Bản án số 720/2024/DS-PT ngày 06/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 720/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 720/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 720/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 720/2024/DS-PT ngày 06/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 720/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Giữ nguyên bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ H
Bản án số: 720/2024/DS-PT
Ngày 06 tháng 9 năm 2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà,
đòi nhà, yêu cầu tuyên bố văn bản công
chứng vô hiệu, hủy Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất, hủy nội dung cập nhật và yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ trả tiền
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ H
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Hòa Hiệp
Các Thẩm phán: Ông Vương Minh Tâm
Bà Đinh Ngọc Thu Hương
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Châu Loan - Thư ký Toà án nhân dân
cấp cao tại Thành phố H.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H tham gia
phiên toà: Ông Nguyễn Văn Phượng - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 30 tháng 8 năm 2024 và ngày 06 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án
nhân dân cấp cao tại Thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự
phúc thẩm thụ lý số: 433/2024/TLPT-DS ngày 29 tháng 5 năm 2024 về vụ án
“Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, đòi nhà, yêu cầu tuyên bố văn bản công
chứng vô hiệu, hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất,
hủy nội dung cập nhật và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 68/2024/DS-ST ngày 02 tháng 02 năm 2024
của Tòa án nhân dân Thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3009/2024/QĐ-PT
ngày 08 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1954 (có mặt; vắng mặt lúc
tuyên án);
Địa chỉ: Số B, đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Phạm Thanh
D, sinh năm 1978; Địa chỉ liên lạc: Số B, đường D Phường A, Quận H, Thành
2
phố H (Hợp đồng ủy quyền lập ngày 03/3/2015 tại Phòng C3, Thành phố H, số
D, quyển số 3) (có mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Phạm
Thị Thanh H – Công ty L4, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt);
Địa chỉ: P.903 - L.01, Tầng I, Tòa nhà D, số C L, phường B, Quận A,
Thành phố H.
- Bị đơn:
1/ Ông Vũ Duy M1, sinh năm 1960 (vắng mặt);
2/ Bà Nguyễn Thị Thanh X, sinh năm 1962 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số D N, Phường E, Quận C, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của đồng bị đơn: Ông Đồng Anh T, sinh năm
1973 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số F Đ, Phường H, quận T, Thành phố H (Giấy ủy quyền lập ngày
29/8/2018 tại Văn phòng C4, Thành phố H, số A, quyển số 08).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Huỳnh Minh H1, sinh năm 1957 (chết ngày 04/01/2021);
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Huỳnh Minh H1: Bà
Huỳnh Thị H2, sinh năm 1955 (vắng mặt);
Địa chỉ liên lạc: Số H, đường T, phường T, Quận G, Thành phố H.
2/ Bà Huỳnh Thị H2, sinh năm 1955 (vắng mặt);
Địa chỉ liên lạc: Số H, đường T, phường T, Quận G, Thành phố H.
3/ Ông Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1946 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số B, đường D Phường A, Quận H, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Đ: Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm
1977 (có mặt);
Địa chỉ: Số B L, phường B, Quận A, Thành phố H (Hợp đồng ủy quyền lập
ngày 02/4/2015 tại Văn phòng C5, Thành phố H, số C).
4/ Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1949 (vắng mặt);
Địa chỉ: D Belle Glade DR R, Hoa Kỳ.
5/ Ông Nguyễn Thanh H3, sinh năm 1950 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số B, Tổ I, Ấp D, xã L, huyện C, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Thanh H3 và bà Nguyễn Thị
T2: Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1977 (có mặt);
Địa chỉ: Số B L, phường B, Quận A, Thành phố H (Hợp đồng ủy quyền của
bà Nguyễn Thị T2 lập ngày 09/4/2015 tại Đ4 tại Washington D, Hoa Kỳ chứng
nhận số: 147/CNLS-2015; Hợp đồng ủy quyền của ông Nguyễn Thanh H3 lập
ngày 02/4/2015 tại Văn phòng C5, số C).
6/ Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1958 (có mặt; vắng mặt lúc tuyên án);
Địa chỉ: Số E T, Khu phố E, phường T, Quận G, Thành phố H.
7/ Bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1959 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số G, Đường số E, phường T, quận B, Thành phố H.
8/ Bà Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1966 (có mặt; vắng mặt lúc tuyên án);
Địa chỉ: Số B, đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H.
9/ Bà Võ Thị Đ1, sinh năm 1968 (vắng mặt);
3
Địa chỉ: Số B, Lầu B, Chung cư T, số D Â, Phường D, Quận A, Thành phố
H.
10/ Bà Võ Thị T3, sinh năm 1969 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số A, khóm V, phường N, thị xã C, tỉnh An Giang.
11/ Ông Đặng Ngọc C1, sinh năm 1972 (vắng mặt);
12/ Bà Trần Thị Kim T4, sinh năm 1970 (vắng mặt);
13/ Chị Đặng Ngọc Kim N, sinh năm 2003 (vắng mặt);
14/ Trẻ Đặng Ngọc Bảo N1, sinh năm 2007 (vắng mặt);
Người đại diện theo pháp luật của trẻ Bảo N2: Ông Đặng Ngọc C1 và bà
Trần Thị Kim T4 (vắng mặt);
15/ Bà Nguyễn Thị Thanh T5, sinh năm 1983 (vắng mặt);
16/ Bà Nguyễn Thị T6, sinh năm 1954 (vắng mặt);
17/ Ông Nguyễn Vũ Vĩnh P1, sinh năm 1972 (vắng mặt);
18/ Bà Nguyễn Thụy Ngọc B, sinh năm 1973 (vắng mặt);
19/ Bà Phạm Thị Hồng L1, sinh năm 1985 (vắng mặt);
20/ Chị Nguyễn Ngọc Trúc M2, sinh năm 2005 (vắng mặt);
21/ Trẻ Nguyễn Vũ Thiên B1, sinh ngày 03/9/2006 (vắng mặt);
Người đại diện theo pháp luật của trẻ Thiên Bảo: Ông Nguyễn Vũ Vĩnh P1
(vắng mặt);
22/ Bà Nguyễn Phạm Thanh T7, sinh năm 1987 (vắng mặt);
23/ Trẻ Nguyễn Bảo N3, sinh năm 2016 (vắng mặt);
24/ Trẻ Nguyễn Bảo Y, sinh năm 2020 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số B, đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H;
Người đại diện theo pháp luật của hai trẻ Bảo N3 và Bảo Y: Bà Nguyễn
Phạm Thanh T7 và ông Nguyễn Hoàng P2 (Ông Nguyễn Hoàng P2 sinh năm
1985 (vắng mặt);
Địa chỉ: E Ấp E, xã Đ, huyện B, Thành phố H;
25/ Phòng C3, Thành phố H;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Huỳnh Phương V, sinh năm 1991
(vắng mặt);
Cùng địa chỉ: I - I N, Phường G, Quận E, Thành phố H (Giấy ủy quyền
ngày 02/3/2020).
26/ Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H;
Trụ sở: Số 4, đường Dương Quang Đông, Phường 5, Quận 8, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lưu Quang Huy Q - Phó Trưởng phòng
- Phòng T13 (Giấy ủy quyền số 759/UBND-TNMT ngày 05/5/2021) (vắng mặt).
27/ Văn phòng C6, Thành phố H;
Trụ sở: Số 214/B2, đường Nguyễn Trãi, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận
1, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị H4, sinh năm 1987 (vắng
mặt);
Địa chỉ: Số B N, phường N, Quận A, Thành phố H (Giấy ủy quyền số
230/VPCC ngày 01/12/2021).
28/ Văn phòng C7 (tên cũ: Văn phòng C5), Thành phố H;
4
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Xuân T8 - Trưởng Văn phòng
(vắng mặt);
Địa chỉ: Số B, đường N, Phường F, Quận C, Thành phố H.
29/ Bà Võ Lan P3, sinh năm 1963 (vắng mặt);
Địa chỉ: A T, Lô C V, phường C, Quận A, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của bà P3:
29.1/ Bà Phạm Võ Phương D1, sinh năm 1984 (vắng mặt);
Địa chỉ: A T, Lô C V, phường C, Quận A, Thành phố H (Giấy ủy quyền lập
ngày 14/7/2020 tại Văn phòng C8, Thành phố H, số E, quyển số 07).
29.2/ Bà Nguyễn Thị T9, sinh năm 1985 (có mặt);
29.3/ Ông Dương Hồng D2, sinh năm 1997 (có đơn xin vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số F N, Phường A, Quận E, Thành phố H (Giấy ủy quyền lập
ngày 25/12/2020 tại Văn phòng C9, Thành phố H, số A, quyển số 12).
30/ Văn phòng Đăng ký đất đai Thành phố H;
Trụ sở: Số A, P, Phường G, quận B, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Thanh T10, sinh năm 1977 -
Phó Giám đốc Chi nhánh Văn phòng Đ (vắng mặt);
Địa chỉ: D D, Phường E, Quận H, Thành phố H (Giấy ủy quyền số
6691/GUQ-VPĐK-HC ngày 27/7/2023).
