo giá thị trường thời
điểm hiện nay làm căn cứ giải quyết vụ án, nhưng nguyên đơn không yêu cầu
định giá, không yêu cầu thẩm định giá.
6
* Tại phiên hòa giải ngày 07/12/2023, nguyên đơn xác định yêu cầu:
- Tuyên hiệu Hợp đồng mua bán nhà số: 002163 ngày 07/4/2011
giữa Nguyễn Thị M ông Duy M1 về việc mua bán căn nhà số B đường
D, Phường A, Quận H, Thành phố H;
- Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất
hồ sơ gốc số: 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp cho bà Nguyễn
Thị M ngày 18/3/2009 cập nhật thay đổi chủ sở hữu cho ông Duy M1,
Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011;
- Buộc ông Huỳnh Minh H1, Huỳnh Thị H2 trlại toàn bộ số tiền đã
vay cho ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X là 2.700.000.000 đồng;
- Tuyên hiệu Hợp đồng mua bán nhà số: 006755, quyển số 02 ngày
19/6/2020 tại Văn phòng C6, Thành phố H giữa ông Duy M1, Nguyễn
Thị Thanh X với Lan P3 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường A,
Quận H, Thành phố H;
- Tuyên hủy nội dung cập nhật tên Lan P3 do Chi nhánh Văn phòng
Đ cập nhật ngày 25/6/2020.
Ngoài các yêu cầu nói trên, nguyên đơn không có yêu cầu nào khác.
Nguyên đơn không nộp tạm ứng chi phí ttụng nên không yêu cầu giải
quyết. Nguyên đơn không đồng ý với yêu cầu phản tố của bị đơnyêu cầu độc
lập của Lan P3. Nguyên đơn đồng ý với yêu cầu độc lập của ông Nguyễn
Thành Đ, bà Nguyễn Thị T2 và ông Nguyễn Thanh H3.
Đồng bị đơn ông Vũ Duy M1 Nguyễn Thị Thanh X (cùng ủy quyền
cho ông Đồng Anh T đại diện) trình bày trong quá trình giải quyết vụ án:
Ngày 07/4/2011, ông Duy M1 Nguyễn Thị M hợp đồng
mua bán n nhà sB đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H, việc mua
bán là tnguyện. Ông M1 đã đóng thuế cho Nhà nước đầy đủ, đăng bộ ngày
22/12/2011. Do chưa chỗ nên M nhờ ông M1 cho M thuê lại căn nhà
với thời hạn 06 tháng. M tự ý cho 03 người cùng nhờ ông Đặng Ngọc
C1, Trần Thị Kim T4, Nguyễn Thị Thanh T5 mà không xin ý kiến ông
M1. Hết thời hạn, ông M1 đã liên hệ nhiều lần với M những người nhờ
nhưng M những người nhờ không trả nhà cho ông M1 khiến ông M1
không có chỗ ở ổn định, kinh tế gặp nhiều khó khăn.
Bị đơn không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu
cầu độc lập của Nguyễn Thị T2, ông Nguyễn Thanh H3 ông Nguyễn
Thành Đ, : Việc mua bán giữa Nguyễn Thị M bị đơn đã được các
quan thẩm quyền xác nhận, bị đơn đã thực hiện xong nghĩa vụ trả đủ stiền
7
mua nhà là 2.700.000.000 đồng, đã thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước và
đã được cập nhật chủ sở hữu trên giấy chứng nhận.
Do nguyên đơn chưa thực hiện nghĩa vụ giao nhà, nên bị đơn yêu cầu
phản tố, yêu cầu Nguyễn Thị M những người đang trú tại nhà đất số B
đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H tại thời điểm thi hành án phải giao
nhà đất này cho bị đơn ngay khi bản án hiệu lực pháp luật. Bị đơn chỉ có một
yêu cầu phản tố này.
Nếu yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu độc lập của Nguyễn Thị T2,
ông Nguyễn Thanh H3 ông Nguyễn Thành Đ được chấp nhận, thì bị đơn yêu
cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu theo quy định của pháp luật, buộc
Nguyễn Thị M phải trả lại cho bị đơn số tiền bằng đúng với số tiền mà bị đơn
đã bán nhà cho bà Võ Lan P3 là 5.700.000.000 đồng.
Ông Huỳnh Minh H1 Huỳnh Thị H2 không liên quan đến việc mua
bán nhà giữa nguyên đơn bị đơn, bị đơn không giao tiền mua nhà cho ông
H1, H2 giao tiền cho người bán nhà Nguyễn ThM, nên bị đơn
không đồng ý nhận tiền từ ông H1 và bà H2.
Hiện nay bị đơn đã bán nhà đất nói trên cho bà Võ Lan P3 với giá
5.700.000.000 đồng. Hai bên đã thực hiện xong thủ tục mua bán nhà tại quan
thẩm quyền, Lan P3 đã được cập nhật tên chủ sở hữu trên giấy chứng
nhận. P3 đã giao đủ số tiền mua nhà cho bị đơn, nhưng bị đơn vẫn chưa giao
được nhà cho Lan P3 Nguyễn Thị M gia đình M vẫn đang
trong đó. vậy, bị đơn đồng ý với toàn bộ yêu cầu độc lập của Lan P3.
Bị đơn không tranh chấp hợp đồng mua bán nhà với Lan P3 đồng ý
giao nhà cho bà Võ Lan P3.
Bị đơn thống nhất lấy giá trị nhà đất tranh chấp theo giá mà bị đơn bán cho
Lan P3 5.700.000.000 đồng làm căn cứ giải quyết vụ án. Bị đơn đã được
Tòa án giải thích các quy định của pháp luật có liên quan đến việc định giá hoặc
thẩm định giá tài sản tranh chấp theo giá thị trường thời điểm hiện nay làm căn
cứ giải quyết vụ án, nhưng bị đơn không yêu cầu định giá, không yêu cầu thẩm
định giá. Nhà đất hiện nay không thay đổi về kết cấu, hiện trạng đúng như
trong giấy chứng nhận. Bị đơn tự nguyện chịu chi phí tố tụng bị đơn đã nộp
tạm ứng (nếu có).
Ông Đồng Anh T đơn đề nghị ngày 25/01/2024 xin vắng mặt trong suốt
quá trình Tòa án nhân dân các cấp giải quyết vụ án.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Huỳnh Thị H2 ông
Huỳnh Minh H1 trình bày tại hồ sơ vụ án như sau:
Ông bà là vợ chồng, ông bà có hùn vốn với bà Võ Thị Thu Y1 để hoạt động
kinh doanh thẻ cào điện thoại với Công ty M4 nên ông mượn giấy tờ căn
nhà số B D, Phường A, Quận H, Thành phố H của Nguyễn Thị M để cầm cố,
8
thế chấp cho ông Duy M1 vay s tiền 2.700.000.000 đồng như trình bày của
nguyên đơn đúng. Việc làm ăn kinh doanh thất bại, ông nhận thấy trách
nhiệm trả stiền trên cho ông M1 để vợ chồng ông M1 trả lại nhà cho M
nhưng hiện nay Y1 đã bỏ trốn, đang bị truy nã, chưa thu hồi được tiền để trả
cho ông M1.
Ông đã sử dụng toàn bộ số tiền đã vay đkinh doanh. Việc lập thủ tục
mua bán nhà giữa các bên cũng là tự nguyện, M trực tiếp tên bán nhà,
nhận tiền từ ông M1 đưa cho v chồng ông bên mua đã đứng tên chủ
quyền. Ông bà nhận trách nhiệm hoàn trả cho bà M giá trị căn nhà như theo biên
bản định giá đã được Tòa án xác định nếu như yêu cầu của nguyên đơn không
được chấp nhận, việc trả tiền sẽ được thực hiện khi cơ quan bảo vệ pháp luật bắt
được xử lý nh sự đối với bà Y1. Hiện tại, gia đình ông cũng đang gặp khó
khăn về kinh tế, phải nhà thuê, không điều kiện để giải quyết ngay kỷ phần
thừa kế cho các anh em của bà M.
Tại Bản tự khai ngày 08/11/2023, bà Huỳnh Thị H2 trình bày:
là người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án; đồng thời
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Huỳnh Minh H1.
Trong quá trình giải quyết vụ án, từng khai và ông H1 mượn bản
chính giấy tờ căn nhà số B D, Phường A, Quận H, Thành phố H của Nguyễn
Thị M thế chấp cho ông Duy M1 để vay số tiền 2.700.000.000 đồng, nhưng
hiện tại không chứng cứ về việc vay tiền này để cung cấp cho Tòa án.
Bà giữ nguyên lời khai của bà tại hồ sơ vụ án, không có thay đổi.