31/ Ông Phạm Văn Đ2, sinh năm 1963 (vắng mặt);
Địa chỉ: Tổ C, ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh Long An.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị M; những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Thành Đ, bà Nguyễn Thị T2 và
ông Nguyễn Thanh H3.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị M (có ông Nguyễn Phạm Thanh D là người
đại diện theo ủy quyền) trình bày:
Căn nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H là di sản thừa kế
do cha mẹ bà M là cụ Nguyễn Thanh S (chết năm 1972) và cụ Nguyễn Thị N4
(chết năm 1998) để lại. Cụ S và cụ N4 chết không có di chúc.
Cụ Nguyễn Thanh S và cụ Nguyễn Thị N4 có 08 người con chung: Ông
Nguyễn Thành Đ, bà Nguyễn Thị T2 (định cư ở Hoa Kỳ), ông Nguyễn Thanh
H3, ông Nguyễn Thanh P, bà Nguyễn Thị Kim L, bà Nguyễn Thị Kim C, ông
Nguyễn Thanh M3 (chết năm 1975) và bà Nguyễn Thị M.
Năm 2009, để tiện cho việc xin giấy phép sửa chữa nhà nên ông P, bà L, bà
C đã đồng ý cho bà M đứng tên trên Giấy chứng nhận. Còn ông Đ, ông H3, bà
T2 không đồng ý.
5
Ngày 18/3/2009, bà Nguyễn Thị M được Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ sơ gốc:
1052/2009/GCN đứng đại diện cho những người thừa kế.
Do có quan hệ quen biết nên bà M có cho ông Huỳnh Minh H1, bà Huỳnh
Thị H2 mượn giấy tờ căn nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H
để thế chấp vay tiền của ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X để hùn vốn
làm ăn với Công ty M4 theo Giấy mượn nhà ngày 07/4/2011. Cùng ngày, ông
H1 và bà H2 yêu cầu bà M ra Phòng công chứng làm thủ tục vay mượn dưới
hình thức hợp đồng mua bán nhà cho bên cho vay là ông M1. Lúc đầu bà M
không đồng ý, nhưng ông M1 và ông H1 nói đây chỉ là mượn giấy tờ để thế
chấp vay tiền và hứa 06 tháng sau sẽ hoàn lại giấy tờ nhà cho bà M, đồng thời
hủy hợp đồng mua bán nhà. Do không hiểu biết pháp luật và tin tưởng bạn nên
bà M đã ký vào hợp đồng bán nhà và không làm thủ tục đăng bộ.
Tuy nhiên, vợ chồng ông H1, bà H2 đóng tiền lãi vay cho ông M1 được 05
tháng thì không đóng nữa nên vợ chồng ông M1, bà X đã làm thủ tục sang tên
chủ quyền nhà và ép buộc bàn giao nhà. Vì vậy, ngày 28/3/2012, bà có làm đơn
khởi kiện yêu cầu tuyên hủy hợp đồng mua bán nhà giữa bà Nguyễn Thị M và
ông Vũ Duy M1. Tuy nhiên, do thấy không phù hợp với quy định của pháp luật
và không đúng với thực tế, nên ngày 04/6/2019 bà M đã thay đổi nội dung khởi
kiện như sau:
- Tuyên hủy Hợp đồng mua bán nhà số: 002163 ký ngày 07/4/2011 giữa bà
Nguyễn Thị M và ông Vũ Duy M1 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường
A, Quận H, Thành phố H vô hiệu;
- Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở
hồ sơ gốc số: 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp cho bà Nguyễn
Thị M ngày 18/3/2009 và cập nhật thay đổi chủ sở hữu cho ông Vũ Duy M1, bà
Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011;
- Buộc ông Huỳnh Minh H1, bà Huỳnh Thị H2 trả lại toàn bộ số tiền đã
vay cho ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X.
Nhà đất số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H từ ngày được cấp
giấy chứng nhận đến nay không thay đổi kết cấu, hiện trạng vẫn như cũ, không
sửa chữa gì. Nhà đất nói trên hiện không cho ai thuê. Ngoài những người nói
trên, thì hiện nay cũng không còn ai khác cư trú tại nhà.
* Nguyên đơn thống nhất lấy giá trị nhà đất tranh chấp theo giá mà ông Vũ
Duy M1 bán cho bà Võ Lan P3 5.700.000.000 đồng làm căn cứ giải quyết vụ án.
Nguyên đơn đã được Tòa án giải thích các quy định của pháp luật có liên quan
đến việc định giá hoặc thẩm định giá tài sản tranh chấp theo giá thị trường thời
điểm hiện nay làm căn cứ giải quyết vụ án, nhưng nguyên đơn không yêu cầu
định giá, không yêu cầu thẩm định giá.
6
* Tại phiên hòa giải ngày 07/12/2023, nguyên đơn xác định yêu cầu:
- Tuyên vô hiệu Hợp đồng mua bán nhà số: 002163 ký ngày 07/4/2011
giữa bà Nguyễn Thị M và ông Vũ Duy M1 về việc mua bán căn nhà số B đường
D, Phường A, Quận H, Thành phố H;
- Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở
hồ sơ gốc số: 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp cho bà Nguyễn
Thị M ngày 18/3/2009 và cập nhật thay đổi chủ sở hữu cho ông Vũ Duy M1, bà
Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011;
- Buộc ông Huỳnh Minh H1, bà Huỳnh Thị H2 trả lại toàn bộ số tiền đã
vay cho ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X là 2.700.000.000 đồng;
- Tuyên vô hiệu Hợp đồng mua bán nhà số: 006755, quyển số 02 ký ngày
19/6/2020 tại Văn phòng C6, Thành phố H giữa ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn
Thị Thanh X với bà Võ Lan P3 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường A,
Quận H, Thành phố H;
- Tuyên hủy nội dung cập nhật tên bà Võ Lan P3 do Chi nhánh Văn phòng
Đ cập nhật ngày 25/6/2020.
Ngoài các yêu cầu nói trên, nguyên đơn không có yêu cầu nào khác.
Nguyên đơn không nộp tạm ứng chi phí tố tụng nên không yêu cầu giải
quyết. Nguyên đơn không đồng ý với yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc
lập của bà Võ Lan P3. Nguyên đơn đồng ý với yêu cầu độc lập của ông Nguyễn
Thành Đ, bà Nguyễn Thị T2 và ông Nguyễn Thanh H3.
Đồng bị đơn ông Vũ Duy M1 và bà Nguyễn Thị Thanh X (cùng ủy quyền
cho ông Đồng Anh T đại diện) trình bày trong quá trình giải quyết vụ án:
Ngày 07/4/2011, ông Vũ Duy M1 và bà Nguyễn Thị M có ký hợp đồng
mua bán căn nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H, việc mua
bán là tự nguyện. Ông M1 đã đóng thuế cho Nhà nước đầy đủ, đăng bộ ngày
22/12/2011. Do chưa có chỗ ở nên bà M nhờ ông M1 cho bà M thuê lại căn nhà
với thời hạn 06 tháng. Bà M tự ý cho 03 người cùng ở nhờ là ông Đặng Ngọc
C1, bà Trần Thị Kim T4, bà Nguyễn Thị Thanh T5 mà không xin ý kiến ông
M1. Hết thời hạn, ông M1 đã liên hệ nhiều lần với bà M và những người ở nhờ
nhưng bà M và những người ở nhờ không trả nhà cho ông M1 khiến ông M1
không có chỗ ở ổn định, kinh tế gặp nhiều khó khăn.
Bị đơn không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu
cầu độc lập của bà Nguyễn Thị T2, ông Nguyễn Thanh H3 và ông Nguyễn
Thành Đ, vì: Việc mua bán giữa bà Nguyễn Thị M và bị đơn đã được các cơ
quan có thẩm quyền xác nhận, bị đơn đã thực hiện xong nghĩa vụ trả đủ số tiền
7
mua nhà là 2.700.000.000 đồng, đã thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước và
đã được cập nhật chủ sở hữu trên giấy chứng nhận.
Do nguyên đơn chưa thực hiện nghĩa vụ giao nhà, nên bị đơn có yêu cầu
phản tố, yêu cầu bà Nguyễn Thị M và những người đang cư trú tại nhà đất số B
đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H tại thời điểm thi hành án phải giao
nhà đất này cho bị đơn ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Bị đơn chỉ có một
yêu cầu phản tố này.
Nếu yêu cầu của nguyên đơn và yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị T2,
ông Nguyễn Thanh H3 và ông Nguyễn Thành Đ được chấp nhận, thì bị đơn yêu
cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật, buộc
bà Nguyễn Thị M phải trả lại cho bị đơn số tiền bằng đúng với số tiền mà bị đơn
đã bán nhà cho bà Võ Lan P3 là 5.700.000.000 đồng.
Ông Huỳnh Minh H1 và bà Huỳnh Thị H2 không liên quan đến việc mua
bán nhà giữa nguyên đơn và bị đơn, bị đơn không giao tiền mua nhà cho ông
H1, bà H2 mà giao tiền cho người bán nhà là bà Nguyễn Thị M, nên bị đơn
không đồng ý nhận tiền từ ông H1 và bà H2.
Hiện nay bị đơn đã bán nhà đất nói trên cho bà Võ Lan P3 với giá
5.700.000.000 đồng. Hai bên đã thực hiện xong thủ tục mua bán nhà tại cơ quan
có thẩm quyền, bà Võ Lan P3 đã được cập nhật tên chủ sở hữu trên giấy chứng
nhận. Bà P3 đã giao đủ số tiền mua nhà cho bị đơn, nhưng bị đơn vẫn chưa giao
được nhà cho bà Võ Lan P3 vì bà Nguyễn Thị M và gia đình bà M vẫn đang ở
trong đó. Vì vậy, bị đơn đồng ý với toàn bộ yêu cầu độc lập của bà Võ Lan P3.
Bị đơn không tranh chấp hợp đồng mua bán nhà với bà Võ Lan P3 và đồng ý
giao nhà cho bà Võ Lan P3.
Bị đơn thống nhất lấy giá trị nhà đất tranh chấp theo giá mà bị đơn bán cho
bà Võ Lan P3 5.700.000.000 đồng làm căn cứ giải quyết vụ án. Bị đơn đã được
Tòa án giải thích các quy định của pháp luật có liên quan đến việc định giá hoặc
thẩm định giá tài sản tranh chấp theo giá thị trường thời điểm hiện nay làm căn
cứ giải quyết vụ án, nhưng bị đơn không yêu cầu định giá, không yêu cầu thẩm
định giá. Nhà đất hiện nay không thay đổi gì về kết cấu, hiện trạng đúng như
trong giấy chứng nhận. Bị đơn tự nguyện chịu chi phí tố tụng mà bị đơn đã nộp
tạm ứng (nếu có).
Ông Đồng Anh T có đơn đề nghị ngày 25/01/2024 xin vắng mặt trong suốt
quá trình Tòa án nhân dân các cấp giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Huỳnh Thị H2 và ông
Huỳnh Minh H1 trình bày tại hồ sơ vụ án như sau:
Ông bà là vợ chồng, ông bà có hùn vốn với bà Võ Thị Thu Y1 để hoạt động
kinh doanh thẻ cào điện thoại với Công ty M4 nên ông bà có mượn giấy tờ căn
nhà số B D, Phường A, Quận H, Thành phố H của bà Nguyễn Thị M để cầm cố,
8
thế chấp cho ông Vũ Duy M1 vay số tiền 2.700.000.000 đồng như trình bày của
nguyên đơn là đúng. Việc làm ăn kinh doanh thất bại, ông bà nhận thấy có trách
nhiệm trả số tiền trên cho ông M1 để vợ chồng ông M1 trả lại nhà cho bà M
nhưng hiện nay bà Y1 đã bỏ trốn, đang bị truy nã, chưa thu hồi được tiền để trả
cho ông M1.
Ông bà đã sử dụng toàn bộ số tiền đã vay để kinh doanh. Việc lập thủ tục
mua bán nhà giữa các bên cũng là tự nguyện, bà M trực tiếp ký tên bán nhà,
nhận tiền từ ông M1 đưa cho vợ chồng ông bà và bên mua đã đứng tên chủ
quyền. Ông bà nhận trách nhiệm hoàn trả cho bà M giá trị căn nhà như theo biên
bản định giá đã được Tòa án xác định nếu như yêu cầu của nguyên đơn không
được chấp nhận, việc trả tiền sẽ được thực hiện khi cơ quan bảo vệ pháp luật bắt
được xử lý hình sự đối với bà Y1. Hiện tại, gia đình ông bà cũng đang gặp khó
khăn về kinh tế, phải ở nhà thuê, không có điều kiện để giải quyết ngay kỷ phần
thừa kế cho các anh em của bà M.
Tại Bản tự khai ngày 08/11/2023, bà Huỳnh Thị H2 trình bày:
Bà là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án; đồng thời là
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Huỳnh Minh H1.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bà từng khai bà và ông H1 mượn bản
chính giấy tờ căn nhà số B D, Phường A, Quận H, Thành phố H của bà Nguyễn
Thị M thế chấp cho ông Vũ Duy M1 để vay số tiền 2.700.000.000 đồng, nhưng
hiện tại bà không có chứng cứ gì về việc vay tiền này để cung cấp cho Tòa án.
Bà giữ nguyên lời khai của bà tại hồ sơ vụ án, không có thay đổi.
Ông Huỳnh Minh H1 chết ngày 04/01/2021, ông H1 chết không để lại di
chúc. Hàng thừa kế thứ nhất của ông H1 bao gồm:
Mẹ ruột: Bà Nguyễn Thị R, sinh năm 1933, chết năm 2020. Cha ruột:
Huỳnh Văn C2. Bà H2 không biết năm sinh, năm mất của ông C2 nhưng ông C2
chết trước bà R vài năm. Bà không có giấy khai sinh, khai tử, nơi cư trú cuối
cùng của cha mẹ ông H1 để cung cấp cho Tòa.
Bà là vợ của ông H1. Ông H1 không có con ruột, không có con nuôi. Ông
H1 chết không để lại tài sản gì, bà là người duy nhất thuộc hàng thừa kế thứ nhất
của ông H1.
Bà không biết giá nên không thỏa thuận giá. Đối với giá trị nhà đất tranh
chấp mà các bên thống nhất theo giá mà ông Vũ Duy M1 bán cho bà Võ Lan P3
là 5.700.000.000 đồng, bà đồng ý lấy làm căn cứ giải quyết vụ án. Bà không yêu
cầu định giá, không yêu cầu thẩm định giá.
Đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà không đồng ý với việc
nguyên đơn bà Nguyễn Thị M yêu cầu bà và ông H1 trả lại số tiền
2.700.000.000 đồng cho ông Vũ Duy M1 và bà Nguyễn Thị Thanh X, do hiện
9
tại bà không có tài sản gì và đang đau bệnh. Đối với các yêu cầu khác của các
đương sự, bà không có ý kiến gì, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật. Bà không có tranh chấp vụ vay tiền với ông Vũ Duy M1 cũng như
không có tranh chấp việc mượn giấy tờ nhà của bà Nguyễn Thị M. Bà không có
yêu cầu độc lập, cũng không có bất kỳ yêu cầu nào trong vụ án.
Bà Huỳnh Thị H2 có đơn xin vắng mặt trong quá trình Tòa án nhân dân các
cấp giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Võ Lan P3 (có bà
Nguyễn Thị T9 là người đại diện theo ủy quyền) trình bày:
Bà Võ Lan P3 là chủ sở hữu hợp pháp đối với nhà, đất thuộc thửa đất số 1,
tờ bản đồ số 21 (BĐĐC) tại địa chỉ số B D, Phường A, Quận H, Thành phố H
theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ sơ gốc số
1052/2009/GCN do H5 cấp ngày 18/3/2009, đăng ký thay đổi ngày 22/12/2011
và ngày 25/6/2020.
Nhà, đất này là do bà P3 mua của hai vợ chồng ông Vũ Duy M1, bà
Nguyễn Thị Thanh X theo hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử
dụng đất số công chứng 006755 tại Văn phòng C6 ngày 19/6/2020 với giá
chuyển nhượng là 5.700.000.000 đồng. Bà P3 đã thanh toán toàn bộ số tiền mua
bán nhà, đất nêu trên cho hai vợ chồng ông Vũ Duy M1 và bà Nguyễn Thị
Thanh X (đặt cọc số tiền 1.000.000.000 đồng và đã thanh toán toàn bộ số tiền
còn lại cho vợ chồng ông M1, bà X là 4.700.000.000 đồng ngay sau khi ký Hợp
đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/6/2020 theo
Giấy ủy nhiệm chi của Ngân hàng Á, Phòng G - S ngày 19/6/2020).
Ngày 25/6/2020, bà P3 được Chi nhánh Văn phòng Đ cập nhật thay đổi chủ
sở hữu căn nhà.
Khi thực hiện việc mua bán nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với
vợ chồng ông M1, bà X, bà đã liên hệ Chi nhánh Văn phòng Đ để tìm hiểu
thông tin về tình trạng sở hữu, sử dụng nhà đất nêu trên là của vợ chồng ông Vũ
Duy M1 và bà Nguyễn Thị Thanh X theo Công văn số 259/CNQ8-LT ngày
29/5/2020. Đồng thời, vợ chồng ông M1, bà X cũng cho biết ông bà là chủ sở
hữu, sử dụng hợp pháp nhà đất này.