Ông Huỳnh Minh H1 chết ngày 04/01/2021, ông H1 chết không để lại di
chúc. Hàng thừa kế thứ nhất của ông H1 bao gồm:
Mẹ ruột: Nguyễn Thị R, sinh năm 1933, chết năm 2020. Cha ruột:
Huỳnh Văn C2.H2 không biết năm sinh, năm mất của ông C2 nhưng ông C2
chết trước R vài năm. không giấy khai sinh, khai tử, i trú cuối
cùng của cha mẹ ông H1 để cung cấp cho Tòa.
vợ của ông H1. Ông H1 không con ruột, không con nuôi. Ông
H1 chết không để lại tài sản gì, bà là người duy nhất thuộc hàng thừa kế thứ nhất
của ông H1.
không biết giá nên không thỏa thuận giá. Đối với giá trị nhà đất tranh
chấp các bên thống nhất theo giá ông Vũ Duy M1 bán cho Lan P3
5.700.000.000 đồng, bà đồng ý lấy làm căn cứ giải quyết vụ án. không yêu
cầu định giá, không yêu cầu thẩm định giá.
Đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không đồng ý với việc
nguyên đơn Nguyễn Thị M yêu cầu ông H1 trả lại số tiền
2.700.000.000 đồng cho ông Duy M1 Nguyễn Thị Thanh X, do hiện
9
tại không tài sản gì đang đau bệnh. Đối với các yêu cầu khác của các
đương sự, không ý kiến gì, đnghị Tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật. không tranh chấp vụ vay tiền với ông Duy M1 cũng như
không tranh chấp việc mượn giấy tờ nhà của Nguyễn ThM. không có
yêu cầu độc lập, cũng không có bất kỳ yêu cầu nào trong vụ án.
Huỳnh Thị H2 có đơn xin vắng mặt trong quá trình Tòa án nhân dân các
cấp giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Lan P3 (có
Nguyễn Thị T9 là người đại diện theo ủy quyền) trình bày:
Lan P3 chủ shữu hợp pháp đối với nhà, đất thuộc thửa đất số 1,
tờ bản đồ số 21 (BĐĐC) tại địa chỉ số B D, Phường A, Quận H, Thành phố H
theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất hồ gốc s
1052/2009/GCN do H5 cấp ngày 18/3/2009, đăng thay đổi ngày 22/12/2011
và ngày 25/6/2020.
Nhà, đất này do P3 mua của hai vợ chồng ông Duy M1,
Nguyễn Thị Thanh X theo hợp đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền s
dụng đất số công chứng 006755 tại Văn phòng C6 ngày 19/6/2020 với giá
chuyển nhượng 5.700.000.000 đồng. P3 đã thanh toán toàn bộ stiền mua
bán nhà, đất nêu trên cho hai vợ chồng ông Duy M1 Nguyễn Thị
Thanh X (đặt cọc số tiền 1.000.000.000 đồng đã thanh toán toàn bộ số tiền
còn lại cho vợ chồng ông M1, X 4.700.000.000 đồng ngay sau khi Hợp
đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/6/2020 theo
Giấy ủy nhiệm chi của Ngân hàng Á, Phòng G - S ngày 19/6/2020).
Ngày 25/6/2020, bà P3 được Chi nhánh Văn phòng Đ cập nhật thay đổi chủ
sở hữu căn nhà.
Khi thực hiện việc mua bán nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với
vợ chồng ông M1, X, đã liên hệ Chi nhánh Văn phòng Đ để tìm hiểu
thông tin về tình trạng sở hữu, sử dụng nhà đất nêu trên của vợ chồng ông
Duy M1 Nguyễn Thị Thanh X theo Công văn số 259/CNQ8-LT ngày
29/5/2020. Đồng thời, vợ chồng ông M1, bà X cũng cho biết ông chủ sở
hữu, sử dụng hợp pháp nhà đất này.
Nguyễn Thị M chủ sở hữu đầu tiên của nhà đất nêu trên chuyển
nhượng lại cho vợ chồng ông Duy M1 và Nguyễn Thị Thanh X. Sau khi
mua nhà, vợ chồng ông M1, X đồng ý cho M thuê lại nhà này. Khi P3
mua lại căn nhà này, thì P3 đã yêu cầu Nguyễn Thị M những người
đang trong nhà trả lại nhà cho P3 để sử dụng, nhưng Nguyễn Thị M
những người khác đang cư trú tại đây vẫn không trả nhà cho bà P3.
Bà Võ Lan P3 không tranh chấp hợp đồng mua bán nhà với bị đơn. Nhà đất
hiện nay không thay đổi về kết cấu, hiện trạng đúng như trong giấy chứng
10
nhận.
* Lan P3 thống nhất lấy giá trị nhà đất tranh chấp theo giá ông
Vũ Duy M1 bán cho bà Võ Lan P3 5.700.000.000 đồng làm căn cứ giải quyết vụ
án. P3 đã được Tòa án giải thích các quy định của pháp luật có liên quan đến
việc định giá hoặc thẩm định giá tài sản tranh chấp theo giá thị trường thời điểm
hiện nay làm n cứ giải quyết vụ án, nhưng P3 không yêu cầu định giá,
không yêu cầu thẩm định giá.
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Lan P3 đơn yêu
cầu độc lập, yêu cầu Tòa án xem xét và giải quyết như sau:
- Tuyên công nhận Hợp đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền sử
dụng đất scông chứng 006755 do Văn phòng C6 chứng nhận ngày 19/6/2020,
đồng thời giữ nguyên cập nhật thay đổi ngày 25/6/2020 sang tên Lan P3
trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền s dụng đất số
1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp ngày 18/3/2009;
- Tuyên buộc Nguyễn Thị M những người đang trú trong căn nhà
đất tại địa chỉ số B D, Phường A, Quận H, Thành phố H phải di dời toàn bộ
tài sản ra khỏi căn nhà này hoàn trả lại toàn bộ nhà, đất nêu trên cho
Lan P3 ngay khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài các yêu cầu nói trên, Lan P3 không yêu cầu nào khác.
Lan P3 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu độc
lập của Nguyễn Thị T2, ông Nguyễn Thanh H3 ông Nguyễn Thành Đ;
đồng ý với yêu cầu phản tố của bị đơn.
Trường hợp yêu cầu của nguyên đơn và yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị
T2, ông Nguyễn Thanh H3 ông Nguyễn Thành Đ được Tòa án chấp nhận, bà
Lan P3 yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu, yêu cầu cụ thể
sẽ có văn bản nộp cho Tòa án trong thời hạn 15 ngày.
Lan P3 nộp tạm ứng chi phí tố tụng (xem xét, thẩm định tại chỗ)
5.000.000 (năm triệu) đồng tự nguyện chịu số tiền này, không yêu cầu Tòa
án giải quyết.
Người đại diện theo ủy quyền của những ngườiquyền lợi nghĩa vụ
liên quan Nguyễn Thị T2, ông Nguyễn Thanh H3 ông Nguyễn Thành Đ
là ông Nguyễn Văn T1 có văn bản trình bày:
Căn nhà sB đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H di sản thừa kế
của cụ Nguyễn Thanh S (chết năm 1972) và cụ Nguyễn Thị N4 (chết năm 1998)
để lại (không có di chúc). Hai cụ 08 người con chung, bao gồm: Ông Nguyễn
Thành Đ, Nguyễn Thị T2 (định Hoa Kỳ), ông Nguyễn Thanh H3, ông
Nguyễn Thanh P, Nguyễn Thị Kim L, Nguyễn Thị Kim C, ông Nguyễn
Thanh M3 (chết năm 1975) Nguyễn Thị M. Ngoài ra, ông S còn 02
11
người con riêng Thị T3 Thị Đ1. Theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005, 10 người con trên thuộc hàng thừa
kế thứ nhất của cụ S 08 người con (ngoại trừ T3 Đ1) là hàng thừa kế
thứ nhất của cụ N4 đối với di sản là căn nhà nêu trên.
Nguyễn Thị M khai thiếu người thừa kế dẫn đến việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất không
đúng quy định pháp luật. Cụ thể, ngày 04/3/2009, ông Nguyễn Thanh P,
Nguyễn Thị Kim L, Nguyễn Thị Kim C Nguyễn Thị M đã văn bản
thoả thuận phân chia di sản thừa kế của cụ S cụ N4 căn nhà nêu trên (được
công chứng tại Văn phòng C10; số công chứng 006982 ngày 04/3/2009). Sau
đó, M được ông P, L C tặng cho lại phần quyền hưởng di sản. Việc
lập văn bản thoả thuận phân chia di sản nêu trên đã bỏ sót những đồng thừa kế là
ông S, N4, ông Đ, T2, ông H3, T3 Đ1 nên văn bản này hiệu
theo quy định tại Điều 128 Bộ luật Dân sự năm 2005. Do đó, hợp đồng mua bán
căn nhà nêu trên giữa M với ông M1, bà X hiệu theo quy định tại khoản
2 Điều 128 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Giao dịch chuyển nhượng giữa ông M1, X với Lan P3 vi phạm
quy định pháp luật do đối tượng chuyển nhượng đang tranh chấp (Tòa án
nhân dân Thành phố H đang thụ giải quyết). Tuy nhiên, H5 vẫn tiến hành cập
nhật biến động trên giấy chứng nhận cho bà P3 trái với quy định của pháp
luật.
Do đó, ông T1 yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết:
- Tuyên hiệu Hợp đồng mua bán nhà số B ngày 07/4/2011 giữa
Nguyễn Thị M với ông Duy M1, Nguyễn Thị Thanh X về việc mua bán
nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H theo khoản 2, Điều 138 Bộ
luật Dân sự năm 2005;
- Hủy Văn bản thỏa thuận phân chia di sản số công chứng 006982 do
Phòng C3, Thành phố H chứng nhận ngày 04/3/2009;
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất hồ
gốc số 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp cho Nguyễn Thị
M ngày 18/3/2009 cập nhật thay đổi chủ sở hữu cho ông Duy M1,
Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011;
- Tuyên hủy hợp đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông M1, X với P3 (số công chứng 006755, ngày 19/6/2020 tại Văn
phòng C6); huỷ phần cập nhật sang tên cho P3 ngày 25/6/2020 trên Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất số 1052/2009/GCN do
H5 cấp ngày 18/3/2009.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Thị Kim L trình
bày tại bản tự khai ngày 27/8/2018:
12
Nguyễn Thị Kim L là em thứ bảy trong gia đình, lập gia đình vào năm
1980 đã ra riêng. được biết chị Nguyễn Thị M cho bạn mượn
giấy tờ nhà cầm cho ông Vũ Duy M1. Sau thời gian không hoàn tiền lại nên ông
M1 đến dùng áp lực để lấy căn nhà nhưng nhà nhiều anh, chị con cháu
nên không lấy lại được.
không biết cụ thể sự việc xảy ra giữa ông M1, M H2. Theo
nguyện vọng của bà, đây là căn nhà mà các anh chị, các cháu của bà đang ở, cần
giữ lại căn nhà theo nguyện vọng của cha mẹ để làm nhà thờ, cúng giỗ hằng năm
họp mặt ngày Tết. đề nghị Tòa án giải quyết cho gia đình được giữ lại
nhà, đất tranh chấp.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trần Thị Kim T4 (đồng
thời là người đại diện theo pháp luật của trẻ Đặng Ngọc Bảo N1) trình bày tại
bản tự khai ngày 27/8/2018:
là cháu dâu của gia đình, hiện ngụ tại nhà số B đường D, Phường A,
Quận H, Thành phố H cùng chồng và hai con Kim N và Bảo N1. Bà Nguyễn Thị
M là của chồng bà. được biết căn nhà nói trên của ông ngoại chồng
để lại. M cho một người bạn mượn nhưng không trả dẫn đến vụ tranh
chấp. Bà đề nghị Tòa án giải quyết cho gia đình bà được giữ lại nhà, đất.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị T6 trình bày
tại bản tự khai ngày 27/8/2018:
Bà hiện đang cư ngụ tại nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố
H cùng chồng là ông Nguyễn Thành Đ và các con cháu. Bà Nguyễn Thị M là em
gái thứ năm của chồng bà, được gia đình cho đại diện đứng tên căn nhà thay thế
mẹ chồng cụ Nguyễn Thị N4 sau khi cụ N4 qua đời. Việc M cho bạn
cầm, thế chấp nhà thờ do cha mẹ để lại khiến vợ chồng rất phiền lòng, vợ
chồng đã lớn tuổi con cháu trong gia đình cần nơi trú ổn định để yên
tâm học hành. Bà đề nghị Tòa án giải quyết cho gia đình bà được giữ lại nhà, đất
này.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Thị Đ1 trình bày tại
Bản tự khai ngày 26/01/2021:
Bà là con của ông Nguyễn Thanh S (chết năm 1972). Ông Nguyễn Thanh S
có chung sống với bà Võ Thị L2 (chết năm 2007) nhưng không đăng ký kết hôn,
ông S vợ Nguyễn Thị N4. Ông S L2 02 người con chung
em của Thị T3 (sinh năm 1969). Trong giấy khai sinh của 02
đều lấy họ của mẹ. Việc ông S chết để lại di chúc hay không, không
nhưng mẹ bà chết không để lại di chúc.
không biết ai chủ sở hữu nhà đất số B D, Phường A, Quận H, Thành
phố H. cũng không biết về quan hmua bán nhà của các đương sự trong
vụ án này.
13
Ông Nguyễn Thanh S Nguyễn Thị N4 07 người con chung như
nguyên đơn trình bày. Nhà đất i trên không liên quan đến mẹ L2,
L2 cũng không có quyền lợi gì đối với nhà đất trên.
Bà đã nhận được thông báo thụ lý vụ án và biết các quan hệ pháp luật trong
vụ án. đã được Tòa án giải thích các quyền nghĩa vụ của trong vụ án,
nhưng không yêu cầu độc lập trong ván, cũng không yêu cầu hưởng di
sản thừa kế của ông Nguyễn Thanh S. Nếu Tòa xác định nhà đất nói trên di
sản thừa kế của ông S N4, trong đó con ông S cũng được hưởng
thừa kế, thì xin không nhận phần di sản này giao lại cho 07 anh chị cùng
cha khác mcủa (những người con chung của ông S N4). xác định
không bất kỳ yêu cầu trong vụ án. đơn xin vắng mặt trong quá
trình Tòa án nhân dân các cấp giải quyết vụ án.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Thị T3 trình bày tại
Bản tự khai ngày 22/3/2021:
Bà là con của ông Nguyễn Thanh S (chết năm 1972) Võ Thị L2 (chết
năm 2007). cùng ý kiến với chị Võ Thị Đ1 theo trình bày tại Bản
tự khai ngày 26/01/2021.
Nếu Tòa xác định nhà đất nói trên di sản thừa kế của ông S N4,
trong đó bà con ông S cũng được hưởng thừa kế thì xin nhận phần di
sản này giao lại cho 07 anh chị cùng cha khác mcủa (những người con
chung của ông S N4). xác định không bất kỳ yêu cầu trong vụ
án. đơn xin vắng mặt trong quá trình Tòa án nhân dân các cấp giải quyết
vụ án.
Người quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Văn Đ2 trình bày
tại Bản tự khai ngày 26/7/2023:
Ông là chồng của Lan P3. Năm 2020, P3 mua căn nhà số B D,
Phường A, Quận H, Thành phố H. Nhà, đất nói trên là tài sản riêng của P3
theo Văn bản cam kết về tài sản ngày 20/7/2020 của ông lập tại Văn phòng C8.
Ông không có quyền lợi, nghĩa vụ gì đối với nhà, đất tranh chấp trong vụ án, nên
ông không ý kiến hay yêu cầu đối với vụ án. Ông đơn xin vắng mặt
trong quá trình Tòa án nhân dân các cấp giải quyết vụ án.
Văn phòng C7 (tên cũ: Văn phòng C5), Thành phố H (có ông Phạm
Xuân T8 người đại diện theo pháp luật) trình bày tại văn bản số
150/VPCCPXT ngày 20/12/2021 như sau:
Hợp đồng mua bán nhà lập ngày 07/04/2011 tại Văn phòng C5 (nay Văn
phòng C7), Thành phố H, số công chứng 002163 do công chứng viên Trần Công
Khai công chứng, được kết giữa Nguyễn Thị M (bên bán) ông
Duy M1 (bên mua) về việc mua bán nhà, đất số B D, Phường A, Quận H, Thành
phố H. Hồ sơ lưu trữ thể hiện việc lập công chứng hợp đồng được thực hiện
14
đúng quy trình thủ tục theo quy định của pháp luật, hồ sơ công chứng hoàn
toàn hợp lệ. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ kiện vắng mặt theo những chứng cứ
có trong hồ sơ vụ án theo quy định của pháp luật.
Văn phòng C6, Thành phố H (Nguyễn Thị H4 là người đại diện
theo ủy quyền) trình bày tại văn bản số 100/CCTQP ngày 16/6/2021 như sau:
Ngày 19/06/2020, Văn phòng C6 nhận được hồ sơ yêu cầu công chứng
Hợp đồng mua bán đối với căn nhà số B D, Phường A, Quận H, Thành phố H
giữa bên bán ông Duy M1, Nguyễn Thị Thanh X với bên mua
Lan P3. Công chứng viên kiểm tra hồ thấy đầy đủ hợp lnên giao cho thư
ký kiểm tra ngăn chặn và lịch sử giao dịch của căn nhà nêu trên, kiểm tra lại bản
soạn thảo hợp đồng mua bán nhà và chuyển nợng quyền sử dụng đất.
Sau khi đã kiểm tra ngăn chặn không bị ngăn chặn, lịch sử giao dịch hồ
của căn nhà nêu trên cũng không hiển thị đã giao dịch, kiểm tra các thông
tin nhân, chi tiết thực trạng nhà đất ghi trong bản soạn thảo hợp đồng, thư
chuyển cho các bên đọc lại hợp đồng chuyển nhượng, hai bên không yêu cầu bổ
sung hay sửa chữa gì. Sau khi đã nghe công chứng viên giải thích quyền
nghĩa vụ của mỗi bên, các bên tham gia giao dịch đã đồng ý tên lăn tay
hợp đồng trước sự chứng kiến của công chứng viên.