Bà Nguyễn Thị M là chủ sở hữu đầu tiên của nhà đất nêu trên và chuyển
nhượng lại cho vợ chồng ông Vũ Duy M1 và bà Nguyễn Thị Thanh X. Sau khi
mua nhà, vợ chồng ông M1, bà X đồng ý cho bà M thuê lại nhà này. Khi bà P3
mua lại căn nhà này, thì bà P3 đã yêu cầu bà Nguyễn Thị M và những người
đang ở trong nhà trả lại nhà cho bà P3 để sử dụng, nhưng bà Nguyễn Thị M và
những người khác đang cư trú tại đây vẫn không trả nhà cho bà P3.
Bà Võ Lan P3 không tranh chấp hợp đồng mua bán nhà với bị đơn. Nhà đất
hiện nay không thay đổi gì về kết cấu, hiện trạng đúng như trong giấy chứng
10
nhận.
* Bà Võ Lan P3 thống nhất lấy giá trị nhà đất tranh chấp theo giá mà ông
Vũ Duy M1 bán cho bà Võ Lan P3 5.700.000.000 đồng làm căn cứ giải quyết vụ
án. Bà P3 đã được Tòa án giải thích các quy định của pháp luật có liên quan đến
việc định giá hoặc thẩm định giá tài sản tranh chấp theo giá thị trường thời điểm
hiện nay làm căn cứ giải quyết vụ án, nhưng bà P3 không yêu cầu định giá,
không yêu cầu thẩm định giá.
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bà Võ Lan P3 có đơn yêu
cầu độc lập, yêu cầu Tòa án xem xét và giải quyết như sau:
- Tuyên công nhận Hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử
dụng đất số công chứng 006755 do Văn phòng C6 chứng nhận ngày 19/6/2020,
đồng thời giữ nguyên cập nhật thay đổi ngày 25/6/2020 sang tên bà Võ Lan P3
trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số
1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp ngày 18/3/2009;
- Tuyên buộc bà Nguyễn Thị M và những người đang cư trú trong căn nhà
và đất tại địa chỉ số B D, Phường A, Quận H, Thành phố H phải di dời toàn bộ
tài sản ra khỏi căn nhà này và hoàn trả lại toàn bộ nhà, đất nêu trên cho bà Võ
Lan P3 ngay khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài các yêu cầu nói trên, bà Võ Lan P3 không có yêu cầu nào khác. Bà
Võ Lan P3 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu độc
lập của bà Nguyễn Thị T2, ông Nguyễn Thanh H3 và ông Nguyễn Thành Đ;
đồng ý với yêu cầu phản tố của bị đơn.
Trường hợp yêu cầu của nguyên đơn và yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị
T2, ông Nguyễn Thanh H3 và ông Nguyễn Thành Đ được Tòa án chấp nhận, bà
Võ Lan P3 yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, yêu cầu cụ thể bà
sẽ có văn bản nộp cho Tòa án trong thời hạn 15 ngày.
Bà Võ Lan P3 có nộp tạm ứng chi phí tố tụng (xem xét, thẩm định tại chỗ)
là 5.000.000 (năm triệu) đồng và tự nguyện chịu số tiền này, không yêu cầu Tòa
án giải quyết.
Người đại diện theo ủy quyền của những người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan bà Nguyễn Thị T2, ông Nguyễn Thanh H3 và ông Nguyễn Thành Đ
là ông Nguyễn Văn T1 có văn bản trình bày:
Căn nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H là di sản thừa kế
của cụ Nguyễn Thanh S (chết năm 1972) và cụ Nguyễn Thị N4 (chết năm 1998)
để lại (không có di chúc). Hai cụ có 08 người con chung, bao gồm: Ông Nguyễn
Thành Đ, bà Nguyễn Thị T2 (định cư ở Hoa Kỳ), ông Nguyễn Thanh H3, ông
Nguyễn Thanh P, bà Nguyễn Thị Kim L, bà Nguyễn Thị Kim C, ông Nguyễn
Thanh M3 (chết năm 1975) và bà Nguyễn Thị M. Ngoài ra, ông S còn có 02
11
người con riêng là bà Võ Thị T3 và bà Võ Thị Đ1. Theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005, 10 người con trên thuộc hàng thừa
kế thứ nhất của cụ S và 08 người con (ngoại trừ bà T3 và bà Đ1) là hàng thừa kế
thứ nhất của cụ N4 đối với di sản là căn nhà nêu trên.
Bà Nguyễn Thị M kê khai thiếu người thừa kế và dẫn đến việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất không
đúng quy định pháp luật. Cụ thể, ngày 04/3/2009, ông Nguyễn Thanh P, bà
Nguyễn Thị Kim L, bà Nguyễn Thị Kim C và bà Nguyễn Thị M đã ký văn bản
thoả thuận phân chia di sản thừa kế của cụ S và cụ N4 là căn nhà nêu trên (được
công chứng tại Văn phòng C10; số công chứng 006982 ngày 04/3/2009). Sau
đó, bà M được ông P, bà L và bà C tặng cho lại phần quyền hưởng di sản. Việc
lập văn bản thoả thuận phân chia di sản nêu trên đã bỏ sót những đồng thừa kế là
ông S, bà N4, ông Đ, bà T2, ông H3, bà T3 và bà Đ1 nên văn bản này vô hiệu
theo quy định tại Điều 128 Bộ luật Dân sự năm 2005. Do đó, hợp đồng mua bán
căn nhà nêu trên giữa bà M với ông M1, bà X là vô hiệu theo quy định tại khoản
2 Điều 128 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Giao dịch chuyển nhượng giữa ông M1, bà X với bà Võ Lan P3 vi phạm
quy định pháp luật do đối tượng chuyển nhượng đang có tranh chấp (Tòa án
nhân dân Thành phố H đang thụ lý giải quyết). Tuy nhiên, H5 vẫn tiến hành cập
nhật biến động trên giấy chứng nhận cho bà P3 là trái với quy định của pháp
luật.
Do đó, ông T1 yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết:
- Tuyên vô hiệu Hợp đồng mua bán nhà số B ký ngày 07/4/2011 giữa bà
Nguyễn Thị M với ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X về việc mua bán
nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H theo khoản 2, Điều 138 Bộ
luật Dân sự năm 2005;
- Hủy Văn bản thỏa thuận phân chia di sản số công chứng 006982 do
Phòng C3, Thành phố H chứng nhận ngày 04/3/2009;
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ sơ
gốc số 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp cho bà Nguyễn Thị
M ngày 18/3/2009 và cập nhật thay đổi chủ sở hữu cho ông Vũ Duy M1, bà
Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011;
- Tuyên hủy hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông M1, bà X với bà P3 (số công chứng 006755, ngày 19/6/2020 tại Văn
phòng C6); huỷ phần cập nhật sang tên cho bà P3 ngày 25/6/2020 trên Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1052/2009/GCN do
H5 cấp ngày 18/3/2009.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Kim L trình
bày tại bản tự khai ngày 27/8/2018:
12
Bà Nguyễn Thị Kim L là em thứ bảy trong gia đình, lập gia đình vào năm
1980 và đã ra ở riêng. Bà được biết chị bà là bà Nguyễn Thị M cho bạn mượn
giấy tờ nhà cầm cho ông Vũ Duy M1. Sau thời gian không hoàn tiền lại nên ông
M1 đến dùng áp lực để lấy căn nhà nhưng nhà có nhiều anh, chị và con cháu ở
nên không lấy lại được.
Bà không biết cụ thể sự việc xảy ra giữa ông M1, bà M và bà H2. Theo
nguyện vọng của bà, đây là căn nhà mà các anh chị, các cháu của bà đang ở, cần
giữ lại căn nhà theo nguyện vọng của cha mẹ để làm nhà thờ, cúng giỗ hằng năm
và họp mặt ngày Tết. Bà đề nghị Tòa án giải quyết cho gia đình bà được giữ lại
nhà, đất tranh chấp.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Kim T4 (đồng
thời là người đại diện theo pháp luật của trẻ Đặng Ngọc Bảo N1) trình bày tại
bản tự khai ngày 27/8/2018:
Bà là cháu dâu của gia đình, hiện cư ngụ tại nhà số B đường D, Phường A,
Quận H, Thành phố H cùng chồng và hai con Kim N và Bảo N1. Bà Nguyễn Thị
M là dì của chồng bà. Bà được biết căn nhà nói trên là của ông bà ngoại chồng
bà để lại. Bà M cho một người bạn mượn nhưng không trả và dẫn đến vụ tranh
chấp. Bà đề nghị Tòa án giải quyết cho gia đình bà được giữ lại nhà, đất.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị T6 trình bày
tại bản tự khai ngày 27/8/2018:
Bà hiện đang cư ngụ tại nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố
H cùng chồng là ông Nguyễn Thành Đ và các con cháu. Bà Nguyễn Thị M là em
gái thứ năm của chồng bà, được gia đình cho đại diện đứng tên căn nhà thay thế
mẹ chồng bà là cụ Nguyễn Thị N4 sau khi cụ N4 qua đời. Việc bà M cho bạn
cầm, thế chấp nhà thờ do cha mẹ để lại khiến vợ chồng bà rất phiền lòng, vợ
chồng bà đã lớn tuổi và con cháu trong gia đình cần nơi cư trú ổn định để yên
tâm học hành. Bà đề nghị Tòa án giải quyết cho gia đình bà được giữ lại nhà, đất
này.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Võ Thị Đ1 trình bày tại
Bản tự khai ngày 26/01/2021:
Bà là con của ông Nguyễn Thanh S (chết năm 1972). Ông Nguyễn Thanh S
có chung sống với bà Võ Thị L2 (chết năm 2007) nhưng không đăng ký kết hôn,
vì ông S có vợ là bà Nguyễn Thị N4. Ông S và bà L2 có 02 người con chung là
bà và em của bà là Võ Thị T3 (sinh năm 1969). Trong giấy khai sinh của 02 bà
đều lấy họ của mẹ. Việc ông S chết có để lại di chúc hay không, bà không rõ
nhưng mẹ bà chết không để lại di chúc.
Bà không biết ai là chủ sở hữu nhà đất số B D, Phường A, Quận H, Thành
phố H. Bà cũng không biết gì về quan hệ mua bán nhà của các đương sự trong
vụ án này.
13
Ông Nguyễn Thanh S và bà Nguyễn Thị N4 có 07 người con chung như
nguyên đơn trình bày. Nhà đất nói trên không liên quan đến mẹ bà là bà L2, bà
L2 cũng không có quyền lợi gì đối với nhà đất trên.
Bà đã nhận được thông báo thụ lý vụ án và biết các quan hệ pháp luật trong
vụ án. Bà đã được Tòa án giải thích các quyền và nghĩa vụ của bà trong vụ án,
nhưng bà không có yêu cầu độc lập trong vụ án, cũng không yêu cầu hưởng di
sản thừa kế của ông Nguyễn Thanh S. Nếu Tòa xác định nhà đất nói trên là di
sản thừa kế của ông S và bà N4, trong đó bà là con ông S và cũng được hưởng
thừa kế, thì bà xin không nhận phần di sản này và giao lại cho 07 anh chị cùng
cha khác mẹ của bà (những người con chung của ông S và bà N4). Bà xác định
bà không có bất kỳ yêu cầu gì trong vụ án. Bà có đơn xin vắng mặt trong quá
trình Tòa án nhân dân các cấp giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Võ Thị T3 trình bày tại
Bản tự khai ngày 22/3/2021:
Bà là con của ông Nguyễn Thanh S (chết năm 1972) và bà Võ Thị L2 (chết
năm 2007). Bà có cùng ý kiến với chị bà là bà Võ Thị Đ1 theo trình bày tại Bản
tự khai ngày 26/01/2021.
Nếu Tòa xác định nhà đất nói trên là di sản thừa kế của ông S và bà N4,
trong đó bà là con ông S và cũng được hưởng thừa kế thì bà xin nhận phần di
sản này và giao lại cho 07 anh chị cùng cha khác mẹ của bà (những người con
chung của ông S và bà N4). Bà xác định bà không có bất kỳ yêu cầu gì trong vụ
án. Bà có đơn xin vắng mặt trong quá trình Tòa án nhân dân các cấp giải quyết
vụ án.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Văn Đ2 trình bày
tại Bản tự khai ngày 26/7/2023:
Ông là chồng của bà Võ Lan P3. Năm 2020, bà P3 có mua căn nhà số B D,
Phường A, Quận H, Thành phố H. Nhà, đất nói trên là tài sản riêng của bà P3
theo Văn bản cam kết về tài sản ngày 20/7/2020 của ông lập tại Văn phòng C8.
Ông không có quyền lợi, nghĩa vụ gì đối với nhà, đất tranh chấp trong vụ án, nên
ông không có ý kiến hay yêu cầu gì đối với vụ án. Ông có đơn xin vắng mặt
trong quá trình Tòa án nhân dân các cấp giải quyết vụ án.
Văn phòng C7 (tên cũ: Văn phòng C5), Thành phố H (có ông Phạm
Xuân T8 là người đại diện theo pháp luật) trình bày tại văn bản số
150/VPCCPXT ngày 20/12/2021 như sau:
Hợp đồng mua bán nhà lập ngày 07/04/2011 tại Văn phòng C5 (nay là Văn
phòng C7), Thành phố H, số công chứng 002163 do công chứng viên Trần Công
Khai ký công chứng, được ký kết giữa bà Nguyễn Thị M (bên bán) và ông Vũ
Duy M1 (bên mua) về việc mua bán nhà, đất số B D, Phường A, Quận H, Thành
phố H. Hồ sơ lưu trữ thể hiện việc lập và công chứng hợp đồng được thực hiện
14
đúng quy trình và thủ tục theo quy định của pháp luật, hồ sơ công chứng hoàn
toàn hợp lệ. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ kiện vắng mặt theo những chứng cứ
có trong hồ sơ vụ án theo quy định của pháp luật.
Văn phòng C6, Thành phố H (có bà Nguyễn Thị H4 là người đại diện
theo ủy quyền) trình bày tại văn bản số 100/CCTQP ngày 16/6/2021 như sau:
Ngày 19/06/2020, Văn phòng C6 có nhận được hồ sơ yêu cầu công chứng
Hợp đồng mua bán đối với căn nhà số B D, Phường A, Quận H, Thành phố H
giữa bên bán là ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X với bên mua là bà Võ
Lan P3. Công chứng viên kiểm tra hồ sơ thấy đầy đủ và hợp lệ nên giao cho thư
ký kiểm tra ngăn chặn và lịch sử giao dịch của căn nhà nêu trên, kiểm tra lại bản
soạn thảo hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Sau khi đã kiểm tra ngăn chặn không có bị ngăn chặn, lịch sử giao dịch hồ
sơ của căn nhà nêu trên cũng không có hiển thị đã giao dịch, kiểm tra các thông
tin cá nhân, chi tiết thực trạng nhà đất ghi trong bản soạn thảo hợp đồng, thư ký
chuyển cho các bên đọc lại hợp đồng chuyển nhượng, hai bên không yêu cầu bổ
sung hay sửa chữa gì. Sau khi đã nghe rõ công chứng viên giải thích quyền và
nghĩa vụ của mỗi bên, các bên tham gia giao dịch đã đồng ý ký tên và lăn tay
hợp đồng trước sự chứng kiến của công chứng viên.
Việc công chứng hợp đồng mua bán nhà số 006755 ngày 19/06/2020 của
Văn phòng C6, Thành phố H là đúng theo quy định của pháp luật, do đó đủ cơ
sở để công nhận hợp đồng mua bán theo yêu cầu của người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan Võ Lan P3 là đúng theo quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án
giải quyết vụ kiện vắng mặt theo những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án theo quy
định của pháp luật.
Phòng C3, Thành phố H (có ông Lê Huỳnh Phương V là người đại diện
theo ủy quyền) trình bày tại bản tự khai ngày 02/3/2020 như sau:
Vào thời điểm công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản do Phòng
C3, Thành phố H chứng nhận, số công chứng 006982, quyền số 03, ngày
04/3/2009, công chứng viên đã thực hiện việc công chứng phù hợp với quy định
của pháp luật có liên quan. Căn cứ trên cơ sở sự tự nguyện, yêu cầu công chứng
hợp pháp và các giấy tờ nhân thân, tài sản của người yêu cầu công chứng xuất
trình đầy đủ, phù hợp với quy định của pháp luật, công chứng viên đã tiếp nhận
và thực hiện việc công chứng nêu trên. Do hồ sơ lưu trữ thể hiện rõ việc công
chứng hợp đồng nêu trên là phù hợp với quy định của pháp luật vào thời điểm
công chứng, nên Phòng C3, Thành phố H không có ý kiến gì thêm. Đề nghị Tòa
án giải quyết vụ kiện vắng mặt theo những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án theo
quy định của pháp luật.
Văn phòng Đăng ký đất đai Thành phố H (có bà Nguyễn Thị Thanh T10
là người đại diện theo ủy quyền) trình bày tại bản tường trình ngày 04/8/2023
như sau:
15
Việc Chi nhánh Văn phòng Đ, Thành phố H cập nhật tên ông Vũ Duy M1,
bà Nguyễn Thị Thanh X (ngày 22/12/2011) và bà Võ Lan P3 (ngày 25/6/2020)
trên Giấy chứng quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số:
1052/2009/GCN ngày 18/3/2009 của bà Nguyễn Thị M là đúng quy định của
pháp luật, nên Văn phòng Đ, Thành phố H không có ý kiến gì thêm. Đề nghị
Tòa án giải quyết vụ kiện vắng mặt theo những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án
theo quy định của pháp luật.
Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H:
* Người đại diện là bà Phạm Phương T11 – Phó Giám đốc Văn phòng
Đăng ký quyền sử dụng đất Quận H (giấy ủy quyền số 1361/UBND-NC ngày
10/6/2015) trình bày tại Bản tường trình ngày 12/6/2015 như sau: Căn nhà 2 D,
Phường A, Quận H có nguồn gốc đất do bà Nguyễn Thị M sử dụng, được Ủy
ban nhân dân Quận H5 cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở số 1052/2009/GCN ngày 18/3/2009.
Năm 2011, bà Nguyễn Thị M chuyển nhượng cho ông Vũ Duy M1 và bà
Nguyễn Thị Thanh X có công chứng của Văn phòng C5 ngày 07/4/2011.
Ngày 16/12/2011, ông Vũ Duy M1 nộp hồ sơ đề nghị cập nhật biến động
tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả thuộc Ủy ban nhân dân Quận H5, thành phần
hồ sơ gồm có: Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số
1052/2009/GCN ngày 18/3/2007 do Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp, thông báo
nộp lệ phí trước bạ nhà đất 15479/TB ngày 10/3/2009 của Cục T14, hợp đồng
mua bán nhà số 002163 do Văn phòng C5 chứng nhận ngày 07/4/2011.
Căn cứ khoản 1 Điều 127 Luật Đất đai năm 2003, Điều 19 Thông tư
17/TT-BTNMT ngày 21/10/2009 của Bộ T15 quy định về giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất, thì việc Ủy
ban nhân dân Quận H5 (Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất Quận H) đã đăng
ký cập nhật biến động trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở số 1052/GCN ngày 18/3/2007 cho ông Vũ Duy M1 và bà Nguyễn
Thị Thanh X là đúng quy định. Bà có đơn xin vắng mặt trong quá trình Tòa án
giải quyết vụ án.
* Người đại diện là ông Nguyễn Hồng L3 – Phó Trưởng phòng T13 (giấy
ủy quyền số 1751/UBND-NC ngày 13/7/2015) trình bày tại bản tường trình
ngày 20/7/2015 như sau: Nhà đất tranh chấp được Ủy ban nhân dân Quận H5
cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số
5775/2008/GCN ngày 30/5/2008 cho bà Nguyễn Thị M đứng tên đại diện cho
các đồng thừa kế.
Ngày 10/3/2009, bà Nguyễn Thị M có nộp hồ sơ đề nghị cấp đổi giấy
chứng nhận theo Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế có công chứng số
006982 ngày 04/3/2009 do Phòng C3, Thành phố H chứng nhận với nội dung:
Bà Nguyễn Thị M được toàn quyền hưởng di sản đối với nhà ở và quyền sử
16
dụng đất ở. Sau đó, được Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp đổi Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1052/2009/GCN ngày 18/3/2009
cho bà M là chủ sở hữu, sử dụng.
Ngày 07/4/2011, bà Nguyễn Thị M đã chuyển nhượng toàn bộ nhà đất cho
ông Vũ Duy M1 theo hợp đồng công chứng số 002163 do Văn phòng C5 chứng
nhận, được Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất Quận H cập nhật biến động
thay đổi chủ sở hữu, sử dụng ngày 22/12/2011.
Như vậy, nhà đất nói trên đã có giấy tờ hợp pháp, hợp lệ, các đương sự
nhận chuyển nhượng từ hợp đồng công chứng và chuyển về Ủy ban nhân dân
Quận H5 để lập thủ tục cấp đổi và cập nhật biến động trên giấy chứng nhận là
đúng theo quy định của pháp luật. Do đó, đề nghị Tòa án căn cứ tính pháp lý của
các hợp đồng công chứng giữa các bên để xét xử theo quy định. Ông có đơn xin
vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án.
* Người đại diện là ông Lưu Quang Huy Q (Giấy ủy quyền số 759/UBND-
TNMT ngày 05/5/2021) trình bày tại đơn xin giải quyết vắng mặt ngày
16/5/2022 như sau: Ông xin bảo lưu ý kiến trong bản tường trình do ông
Nguyễn Hồng L3 đại diện theo ủy quyền trước đây của Ủy ban nhân dân Quận
H5. Ông xin vắng mặt trong các buổi làm việc, hòa giải, xét xử của Tòa án. Đề
nghị Tòa án giải quyết vụ kiện vắng mặt theo những chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 68/2024/DS-ST ngày 02/02/2024, Tòa án
nhân dân Thành phố H quyết định:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn
Thị M (có ông Nguyễn Phạm Thanh D đại diện), về việc:
1.1. Tuyên vô hiệu Hợp đồng mua bán nhà số: 002163 ký ngày 07/4/2011
tại Văn phòng C5 (nay là Văn phòng C7), Thành phố H giữa bà Nguyễn Thị M
và ông Vũ Duy M1 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường A, Quận H,
Thành phố H;
1.2. Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất
ở hồ sơ gốc số 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H
cấp cho bà Nguyễn Thị M ngày 18/3/2009 và cập nhật thay đổi chủ sở hữu cho
ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011;
1.3. Buộc ông Huỳnh Minh H1, bà Huỳnh Thị H2 trả lại toàn bộ số tiền đã
vay cho ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X là 2.700.000.000 (hai tỷ bảy
trăm triệu) đồng;
1.4. Tuyên vô hiệu Hợp đồng mua bán nhà số F, quyển số 02 ký ngày
19/6/2020 tại Văn phòng C6, Thành phố H giữa ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị
17
Thanh X với bà Võ Lan P3 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường A, Quận
H, Thành phố H;
1.5. Tuyên hủy nội dung cập nhật tên bà Võ Lan P3 do Chi nhánh Văn
phòng Đ, Thành phố H cập nhật ngày 25/6/2020.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Vũ Duy M1 và bà
Nguyễn Thị Thanh X (có ông Đồng Anh T đại diện).
Buộc bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị Thanh T5, bà Nguyễn Phạm Thanh
T7, trẻ Nguyễn Bảo N3 sinh năm 2016 và trẻ Nguyễn Bảo Y sinh năm 2020 (có
bà Nguyễn Phạm Thanh T7 và ông Nguyễn Hoàng P2 đại diện theo pháp luật)
và những người đang cư trú trong căn nhà số B đường D, Phường A, Quận H,
Thành phố H (theo Giấy chứng nhận Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất ở hồ sơ gốc số: 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận
H5 cấp cho bà Nguyễn Thị M ngày 18/3/2009, cập nhật tên ông Vũ Duy M1, bà
Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011, cập nhật tên bà Võ Lan P3 ngày
25/6/2020 và Bản vẽ hiện trạng nhà do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở Tài
nguyên và Môi trường Thành phố H lập và phát hành ngày 12/6/2014 (theo hợp
đồng số 119289/ĐĐBĐ-VPTT)) tại thời điểm thi hành án, phải giao nhà đất này
cho ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X trong thời hạn 03 (ba) tháng kể từ
ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
2.1. Không chấp nhận yêu cầu của ông Vũ Duy M1 và bà Nguyễn Thị
Thanh X về việc buộc bà Nguyễn Thị M và những người đang cư trú trong căn
nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H tại thời điểm thi hành án
phải giao nhà đất này cho bị đơn ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
2.2. Đình chỉ yêu cầu phản tố của ông Vũ Duy M1 và bà Nguyễn Thị Thanh
X (bị đơn), về việc buộc nguyên đơn bà Nguyễn Thị M phải trả lại tiền thuê nhà
là 7.000.000 đồng/tháng từ ngày 15/02/2012 tạm tính đến tháng 4 năm 2013.
3. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Thành Đ, bà Nguyễn
Thị T2 và ông Nguyễn Thanh H3 (có ông Nguyễn Văn T1 đại diện), về việc:
3.1. Hủy Văn bản thỏa thuận phân chia di sản số công chứng 006982 do
Phòng C3, Thành phố H chứng nhận ngày 04/3/2009;
3.2. Hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ
sơ gốc số 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H cấp cho
bà Nguyễn Thị M ngày 18/3/2009 và cập nhật thay đổi chủ sở hữu cho ông Vũ
Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011;
3.2. Tuyên vô hiệu Hợp đồng mua bán nhà số 002163 ký ngày 07/4/2011
tại Văn phòng C5 (nay là Văn phòng C7), Thành phố H giữa bà Nguyễn Thị M
và ông Vũ Duy M1 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường A, Quận H,
Thành phố H;
18
Không xem xét, giải quyết đối với việc bổ sung yêu cầu độc lập của ông
Nguyễn Thành Đ, bà Nguyễn Thị T2 và ông Nguyễn Thanh H3 (có ông Nguyễn
Văn T1 đại diện) trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, về việc: Hủy hợp đồng mua
bán nhà giữa ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X với bà Võ Lan P3; hủy
nội dung cập nhật tên bà Võ Lan P3 trên giấy chứng nhận.
4. Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Thanh S và cụ
Nguyễn Thị N4 (trong đó có ông Nguyễn Thành Đ, bà Nguyễn Thị T2 và ông
Nguyễn Thanh H3) có quyền khởi kiện bà Nguyễn Thị M trong vụ án khác, để
yêu cầu bà Nguyễn Thị M trả lại kỷ phần thừa kế bằng giá trị mà họ được nhận
từ di sản của cụ Nguyễn Thanh S và cụ Nguyễn Thị N4 (giá trị nhà, đất số B D,
Phường A, Quận H, Thành phố H) theo quy định của pháp luật. Giá trị nhà, đất
các đương sự thống nhất là 5.700.000.000 (năm tỷ bảy trăm triệu) đồng.
5. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của bà Võ Lan P3 (có bà Nguyễn
Thị T9 đại diện).
Công nhận Hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất
số công chứng 006755 do Văn phòng C6, Thành phố H chứng nhận ngày
19/6/2020; giữ nguyên cập nhật tên bà Võ Lan P3 ngày 25/6/2020 trên Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1052/2009/GCN do
Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H cấp ngày 18/3/2009;
Buộc ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X, bà Nguyễn Thị M, bà
Nguyễn Thị Thanh T5, bà Nguyễn Phạm Thanh T7, trẻ Nguyễn Bảo N3 sinh năm
2016 và trẻ Nguyễn Bảo Y sinh năm 2020 (có bà Nguyễn Phạm Thanh T7 và ông
Nguyễn Hoàng P2 đại diện theo pháp luật) và những người đang cư trú trong
căn nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H (theo Giấy chứng
nhận Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ sơ gốc
số: 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp cho bà Nguyễn Thị M
ngày 18/3/2009, cập nhật tên ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X ngày
22/12/2011, cập nhật tên bà Võ Lan P3 ngày 25/6/2020 và Bản vẽ hiện trạng
nhà do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H
lập và phát hành ngày 12/6/2014 (theo hợp đồng số 119289/ĐĐBĐ-VPTT)) tại
thời điểm thi hành án phải di dời toàn bộ tài sản ra khỏi nhà và hoàn trả lại
toàn bộ nhà, đất nêu trên cho bà Võ Lan P3. Việc giao trả nhà, đất được thực
hiện trong thời hạn 03 (ba) tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
Không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Võ Lan P3, về việc buộc bà
Nguyễn Thị M và những người đang cư trú trong căn nhà số B D, Phường A,
Quận H, Thành phố H tại thời điểm thi hành án phải di dời toàn bộ tài sản ra
khỏi căn nhà và hoàn trả lại toàn bộ nhà, đất nêu trên cho bà Võ Lan P3 ngay
sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng và
thông báo về quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
19
Ngày 06/02/2024, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị M kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm.
Ngày 07/02/2024, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông
Nguyễn Thành Đ, bà Nguyễn Thị T2 và ông Nguyễn Thanh H3 (có ông Nguyễn
Văn T1 là người đại diện theo ủy quyền) kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn và người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn thống nhất trình bày: Nhận định của Tòa án cấp
sơ thẩm là không phù hợp với sự thật khách quan, không phù hợp các tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án vì các lý do sau:
Ông H1, bà H2 khai nhận có mượn giấy tờ nhà, đất của bà M để thế chấp
vay tiền ông M1, nên không có việc bà M bán nhà cho ông M1. Căn nhà bà M
đứng tên là hộ gia đình gồm nhiều thành viên đang ở, sinh sống. Do không phải
giao dịch mua bán nhà nên không có việc giao nhận tiền và không bàn giao nhà
trên thực tế.
Hồ sơ vụ án thể hiện: Cùng ngày 07/4/2011 có hai biên bản bàn giao nhà
nhưng có nội dung khác nhau. Bà M khẳng định rằng bà chỉ ký một biên bản có
nội dung “Đã nhận trước 900.000.000đ” để cho ông H1, bà H2 nhận tiền.
Ngoài biên bản đó ra thì bà M không ký bất kỳ một biên bản có giá trị nào khác.
Lời khai của bị đơn mâu thuẫn với nội dung trong hợp đồng mua bán, ông
M1 và bà M chỉ gặp nhau một lần duy nhất tại Văn phòng công chứng nên
không thể có việc giao dịch lần 1 với số tiền 900 triệu đồng như nội dung trong
hợp đồng ghi nhận. Ngoài ra, giao dịch lần 2 ở tại địa điểm nào cũng không
được nêu ra. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định các bên có giao tiền thực tế
nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh bị đơn có giao tiền cho bà M.
Hợp đồng thể hiện bà M thuê nhà với thời hạn 06 tháng được ký cùng ngày
với hợp đồng mua bán tại Văn phòng công chứng. Tuy nhiên, hợp đồng thuê nhà
lại không được công chứng theo quy định của pháp luật. Vì vậy, nội dung và
hình thức của hợp đồng không được đảm bảo. Điều này có cơ sở xác định hợp
đồng thuê nhà này chỉ lập ra với mục đích để hợp thức hóa một giao dịch khác.
Hơn nữa, ông M1 và bà X chưa bao giờ đến xem nhà nên không có việc nhận
bàn giao nhà từ bà M. Do đó, hợp đồng mua bán giữa ông M1, bà X và bà M vô
hiệu theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Bà P3 hoàn toàn không ngay tình trong giao dịch với ông M1, bởi bà P3
được cấp giấy chứng nhận trong thời điểm tài sản đang có tranh chấp là sai quy
định pháp luật. Thời điểm ông M1, bà X và bà P3 ký hợp đồng mua bán nhà đất
vào ngày 19/6/2020 là trong thời gian tài sản đang có tranh chấp, đang được Tòa
án nhân dân Thành phố H thụ lý xét xử lần 2 (sau khi Tòa án cấp phúc thẩm hủy
bản án sơ thẩm lần 1).
20
Ngoài ra, phía nguyên đơn đã gửi nhiều đơn đến các cơ quan Nhà nước để
khiếu nại về việc cập nhật sang tên cho bà P3 trên giấy chứng nhận là hoàn toàn
vi phạm quy định pháp luật. Vào năm 2015, lãnh đạo của Chi nhánh Văn phòng
Đ đã cử người đại diện tham gia phiên tòa với tư cách người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án này, nên việc cơ quan này lại có văn bản thông báo rằng
tài sản này không có tranh chấp là không đúng.
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định quyền sở hữu nhà đã được chuyển giao cho
bà Lan P3 là không đúng, vì giao dịch mua bán nhà ở được xác định là hoàn
thành khi bên mua đã thanh toán đủ tiền mua và đã nhận bàn giao nhà. Tuy
nhiên, khi mua bà P3 hoàn toàn chưa nhận bàn giao nhà nên việc nhận định trên
của bản án sơ thẩm là không đúng với quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo
hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Người đại diện theo ủy quyền của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan gồm các ông, bà Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thanh H3 là
ông Nguyễn Văn T1 trình bày: Văn bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế ngày
04/3/2009 đã kê khai thiếu các đồng thừa kế. Việc kê khai thiếu người thừa kế
trực tiếp làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những đồng thừa kế khác. Tòa án cấp
phúc thẩm đã từng nhận định nội dung này khi xét xử phúc thẩm lần 1. Giấy
chứng nhận cấp cho bà M không đúng quy định của pháp luật. Việc ông M1, bà
P3 thực hiện giao dịch trong khi tài sản đang tranh chấp là trái với quy định của
pháp luật, nên đề nghị chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra làm rõ việc tài sản
đang tranh chấp mà vẫn được cập nhật biến động sang tên trên giấy chứng nhận.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm ghi không đúng yêu cầu, lời trình bày của người đại
diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do đó, đề nghị
Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Đ, bà
T2, ông H3 để bảo vệ quyền và lợi ích cho các đồng thừa kế theo đúng quy định
của pháp luật.
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là
bà Võ Lan P3 trình bày: Trước khi thực hiện giao dịch, bà P3 đã được các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận thông tin của căn nhà này. Ngoài ra, bà
P3 đã được cập nhật quyền sở hữu trên giấy chứng nhận đối với tài sản này đúng
quy định pháp luật. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét yêu cầu độc lập
của bà P3, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H tham gia phiên
tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung:
21
Đối với kháng cáo của bà M: Nhà đất do bà M đứng tên trên Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở; Các giao dịch mua bán được
công chứng, người nhận chuyển nhượng cũng đã được cơ quan có thẩm quyền
cập nhật biến động sang tên trên giấy chứng nhận đúng quy định pháp luật.
Đối với kháng cáo của ông Đ, bà T2, ông H3: Vì giao dịch giữa bà M với
ông M1 là hợp pháp nên yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là không có cơ sở xem xét. Tòa án cấp sơ thẩm đã dành quyền khởi kiện
cho đương sự bằng vụ án khác là có căn cứ.