Việc công chứng hợp đồng mua bán nhà số 006755 ngày 19/06/2020 của
Văn phòng C6, Thành phố H đúng theo quy định của pháp luật, do đó đủ
sở để công nhận hợp đồng mua bán theo u cầu của người quyền lợi nghĩa
vụ liên quan Lan P3 đúng theo quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án
giải quyết vụ kiện vắng mặt theo những chứng cứ trong hồ vụ án theo quy
định của pháp luật.
Phòng C3, Thành phố H (có ông Huỳnh Phương V người đại diện
theo ủy quyền) trình bày tại bản tự khai ngày 02/3/2020 như sau:
Vào thời điểm công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản do Phòng
C3, Thành phố H chứng nhận, số công chứng 006982, quyền số 03, ngày
04/3/2009, công chứng viên đã thực hiện việc công chứng phù hợp với quy định
của pháp luậtliên quan. Căn cứ trên sở sự tự nguyện, yêu cầu công chứng
hợp pháp các giấy tờ nhân thân, tài sản của người yêu cầu công chứng xuất
trình đầy đủ, phù hợp với quy định của pháp luật, công chứng viên đã tiếp nhận
thực hiện việc công chứng nêu trên. Do hồ lưu trữ thể hiện việc công
chứng hợp đồng nêu trên là phù hợp với quy định của pháp luật vào thời điểm
công chứng, nên Phòng C3, Thành phố H không ý kiến thêm. Đề nghị Tòa
án giải quyết vụ kiện vắng mặt theo những chứng cứ trong hồ vụ án theo
quy định của pháp luật.
Văn phòng Đăng ký đất đai Thành phố H (Nguyễn Thị Thanh T10
người đại diện theo ủy quyền) trình bày tại bản tường trình ngày 04/8/2023
như sau:
15
Việc Chi nhánh Văn phòng Đ, Thành phố H cập nhật tên ông Duy M1,
Nguyễn Thị Thanh X (ngày 22/12/2011) Lan P3 (ngày 25/6/2020)
trên Giấy chứng quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất số:
1052/2009/GCN ngày 18/3/2009 của Nguyễn Thị M là đúng quy định của
pháp luật, nên Văn phòng Đ, Thành phố H không ý kiến thêm. Đề nghị
Tòa án giải quyết vụ kiện vắng mặt theo những chứng cứ trong hồ sơ vụ án
theo quy định của pháp luật.
Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H:
* Người đại diện là Phạm Phương T11 Phó Giám đốc Văn phòng
Đăng quyền sử dụng đất Quận H (giấy ủy quyền số 1361/UBND-NC ngày
10/6/2015) trình bày tại Bản tường trình ngày 12/6/2015 như sau: Căn nhà 2 D,
Phường A, Quận H nguồn gốc đất do Nguyễn Thị M sử dụng, được Ủy
ban nhân dân Quận H5 cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử
dụng đất ở số 1052/2009/GCN ngày 18/3/2009.
Năm 2011, Nguyễn ThM chuyển nhượng cho ông Duy M1 và
Nguyễn Thị Thanh X có công chứng của Văn phòng C5 ngày 07/4/2011.
Ngày 16/12/2011, ông Duy M1 nộp hồ đề nghị cập nhật biến động
tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả thuộc Ủy ban nhân dân Quận H5, thành phần
hồ sơ gồm có: Giấy chứng nhận quyền shữu nhà quyền sử dụng đất số
1052/2009/GCN ngày 18/3/2007 do Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp, thông báo
nộp lệ phí trước bnhà đất 15479/TB ngày 10/3/2009 của Cục T14, hợp đồng
mua bán nhà số 002163 do Văn phòng C5 chứng nhận ngày 07/4/2011.
Căn cứ khoản 1 Điều 127 Luật Đất đai năm 2003, Điều 19 Thông
17/TT-BTNMT ngày 21/10/2009 của Bộ T15 quy định về giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất, thì việc Ủy
ban nhân dân Quận H5 (Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất Quận H) đã đăng
cập nhật biến động trên giấy chứng nhận quyền shữu nhà quyền sử
dụng đất số 1052/GCN ngày 18/3/2007 cho ông Duy M1 Nguyễn
Thị Thanh X đúng quy định. đơn xin vắng mặt trong quá trình Tòa án
giải quyết vụ án.
* Người đại diện ông Nguyễn Hồng L3 Phó Trưởng phòng T13 (giấy
ủy quyền số 1751/UBND-NC ngày 13/7/2015) trình bày tại bản tường trình
ngày 20/7/2015 như sau: Nhà đất tranh chấp được Ủy ban nhân dân Quận H5
cấp Giấy chứng nhận quyền s hữu nhà quyền s dụng đất số
5775/2008/GCN ngày 30/5/2008 cho Nguyễn Thị M đứng tên đại diện cho
các đồng thừa kế.
Ngày 10/3/2009, Nguyễn Thị M nộp hồ đề nghị cấp đổi giấy
chứng nhận theo Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế công chứng số
006982 ngày 04/3/2009 do Phòng C3, Thành phố H chứng nhận với nội dung:
Nguyễn Thị M được toàn quyền hưởng di sản đối với nhà quyền sử
16
dụng đất ở. Sau đó, được Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp đổi Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất số 1052/2009/GCN ngày 18/3/2009
cho bà M là chủ sở hữu, sử dụng.
Ngày 07/4/2011, Nguyễn Thị M đã chuyển nhượng toàn bộ nhà đất cho
ông Duy M1 theo hợp đồng công chứng s002163 do Văn phòng C5 chứng
nhận, được Văn phòng Đăng quyền sử dụng đất Quận H cập nhật biến động
thay đổi chủ sở hữu, sử dụng ngày 22/12/2011.
Như vậy, nhà đất nói trên đã giấy tờ hợp pháp, hợp lệ, các đương sự
nhận chuyển nhượng từ hợp đồng công chứng chuyển về Ủy ban nhân dân
Quận H5 để lập thủ tục cấp đổi cập nhật biến động trên giấy chứng nhận
đúng theo quy định của pháp luật. Do đó, đề nghị Tòa án căn cứ tính pháp lý của
các hợp đồng công chứng giữa các bên để t xử theo quy định. Ông đơn xin
vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án.
* Người đại diện ông Lưu Quang Huy Q (Giấy ủy quyền số 759/UBND-
TNMT ngày 05/5/2021) trình bày tại đơn xin giải quyết vắng mặt ngày
16/5/2022 như sau: Ông xin bảo lưu ý kiến trong bản tường trình do ông
Nguyễn Hồng L3 đại diện theo ủy quyền trước đây của Ủy ban nhân dân Quận
H5. Ông xin vắng mặt trong các buổi làm việc, hòa giải, xét xử của Tòa án. Đề
nghị Tòa án giải quyết vụ kiện vắng mặt theo những chứng cứ trong hồ vụ
án theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sự thẩm số 68/2024/DS-ST ngày 02/02/2024, Tòa án
nhân dân Thành phố H quyết định:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn
Thị M (có ông Nguyễn Phạm Thanh D đại diện), về việc:
1.1. Tuyên hiệu Hợp đồng mua bán nhà số: 002163 ngày 07/4/2011
tại Văn phòng C5 (nay Văn phòng C7), Thành phố H giữa Nguyễn Thị M
ông Duy M1 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường A, Quận H,
Thành phố H;
1.2. Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất
hồ gốc s1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H
cấp cho Nguyễn Thị M ngày 18/3/2009 cập nhật thay đổi chủ sở hữu cho
ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011;
1.3. Buộc ông Huỳnh Minh H1, Huỳnh Thị H2 trả lại toàn bộ số tiền đã
vay cho ông Duy M1, Nguyễn Thị Thanh X 2.700.000.000 (hai tỷ bảy
trăm triệu) đồng;
1.4. Tuyên hiệu Hợp đồng mua bán nhà số F, quyển số 02 ngày
19/6/2020 tại Văn phòng C6, Thành phố H giữa ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị
17
Thanh X với bà Võ Lan P3 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường A, Quận
H, Thành phố H;
1.5. Tuyên hủy nội dung cập nhật tên Lan P3 do Chi nhánh Văn
phòng Đ, Thành phố H cập nhật ngày 25/6/2020.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Duy M1
Nguyễn Thị Thanh X (có ông Đồng Anh T đại diện).
Buộc Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị Thanh T5, Nguyễn Phạm Thanh
T7, trẻ Nguyễn Bảo N3 sinh năm 2016 trẻ Nguyễn Bảo Y sinh năm 2020 (
Nguyễn Phạm Thanh T7 ông Nguyễn Hoàng P2 đại diện theo pháp luật)
những người đang trú trong căn nhà số B đường D, Phường A, Quận H,
Thành phố H (theo Giấy chứng nhận Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
quyền sử dụng đất hồ gốc số: 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận
H5 cấp cho Nguyễn Thị M ngày 18/3/2009, cập nhật tên ông Duy M1,
Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011, cập nhật tên Lan P3 ngày
25/6/2020 Bản vẽ hiện trạng nhà do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở Tài
nguyên Môi trường Thành phố H lập phát hành ngày 12/6/2014 (theo hợp
đồng s119289/ĐĐBĐ-VPTT)) tại thời điểm thi hành án, phải giao nhà đất này
cho ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X trong thời hạn 03 (ba) tháng kể từ
ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
2.1. Không chấp nhận yêu cầu của ông Vũ Duy M1 Nguyễn Thị
Thanh X về việc buộc Nguyễn Thị M những người đang trú trong căn
nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H tại thời điểm thi hành án
phải giao nhà đất này cho bị đơn ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
2.2. Đình chỉ yêu cầu phản tố của ôngDuy M1 và bà Nguyễn Thị Thanh
X (bị đơn), về việc buộc nguyên đơn Nguyễn Thị M phải trả lại tiền thuê nhà
là 7.000.000 đồng/tháng từ ngày 15/02/2012 tạm tính đến tháng 4 năm 2013.
3. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Thành Đ, Nguyễn
Thị T2 và ông Nguyễn Thanh H3 (có ông Nguyễn Văn T1 đại diện), về việc:
3.1. Hủy Văn bản thỏa thuận phân chia di sản số công chứng 006982 do
Phòng C3, Thành phố H chứng nhận ngày 04/3/2009;
3.2. Hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất hồ
gốc số 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H cấp cho
Nguyễn Thị M ngày 18/3/2009 cập nhật thay đổi chủ sở hữu cho ông
Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011;
3.2. Tuyên hiệu Hợp đồng mua bán nhà số 002163 ngày 07/4/2011
tại Văn phòng C5 (nay Văn phòng C7), Thành phố H giữa Nguyễn Thị M
ông Duy M1 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường A, Quận H,
Thành phố H;
18
Không xem xét, giải quyết đối với việc bổ sung yêu cầu độc lập của ông
Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thị T2 ông Nguyễn Thanh H3 (có ông Nguyễn
Văn T1 đại diện) trình bày tại phiên tòa thẩm, về việc: Hủy hợp đồng mua
bán nhà giữa ông Duy M1, Nguyễn Thị Thanh X với Lan P3; hủy
nội dung cập nhật tên bà Võ Lan P3 trên giấy chứng nhận.
4. Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Thanh S cụ
Nguyễn Thị N4 (trong đó ông Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thị T2 ông
Nguyễn Thanh H3) quyền khởi kiện Nguyễn Thị M trong vụ án khác, đ
yêu cầu Nguyễn Thị M trả lại kỷ phần thừa kế bằng giá trị họ được nhận
từ di sản của cụ Nguyễn Thanh S cụ Nguyễn Thị N4 (giá trị nhà, đất sB D,
Phường A, Quận H, Thành phố H) theo quy định của pháp luật. Giá trị nhà, đất
các đương sự thống nhất là 5.700.000.000 (năm tỷ bảy trăm triệu) đồng.
5. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của Lan P3 (có Nguyễn
Thị T9 đại diện).
Công nhận Hợp đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền sử dụng đất
số công chứng 006755 do Văn phòng C6, Thành phố H chứng nhận ngày
19/6/2020; giữ nguyên cập nhật tên Lan P3 ngày 25/6/2020 trên Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất số 1052/2009/GCN do
Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H cấp ngày 18/3/2009;
Buộc ông Duy M1, Nguyễn Th Thanh X, Nguyễn Thị M,
Nguyễn Thị Thanh T5, bà Nguyễn Phạm Thanh T7, trẻ Nguyễn Bảo N3 sinh năm
2016 và trẻ Nguyễn Bảo Y sinh năm 2020 (có bà Nguyễn Phạm Thanh T7 và ông
Nguyễn Hoàng P2 đại diện theo pháp luật) những người đang trú trong
căn nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H (theo Giấy chứng
nhận Giấy chứng nhận quyền shữu nhà quyền sử dụng đất hồ gốc
số: 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp cho Nguyễn Thị M
ngày 18/3/2009, cập nhật tên ông Duy M1, Nguyễn Thị Thanh X ngày
22/12/2011, cập nhật tên Lan P3 ngày 25/6/2020 Bản vẽ hiện trạng
nhà do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên Môi trường Thành phố H
lập phát hành ngày 12/6/2014 (theo hợp đồng số 119289/ĐĐBĐ-VPTT)) tại
thời điểm thi hành án phải di dời toàn bộ tài sản ra khỏi nhà hoàn trả lại
toàn bộ nhà, đất nêu trên cho Lan P3. Việc giao trả nhà, đất được thực
hiện trong thời hạn 03 (ba) tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
Không chấp nhận yêu cầu độc lập của Lan P3, về việc buộc
Nguyễn Thị M những người đang trú trong căn nhà số B D, Phường A,
Quận H, Thành phố H tại thời điểm thi hành án phải di dời toàn bộ tài sản ra
khỏi căn nhà hoàn trả lại toàn bộ nhà, đất nêu trên cho Lan P3 ngay
sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định về án phí, chi phí ttụng
thông báo về quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
19
Ngày 06/02/2024, nguyên đơn Nguyễn Thị M kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm.
Ngày 07/02/2024, những người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thị T2 ông Nguyễn Thanh H3 (có ông Nguyễn
Văn T1 là người đại diện theo ủy quyền) kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn thống nhất trình bày: Nhận định của Tòa án cấp
thẩm không phù hợp với sự thật khách quan, không phù hợp c tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án vì các lý do sau:
Ông H1, H2 khai nhận mượn giấy tờ nhà, đất của M để thế chấp
vay tiền ông M1, nên không việc M bán nhà cho ông M1. Căn nhà M
đứng tên là hộ gia đình gồm nhiều thành viên đang ở, sinh sống. Do không phải
giao dịch mua bán nhà nên không việc giao nhận tiền không bàn giao nhà
trên thực tế.
Hồ sơ vụ án thể hiện: Cùng ngày 07/4/2011 hai biên bản bàn giao nhà
nhưng nội dung khác nhau. M khẳng định rằng chỉ một biên bản
nội dung “Đã nhận trước 900.000.000đ” để cho ông H1, H2 nhận tiền.
Ngoài biên bản đó ra thì bà M không ký bất kỳ một biên bản có giá trị nào khác.
Lời khai của bị đơn mâu thuẫn với nội dung trong hợp đồng mua bán, ông
M1 M chỉ gặp nhau một lần duy nhất tại Văn phòng công chứng nên
không thể việc giao dịch lần 1 với số tiền 900 triệu đồng như nội dung trong
hợp đồng ghi nhận. Ngoài ra, giao dịch lần 2 tại địa điểm nào cũng không
được nêu ra. Do đó, Tòa án cấp thẩm nhận định các bên giao tiền thực tế
nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh bị đơn có giao tiền cho bà M.
Hợp đồng thể hiện bà M thuê nhà với thời hạn 06 tháng được ký cùng ngày
với hợp đồng mua bán tại Văn phòng công chứng. Tuy nhiên, hợp đồng thuê nhà
lại không được công chứng theo quy định của pháp luật. vậy, nội dung
hình thức của hợp đồng không được đảm bo. Điều này cơ sở xác định hợp
đồng thuê nhà này chỉ lập ra với mục đích để hợp thức hóa một giao dịch khác.
Hơn nữa, ông M1 X chưa bao giờ đến xem nhà nên không việc nhận
bàn giao nhà từ M. Do đó, hợp đồng mua bán giữa ông M1, X M
hiệu theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005.
P3 hoàn toàn không ngay tình trong giao dịch với ông M1, bởi P3
được cấp giấy chứng nhận trong thời điểm tài sản đang tranh chấp sai quy
định pháp luật. Thời điểm ông M1, bà X P3 hợp đồng mua bán nhà đất
vào ngày 19/6/2020 là trong thời gian tài sản đang có tranh chấp, đang được Tòa
án nhân dân Thành phố H thụ lý xét xử lần 2 (sau khi Tòa án cấp phúc thẩm hủy
bản án sơ thẩm lần 1).
20
Ngoài ra, phía nguyên đơn đã gửi nhiều đơn đến các quan Nhà nước để
khiếu nại về việc cập nhật sang tên cho bà P3 trên giấy chứng nhận là hoàn toàn
vi phạm quy định pháp luật. Vào năm 2015, lãnh đạo của Chi nhánh Văn phòng
Đ đã cử người đại diện tham gia phiên tòa với cách người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án này, nên việc quan này lại văn bản thông báo rằng
tài sản này không có tranh chấp là không đúng.
Tòa án cấp thẩm nhận định quyền sở hữu nhà đã được chuyển giao cho
Lan P3 không đúng, giao dịch mua bán nhà được xác định là hoàn
thành khi bên mua đã thanh toán đủ tiền mua đã nhận bàn giao nhà. Tuy
nhiên, khi mua P3 hoàn toàn chưa nhận bàn giao nhà nên việc nhận định trên
của bản án sơ thẩm là không đúng với quy định của pháp luật.