Bản án sơ thẩm xét xử là có căn cứ. Đương sự có kháng cáo nhưng không
có tài liệu, chứng cứ mới để chứng minh. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận kháng cáo của các đương sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, căn cứ
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan gồm: Bà Huỳnh Thị H2, ông Nguyễn Thành Đ, bà Nguyễn Thị T2, ông
Nguyễn Thanh H3, bà Nguyễn Thị Kim L, bà Võ Thị Đ1, bà Võ Thị T3, ông
Đặng Ngọc C1, bà Trần Thị Kim T4, chị Đặng Ngọc Kim N, sinh năm 2003, trẻ
Đặng Ngọc Bảo N1, bà Nguyễn Thị Thanh T5, bà Nguyễn Thị T6, ông Nguyễn
Vũ Vĩnh P1, bà Nguyễn Thụy Ngọc B, bà Phạm Thị Hồng L1, chị Nguyễn Ngọc
Trúc M2, trẻ Nguyễn Vũ Thiên B1, bà Nguyễn Phạm Thanh T7, trẻ Nguyễn Bảo
N3, trẻ Nguyễn Bảo Y, Phòng C3, Thành phố H, Ủy ban nhân dân Quận H5,
Thành phố H, Văn phòng C6, Thành phố H, Văn phòng C7 (tên cũ: Văn phòng
C5), Thành phố H, bà Võ Lan P3, Văn phòng Đăng ký đất đai Thành phố H và
ông Phạm Văn Đ2 vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt hoặc đã được Tòa án
triệu tập hợp lệ. Do đó, căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015, Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt những
người tham gia tố tụng trên.
[1.2] Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Nguyễn Văn T1 (là người đại diện theo ủy
quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm ông Nguyễn Thành Đ, bà
Nguyễn Thị T2 và ông Nguyễn Thanh H3) có bổ sung yêu cầu độc lập với nội
dung: Đề nghị Tòa án hủy hợp đồng mua bán nhà giữa ông Vũ Duy M1, bà
Nguyễn Thị Thanh X với bà Võ Lan P3; hủy nội dung cập nhật tên bà Võ Lan
P3 trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở.
Xét, tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm
mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải”
và khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Hội đồng xét xử chấp
nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu
22
cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu
cầu độc lập ban đầu”. Căn cứ quy định trên thì Tòa án cấp sơ thẩm không chấp
nhận xem xét yêu cầu độc lập bổ sung của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là đúng quy định pháp luật.
[2] Về nội dung:
[2.1] Tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án thể hiện nguồn gốc và các giao
dịch liên quan đến nhà, đất số B D, Phường A, Quận H, Thành phố H như sau:
Theo Giấy phép hợp thức hóa quyền sở hữu nhà số 1316/GP.CS ngày
24/12/1993 của Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H, thì nhà đất số B D,
Phường A, Quận H, Thành phố H có nguồn gốc của vợ chồng cụ Nguyễn Thanh
S (chết năm 1972) và cụ Nguyễn Thị N4. Năm 1998, cụ Nguyễn Thị N4 chết,
không để lại di chúc.
Cụ Nguyễn Thanh S và cụ Nguyễn Thị N4 có 08 người con chung gồm:
Ông Nguyễn Thành Đ, bà Nguyễn Thị T2 (định cư ở Hoa Kỳ), ông Nguyễn
Thanh H3, ông Nguyễn Thanh P, bà Nguyễn Thị Kim L, bà Nguyễn Thị Kim C,
ông Nguyễn Thanh M3 (chết năm 1975) và bà Nguyễn Thị M.
Năm 2008, bà Nguyễn Thị M (là một trong số các con của cụ Nguyễn
Thanh S và cụ Nguyễn Thị N4) lập thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà đất và đã được Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp Giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà ở, và quyền sử dụng đất ở số 5775/2008/GCN ngày 30/5/2008 cho
bà Nguyễn Thị M là con đại diện các đồng thừa kế của cụ Nguyễn Thanh S và
cụ Nguyễn Thị N4.
Ngày 04/3/2009 các ông, bà gồm: Ông P, bà L, bà C, bà M lập “Văn bản
thỏa thuận phân chia di sản” tại Phòng C3, Thành phố H với nội dung: Ông P,
bà L, bà C tặng cho bà M toàn bộ kỷ phần thừa kế đối với nhà đất số 219/42
Dương Bá T12. Căn cứ “Văn bản thỏa thuận phân chia di sản” trên, ngày
18/3/2009 Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở
và quyền sử dụng đất ở đối với nhà, đất trên cho bà M.
Ngày 07/4/2011, bà M ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất số 219/42
Dương Bá T12 cho ông Vũ Duy M1 với giá 2.700.000.000 đồng. Hợp đồng có
công chứng của Văn phòng C5 (nay là Văn phòng C7). Ngày 22/12/2011, ông
Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X được cập nhật đứng tên trên giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với nhà, đất trên.
Ngày 19/6/2020, ông Vũ Duy M1 ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất số
219/42 cho bà Võ Lan P3 với giá 5.700.000.000 đồng, hợp đồng có công chứng
của Văn phòng Công chứng Trần Quốc P4. Ngày 25/6/2020, bà P3 được Chi
nhánh Văn phòng Đ, Thành phố H cập nhật đứng tên trên giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với nhà, đất số 219/42 Dương
Bá T12.
23
[2.2] Nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm:
[2.2.1] Đối với Hợp đồng mua bán nhà số 002163 ngày 07/4/2011 giữa bà
Nguyễn Thị M và ông Vũ Duy M1:
- Về hình thức: Hợp đồng mua bán nhà số 002163 ngày 07/4/2011 được
công chứng của Văn phòng C5 (nay là Văn phòng C7) đúng quy định pháp luật.
- Về nội dung: Bà M ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất tại số B D (do bà
M đang đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất ở) cho ông Vũ Duy M1 với giá 2.700.000.000 đồng.
Bà M cho rằng hợp đồng mua bán nhà giữa bà và ông M1 là hợp đồng giả
tạo, vì thực chất là ông Huỳnh Minh H1 và bà Huỳnh Thị H2 mượn giấy tờ nhà
của bà để thế chấp vay tiền ông M1, giữa bà và ông M1 không có việc mua bán
nhà, bà cũng không có nhận tiền từ ông M1; Những người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan gồm các ông, bà Nguyên Thành Đ3, Nguyễn Thị T2 và Nguyễn
Thanh H3 cho rằng nhà, đất trên là di sản thừa kế của cụ S và cụ N4, nhưng
“Văn bản thỏa thuận phân chia di sản” ngày 04/3/2009 không có ý kiến của các
ông, bà. Do vậy, việc bà M đăng ký kê khai, được cấp quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở là không đúng quy định pháp luật. Từ đó, nguyên đơn và
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ông Đ3, bà T2, ông H3) đều có
yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà số 002163 ngày 07/4/2011, và hủy cập nhật
biến động sang tên ông M1, bà X trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất ở.
Hội đồng xét xử xét thấy:
- Nguồn gốc nhà đất số 219/42 Dương Bá T12 là của cụ S và cụ N4. Hàng
thừa kế thứ nhất của 02 cụ gồm 07 người con, nhưng trong “Văn bản thỏa thuận
phân chia di sản” ngày 04/3/2009 tại Phòng C3, Thành phố H chỉ có ý kiến của
ông P, bà L, bà C, bà M, không có ý kiến của 03 đồng thừa kế còn lại là ông Đ3,
bà T2, ông H3. Do đó, việc bà M căn cứ vào “Văn bản thỏa thuận phân chia di
sản” để đăng ký, kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và
quyền sử dụng đất ở ngày 18/3/2009 là ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của các đồng thừa kế khác. Tuy nhiên, giao dịch mua bán nhà, đất giữa bà M và
ông M1 được thực hiện sau khi gia đình bà M thực hiện việc phân chia di sản
thừa kế. Khi bà M đăng ký, kê khai và được Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở thì không có ai khiếu
nại về việc cấp giấy chứng nhận này. Tại thời điểm bà M và ông M1 giao kết
hợp đồng mua bán thì nhà, đất số 219/42 Dương Bá T12 đã được công nhận
quyền sở hữu cho bà M, thực tế bà M cũng đang quản lý, sử dụng và không bị
các đồng thừa kế còn lại có ý kiến phản đối, tranh chấp hay ngăn chặn. Do vậy,
ông M1 không thể biết căn nhà nêu trên là di sản thừa kế và những người thừa
kế của cụ S, cụ N4 chưa được kê khai đầy đủ khi làm thủ tục phân chia di sản.
24
Mặt khác, trong vụ án này các đương sự không có yêu cầu chia thừa kế
theo pháp luật đối với di sản của cụ S, cụ N4. Những người thừa kế của cụ S, cụ
N4 có lời trình bày thể hiện trong hồ sơ vụ án như sau: Bà Đ1, bà T3 (con riêng
của cụ S) xác định không nhận di sản thừa kế của cụ S, đồng ý giao lại cho 07
người con chung của cụ S và cụ N4; Bà Nguyễn Thị T2 có lập “Giấy nhường
quyền hưởng di sản thừa kế” được công chứng tại Phòng C11, Thành