Từ những phân ch trên, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án thẩm theo
hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Người đại diện theo ủy quyền của những người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan gồm các ông, Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thanh H3 là
ông Nguyễn Văn T1 trình bày: Văn bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế ngày
04/3/2009 đã khai thiếu các đồng thừa kế. Việc khai thiếu người thừa kế
trực tiếp làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những đồng thừa kế khác. Tòa án cấp
phúc thẩm đã từng nhận định nội dung này khi xét xử phúc thẩm lần 1. Giấy
chứng nhận cấp cho M không đúng quy định của pháp luật. Việc ông M1,
P3 thực hiện giao dịch trong khi tài sản đang tranh chấp trái với quy định của
pháp luật, nên đề nghị chuyển hồ cho cơ quan điều tra làm việc tài sản
đang tranh chấp mà vẫn được cập nhật biến động sang tên trên giấy chứng nhận.
Ngoài ra, bản án thẩm ghi không đúng yêu cầu, lời trình bày của người đại
diện theo ủy quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do đó, đề nghị
Hội đồng xét xử sửa bản án thẩm, chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Đ,
T2, ông H3 để bảo vệ quyền lợi ích cho các đồng thừa kế theo đúng quy định
của pháp luật.
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Lan P3 trình bày: Trước khi thực hiện giao dịch, P3 đã được các
quan Nhà nước thẩm quyền xác nhận thông tin của căn nhà này. Ngoài ra,
P3 đã được cập nhật quyền sở hữu trên giấy chứng nhận đối với tài sản này đúng
quy định pháp luật. vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét yêu cầu độc lập
của bà P3, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H tham gia phiên
tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung:
21
Đối với kháng cáo của M: Nhà đất do bà M đứng tên trên Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở; Các giao dịch mua bán được
công chứng, người nhận chuyển nhượng ng đã được quan thẩm quyền
cập nhật biến động sang tên trên giấy chứng nhận đúng quy định pháp luật.
Đối với kháng cáo của ông Đ, T2, ông H3: giao dịch giữa M với
ông M1 hợp pháp nên yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan không sở xem xét. Tòa án cấp thẩm đã dành quyền khởi kiện
cho đương sự bằng vụ án khác là có căn cứ.
Bản án thẩm xét xử là căn cứ. Đương sự kháng o nhưng không
tài liệu, chứng cứ mới để chứng minh. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận kháng cáo của các đương sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, căn cứ
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, những người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan gồm: Huỳnh Thị H2, ông Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thị T2, ông
Nguyễn Thanh H3, Nguyễn Thị Kim L, Thị Đ1, Thị T3, ông
Đặng Ngọc C1, Trần Thị Kim T4, chị Đặng Ngọc Kim N, sinh năm 2003, trẻ
Đặng Ngọc Bảo N1, Nguyễn Thị Thanh T5, Nguyễn Thị T6, ông Nguyễn
Vũ Vĩnh P1, bà Nguyễn Thụy Ngọc B, bà Phạm Thị Hồng L1, chị Nguyễn Ngọc
Trúc M2, trẻ Nguyễn Vũ Thiên B1, bà Nguyễn Phạm Thanh T7, trẻ Nguyễn Bảo
N3, trẻ Nguyễn Bảo Y, Phòng C3, Thành phố H, Ủy ban nhân dân Quận H5,
Thành phố H, Văn phòng C6, Thành phố H, Văn phòng C7 (tên cũ: Văn phòng
C5), Thành phố H, Lan P3, Văn phòng Đăng đất đai Thành phố H và
ông Phạm Văn Đ2 vắng mặt, đơn xin xét xử vắng mặt hoặc đã được Tòa án
triệu tập hợp lệ. Do đó, căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015, Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt những
người tham gia tố tụng trên.
[1.2] Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Nguyễn n T1 (là người đại diện theo ủy
quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm ông Nguyễn Thành Đ, bà
Nguyễn Thị T2 ông Nguyễn Thanh H3) bổ sung yêu cầu độc lập với nội
dung: Đề nghị Tòa án hủy hợp đồng mua bán nhà giữa ông Duy M1,
Nguyễn Thị Thanh X với Lan P3; hủy nội dung cập nhật tên Lan
P3 trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở.
Xét, tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm
mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hòa giải”
khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Hội đồng xét xử chấp
nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu
22
cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu
cầu độc lập ban đầu”. Căn cứ quy định trên thì Tòa án cấp thẩm không chấp
nhận xem xét yêu cầu độc lập bổ sung của người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là đúng quy định pháp luật.
[2] Về nội dung:
[2.1] Tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án thể hiện nguồn gốc các giao
dịch liên quan đến nhà, đất số B D, Phường A, Quận H, Thành phố H như sau:
Theo Giấy phép hợp thức hóa quyền sở hữu nhà số 1316/GP.CS ngày
24/12/1993 của Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H, tnhà đất số B D,
Phường A, Quận H, Thành phố H nguồn gốc của vợ chồng cụ Nguyễn Thanh
S (chết năm 1972) cụ Nguyễn Thị N4. Năm 1998, cụ Nguyễn Thị N4 chết,
không để lại di chúc.
Cụ Nguyễn Thanh S cụ Nguyễn Thị N4 08 người con chung gồm:
Ông Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thị T2 (định Hoa Kỳ), ông Nguyễn
Thanh H3, ông Nguyễn Thanh P, Nguyễn Thị Kim L, Nguyễn Thị Kim C,
ông Nguyễn Thanh M3 (chết năm 1975) và bà Nguyễn Thị M.
Năm 2008, Nguyễn Thị M (là một trong s các con của cụ Nguyễn
Thanh S cụ Nguyễn Thị N4) lập thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà đất đã được Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp Giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà , và quyền sử dụng đất số 5775/2008/GCN ngày 30/5/2008 cho
Nguyễn Thị M con đại diện c đồng thừa kế của cụ Nguyễn Thanh S
cụ Nguyễn Thị N4.
Ngày 04/3/2009 các ông, gồm: Ông P, L, C, M lập “Văn bản
thỏa thuận phân chia di sản” tại Phòng C3, Thành phố H với nội dung: Ông P,
L, C tặng cho M toàn bộ kỷ phần thừa kế đối với nhà đất số 219/42
Dương Bá T12. Căn cứ “Văn bản thỏa thuận phân chia di sản” trên, ngày
18/3/2009 Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
và quyền sử dụng đất ở đối với nhà, đất trên cho bà M.
Ngày 07/4/2011, M hợp đồng chuyển nhượng nhà đất số 219/42
Dương T12 cho ông Duy M1 với giá 2.700.000.000 đồng. Hợp đồng có
công chứng của Văn phòng C5 (nay Văn phòng C7). Ngày 22/12/2011, ông
Duy M1, Nguyễn Thị Thanh X được cập nhật đứng tên trên giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với nhà, đất trên.
Ngày 19/6/2020, ông Duy M1 hợp đồng chuyển nhượng nhà đất số
219/42 cho Lan P3 với giá 5.700.000.000 đồng, hợp đồng công chứng
của Văn phòng Công chứng Trần Quốc P4. Ngày 25/6/2020, P3 được Chi
nhánh Văn phòng Đ, Thành phố H cập nhật đứng tên trên giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất đối với nhà, đất số 219/42 Dương
Bá T12.
23
[2.2] Nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm:
[2.2.1] Đối với Hợp đồng mua bán nhà s002163 ngày 07/4/2011 giữa
Nguyễn Thị M và ông Vũ Duy M1:
- Về hình thức: Hợp đồng mua bán nhà s002163 ngày 07/4/2011 được
công chứng của Văn phòng C5 (nay là Văn phòng C7) đúng quy định pháp luật.
- Về nội dung: Bà M ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất tại số B D (do bà
M đang đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng
đất ở) cho ông Vũ Duy M1 với giá 2.700.000.000 đồng.
M cho rằng hợp đồng mua bán nhà giữa ông M1 là hợp đồng giả
tạo, thực chất là ông Huỳnh Minh H1 Huỳnh Thị H2 mượn giấy tờ nhà
của để thế chấp vay tiền ông M1, giữa ông M1 không việc mua bán
nhà, cũng không nhận tiền từ ông M1; Những người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan gồm c ông, Nguyên Thành Đ3, Nguyễn Thị T2 Nguyễn
Thanh H3 cho rằng nhà, đất trên di sản thừa kế của cụ S cụ N4, nhưng
“Văn bản thỏa thuận phân chia di sản” ngày 04/3/2009 không có ý kiến của các
ông, bà. Do vậy, việc M đăng khai, được cấp quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà không đúng quy định pháp luật. Từ đó, nguyên đơn
những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ông Đ3, T2, ông H3) đều có
yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà số 002163 ngày 07/4/2011, hủy cập nhật
biến động sang tên ông M1, X trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
quyền sử dụng đất ở.
Hội đồng xét xử xét thấy:
- Nguồn gốc nhà đất số 219/42 Dương T12 của cụ S cụ N4. Hàng
thừa kế thứ nhất của 02 cụ gồm 07 người con, nhưng trong “Văn bản thỏa thuận
phân chia di sản” ngày 04/3/2009 tại Phòng C3, Thành phố H chỉ ý kiến của
ông P, bà L, bà C, bà M, không có ý kiến của 03 đồng thừa kế còn lại là ông Đ3,
T2, ông H3. Do đó, việc M căn cứ vào “Văn bản thỏa thuận phân chia di
sản” để đăng ký, khai được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
quyền sử dụng đất ngày 18/3/2009 là ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của các đồng thừa kế khác. Tuy nhiên, giao dịch mua bán nhà, đất giữa bà M
ông M1 được thực hiện sau khi gia đình M thực hiện việc phân chia di sản
thừa kế. Khi bà M đăng ký, kê khai và được Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp Giấy
chứng nhận quyền shữu nhà quyền sdụng đất tkhông ai khiếu
nại về việc cấp giấy chứng nhận này. Tại thời điểm M ông M1 giao kết
hợp đồng mua bán thì nhà, đất số 219/42 Dương T12 đã được công nhận
quyền sở hữu cho M, thực tế M cũng đang quản lý, sử dụng không b
các đồng thừa kế còn lại ý kiến phản đối, tranh chấp hay ngăn chặn. Do vậy,
ông M1 không thể biết căn nhà nêu trên di sản thừa kế những người thừa
kế của cụ S, cụ N4 chưa được kê khai đầy đủ khi làm thủ tục phân chia di sản.
24
Mặt khác, trong vụ án này c đương sự không yêu cầu chia thừa kế
theo pháp luật đối với di sản của cụ S, cụ N4. Những người thừa kế của cụ S, cụ
N4 lời trình bày thể hiện trong hồ vụ án như sau: Đ1, T3 (con riêng
của cụ S) xác định không nhận di sản thừa kế của cụ S, đồng ý giao lại cho 07
người con chung của cụ S cụ N4; Nguyễn Thị T2 lập “Giấy nhường
quyền ởng di sản thừa kế được công chứng tại Phòng C11, Thành phố H
ngày 18/4/1994, xác định nhường kỷ phần thừa kế của T2 được nhận tcha
mẹ cho Nguyễn Thị M; Ông P, L, bà C đã tặng cho kỷ phần thừa kế được
hưởng cho M. Vậy, nếu trong trường hợp có yêu cầu chia thừa kế thì bà M sẽ
được xem xét nhận thừa kế bằng hiện vật hoàn trả giá trị kỷ phần cho các
đồng thừa kế còn lại (do M đang trú tại nhà, đất tranh chấp được nhận
kỷ phần nhiều hơn các đồng thừa kế khác). Do đó, Tòa án cấp thẩm không
chấp nhận yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhận
định c đồng thừa kế của cụ S, cụ N4 quyền khởi kiện bằng một vụ án dân
sự khác, để yêu cầu M trả lại giá trị kỷ phần thừa kế mà họ được hưởng từ di
sản của cụ S cụ N4 căn cứ đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các
bên đương sự.
- Chứng cM nêu ra để chứng minh ông Huỳnh Minh H1 Huỳnh
Thị H2 có mượn giấy tờ nhà 219/42 Dương Bá T12 của bà thế chấp vay tiền ông
M1 là: “Giấy mượn giấy tờ nhà” ngày 01/7/2011, “Giấy mượn nhà” lập
ngày 07/4/2011 giữa bà M và ông H1, bà H2.
Xét thấy, “Giấy mượn giấy tờ nhà” ngày 01/7/2011 lập sau hợp đồng
mua bán nhà đất giữa M ông M1 (ngày 07/4/2011) nên không đủ căn cứ
để chứng minh. Trong các giấy tờ nêu trên chỉ thể hiện giao dịch giữa M
ông H1, H2 không nội dung liên quan đến ông M1. Quá trình giải quyết
vụ án, ông H1, H2 xác định mượn giấy tờ nhà của M để thế chấp vay
tiền ông M1, nhưng ông M1 không thừa nhận ông H1, H2 cũng không
tài liệu, chứng cứ chứng minh. Trong khi đó, ông H1, H2 M đều trình
bày thống nhất là ông H1, H2 nhận số tiền 2.700.000.000 đồng từ M,
không phải nhận từ ông M1. Sau khi giao kết hợp đồng mua bán, cùng ngày
07/4/2011 M, ông M1 “Biên bản bàn giao nhà” nội dung: “Bên B đã
thanh toán toàn bộ số tiền là 2.700.000.000 đồng”; phần tên nội dung
“Đã nhận trước 900.000.000đ” Đã nhận đủ tiền, số tiền
2.700.000.000đ” , phía trên phía dưới c hàng chữ này đều chữ ký, ghi
tên Nguyễn Thị M; Cũng trong ngày 07/4/2011, M hợp đồng thuê lại
nhà đất 219/42 Dương Bá T12 của ông M1, thời hạn thuê là 06 tháng. Từ những
tài liệu, chứng cứ nêu trên, sở xác định lời trình bày của M về việc cho
rằng hợp đồng mua bán nhà giả tạo là không căn cứ để chấp nhận. Tòa án
cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của M về việc: Hủy hợp
đồng mua bán nhà đất giữa M ông M1; Hủy giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà, quyền sdụng đất cập nhật sang tên cho M1, X; Buộc ông H1,
H2 trsố tiền 2.700.000.000 đồng cho ông M1, X phù hợp với các tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
25
[2.2.2] Đối với Hợp đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số 006755 ngày 19/6/2020 giữa ông M1, bà X với Võ Lan P3 đối với nhà
đất số 219/42 Dương Bá T12:
- Về hình thức: Hợp đồng được công chứng tại Văn phòng C6 đúng quy
định pháp luật.
- Về nội dung: Ông M1 bán nhà đất số B ơng T12 cho P3 với giá
5.700.000.000 đồng. Theo đó, P3 đã trả đủ tiền mua bán nhà, hoàn tất thủ tục
chuyển nhượng được cập nhật đứng tên trên giấy chứng nhận ngày
25/6/2020.
Hội đồng xét xử xét thấy: Trong các giao dịch liên quan đến nhà, đất số B
D, Phường A, Quận H, Thành phố H thì bà P3 là người thứ 3 (Bà M bán nhà cho
ông M1, ông M1 bán nhà cho P3). Việc xác định P3 ngay tình hay
không ngay tình trong giao dịch với ông M1 chỉ ý nghĩa khi giao dịch t
M sang ông M1 được xác định hiệu. Theo nội dung nhận định nêu trên thì
hợp đồng mua bán nhà tM sang ông M1 được công nhận hiệu lực, nên Tòa
án cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của M về việc hủy Hợp
đồng mua bán nhà chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/6/2020 giữa
ông M1, bà X với bà P3 là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, phía nguyên đơn trình bày tại thời điểm ông M1,
P3 thực hiện giao dịch thì nhà, đất trên đang có tranh chấp nên không đủ điều
kiện được công nhận hiệu lực, quan thẩm quyền thực hiện cập nhật
sang tên P3 trên giấy chứng nhận ngày 25/6/2020 không đúng quy định
pháp luật; Hiện tại M vẫn đang quản lý, sử dụng nhà, đất nên hợp đồng ngày
19/6/2020 chưa được hoàn thành.
Xét thấy, lời trình bày này của phía nguyên đơn là có cơ sở bởi hồ vụ án
thể hiện giao dịch giữa ông M1P3 được thực hiện khi Tòa án cấp sơ thẩm
đang thụ giải quyết vụ án. Nhưng việc xem xét hiệu lực của hợp đồng mua
bán ngày 19/6/2020 không liên quan, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của M, bởi: Ngày 07/4/2011 M đã chuyển nhượng nhà, đất số 219/42
Dương T12 cho ông M1, hai bên đã thực hiện việc bàn giao nhà, đất theo
“Biên bản bàn giao nhà” cùng ngày 07/4/2011; Việc M tiếp tục quản lý, sử
dụng nhà là theo hợp đồng thuê lại nhà trong thời hạn 06 tháng (theo quy định
tại Điều 122 Luật Nhà t hợp đồng th nhà không bắt buộc phải công
chứng), ông M1 X cũng đã được cập nhật sang tên trên giấy chứng nhận.
Như vậy, giao dịch mua bán nhà giữa M ông M1 đã hoàn thành, M
không còn quyền sở hữu đối với nhà đất trên. Nếu hợp đồng ngày 19/6/2020
hiệu thì chỉ liên quan đến quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia giao kết hợp
đồng là ông M1, P3, hiệu lực của hợp đồng mua bán ngày 19/6/2020
không ảnh hưởng đến hợp đồng mua bán ngày 07/4/2011 (như nhận định tại
phần [2.2.1]). Hơn nữa, giữa ông M1 P3 xác định không tranh chấp
đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng ngày 19/6/2020. Do vậy, Hội đồng xét xử xét
26
thấy không cần thiết phải vô hiệu hợp đồng này hủy nội dung cập nhật tên
P3 do Chi nhánh Văn phòng Đ, Thành phố H cập nhật ngày 25/6/2020 trên giấy
chứng nhận.
[3] Xét yêu cầu ca các đương sự:
[3.1] Theo nội dung nhận định nêu tại mục [2] thì yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm
các ông, Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thị T2 Nguyễn Thanh H3 không
được chấp nhận.
[3.2] Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn yêu cầu độc lập của người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lan P3 về việc buộc nguyên đơn giao trả
nhà đất số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H:
Do các giao dịch chuyển nhượng nhà, đất từM sang ông M1, X; Sau
đó từ ông M1, X sang P3 được công nhận hiệu lực nên yêu cầu của ông
M1, bà X P3 về việc buộc M những người đang sinh sống trong nhà
đất nêu trên giao trả nhà đất là căn cứ chấp nhận. Tuy nhiên, theo giao dịch
chuyển nhượng, mua bán giữa c bên thì bà M nghĩa vụ giao nhà cho ông
M1, X; Sau đó ông M1, X nghĩa vụ giao nhà cho P3. Tòa án cấp
thẩm buộc M những người đang sinh sống trong nhà đất số 219/42 Dương
T12 di dời tài sản, giao trả nhà đất cho P3 không rõ ràng khó thi
hành án. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm điều chỉnh lại cách tuyên án của Tòa án
cấp sơ thẩm về phần này để đảm bảo cho việc thi hành án.
[4] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp
thẩm đã xét xử là n cứ, đúng quy định pháp luật. Nguyên đơn người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo nhưng không tài liệu, chứng cứ
mới để chứng minh. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H tham gia phiên tòa; Không
chấp nhận yêu cầu kháng o của các đương sự, ginguyên bản án sơ thẩm
nhưng có điều chỉnh phần quyết định theo nội dung nhận định tại mục [3.2].
[5] Các phần khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyễn Thị M, sinh m 1954; Ông
Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1946; Nguyễn Thị T2, sinh năm 1949; Ông
Nguyễn Thanh H3, sinh năm 1950 được miễn án phí theo quy định tại Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
27
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị M.
Không chấp nhận kháng cáo của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thị T2, ông Nguyễn Thanh H3 ( ông
Nguyễn Văn T1 là người đại diện theo ủy quyền).
Giữ nguyên Bản án dân sthẩm s68/2024/DS-ST ngày 02 tháng 02
năm 2024 của Tòa án nhân dân Thành phố H, nhưng điều chỉnh phần quyết
định.
Áp dụng:
- Các Điều 26, 37, 228, 273 của Bộ luật Ttụng dân sự năm 2015; c
Điều 623, 651, 612, 166 của Bộ luật Dân sự; các Điều 203, khoản 1 Điều 168,
khoản 1 Điều 188, điểm đ khoản 1 Điều 197, khoản 1 Điều 186 Luật Đất đai;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn
Thị M (có ông Nguyễn Phạm Thanh D đại diện) về việc:
- Tuyên hiệu Hợp đồng mua bán nhà số: 002163 ngày 07/4/2011 tại
Văn phòng C5 (nay Văn phòng C7), Thành phố H giữa Nguyễn Thị M
ông Vũ Duy M1 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành
phố H;
- Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền shữu nhà quyền sử dụng đất
hồ gốc số 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H cấp
cho Nguyễn Thị M ngày 18/3/2009 cập nhật thay đổi chủ shữu cho ông
Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011;
- Buộc ông Huỳnh Minh H1, Huỳnh Thị H2 trlại toàn bộ số tiền đã
vay cho ông Duy M1, Nguyễn Thị Thanh X là 2.700.000.000 (hai tỷ bảy
trăm triệu) đồng;
- Tuyên vô hiệu Hợp đồng mua bán nhà số F, quyển số 02 ký ngày
19/6/2020 tại Văn phòng C6, Thành phố H giữa ông Duy M1, Nguyễn
Thị Thanh X với Lan P3 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường A,
Quận H, Thành phố H;
- Tuyên hủy nội dung cập nhật tên Lan P3 do Chi nhánh Văn phòng
Đ, Thành phố H cập nhật ngày 25/6/2020.
28
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Duy M1
Nguyễn Thị Thanh X (có ông Đồng Anh T đại diện); một phần yêu cầu độc
lập của bà Võ Lan P3 (có bà Nguyễn Thị T9 đại diện):
Công nhận Hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
công chứng 006755 do Văn phòng C6, Thành phố H chứng nhận ngày
19/6/2020; giữ nguyên cập nhật tên Lan P3 ngày 25/6/2020 trên Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất số 1052/2009/GCN do
Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H cấp ngày 18/3/2009;
Buộc bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị Thanh T5, bà Nguyễn Phạm Thanh
T7, trẻ Nguyễn Bảo N3 sinh năm 2016 trẻ Nguyễn Bảo Y sinh năm 2020
những người đang trú trong căn nhà s B đường D, Phường A, Quận H,
Thành phố H phải di dời tài sản, giao nhà đất trên cho ông Duy M1,
Nguyễn Thị Thanh X.
Sau khi nhận nhà, đất số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H,
ông Duy M1 Nguyễn Thị Thanh X nghĩa vụ bàn giao nhà đất trên
cho Lan P3 để thực hiện Hợp đồng mua bán nhà số 006755, quyển số 02
ngày 19/6/2020 tại Văn phòng C6, Thành phố H giữa ông Duy M1,
Nguyễn Thị Thanh X với bà Võ Lan P3.
Việc giao nhận nhà, đất số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H
từ Nguyễn Thị M những người đang trú tại căn nhà trên sang ông
Duy M1 Nguyễn Thị Thanh X; từ ông Duy M1 Nguyễn Thị
Thanh X sang bà Võ Lan P3 được thực hiện cùng một thời điểm.
Các bên đương sự thực hiện việc giao nhận nhà, đất sB đường D, Phường
A, Quận H, Thành phố H trong thời hạn 03 (ba) tháng kể từ ngày bản án có hiệu
lực pháp luật.
(theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất hồ
gốc số: 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp cho Nguyễn Thị
M ngày 18/3/2009, cập nhật tên ông Duy M1, Nguyễn Thị Thanh X ngày
22/12/2011, cập nhật tên Lan P3 ngày 25/6/2020 Bản vẽ hiện trạng
nhà do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên Môi trường Thành phố H
lập và phát hành ngày 12/6/2014 (theo hợp đồng số 119289/ĐĐBĐ-VPTT)).
3. Không chấp nhận yêu cầu của ông Vũ Duy M1 Nguyễn Thị Thanh
X yêu cầu độc lập của bà Võ Lan P3 (có bà Nguyễn Thị T9 đại diện) về việc:
Buộc Nguyễn Thị M những người đang trú trong căn nhà số B đường
D, Phường A, Quận H, Thành phố H tại thời điểm thi hành án phải giao nhà đất
này cho bị đơn ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
4. Đình chỉ yêu cầu phản tcủa ông Duy M1 Nguyễn Thị Thanh
X (bị đơn), về việc buộc nguyên đơn bà Nguyễn Thị M phải trả lại tiền thuê nhà
là 7.000.000 đồng/tháng từ ngày 15/02/2012 tạm tính đến tháng 4 năm 2013.
29
5. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Thành Đ, Nguyễn
Thị T2 và ông Nguyễn Thanh H3 (có ông Nguyễn Văn T1 đại diện), về việc:
- Hủy Văn bản thỏa thuận phân chia di sản số công chứng 006982 do
Phòng C3, Thành phố H chứng nhận ngày 04/3/2009;
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất hồ
gốc số 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H cấp cho
Nguyễn Thị M ngày 18/3/2009 và cập nhật thay đổi chủ sở hữu cho ông Vũ Duy
M1, bà Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011;
- Tuyên hiệu Hợp đồng mua bán nhà số 002163 ngày 07/4/2011 tại
Văn phòng C5 (nay Văn phòng C7), Thành phố H giữa Nguyễn Thị M
ông Vũ Duy M1 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành
phố H;
6. Không xem xét, giải quyết đối với việc bổ sung yêu cầu độc lập của ông
Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thị T2 ông Nguyễn Thanh H3 (có ông Nguyễn
Văn T1 đại diện) trình bày tại phiên tòa thẩm, về việc: Hủy hợp đồng mua
bán nhà giữa ông Duy M1, Nguyễn Thị Thanh X với Lan P3; hủy
nội dung cập nhật tên bà Võ Lan P3 trên giấy chứng nhận.
Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Thanh S cụ
Nguyễn Thị N4 (trong đó ông Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thị T2 ông
Nguyễn Thanh H3) quyền khởi kiện Nguyễn Thị M trong vụ án khác, để
yêu cầu Nguyễn Thị M trả lại kỷ phần thừa kế bằng giá trị họ được nhận
từ di sản của cụ Nguyễn Thanh S cụ Nguyễn Thị N4 (giá trị nhà, đất số B D,
Phường A, Quận H, Thành phố H) theo quy định pháp luật.
(Giá trị nhà, đất các đương sthống nhất 5.700.000.000 đồng (Năm tỷ
bảy trăm triệu đồng)).
7. Các phần khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
8. Án phí dân sự phúc thẩm:
Nguyễn Thị M, ông Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thị T2, ông Nguyễn
Thanh H3 được miễn.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 tngười được thi hành án
dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án; quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ
sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
30
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. H;
- TAND TP. H;
- VKSND TP. H;
- Cục THADS TP. H;
- Đương sự;
- Lưu (Án - NTCL).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Hòa Hiệp
Tải về
Bản án số 720/2024/DS-PT Bản án số 720/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 720/2024/DS-PT Bản án số 720/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất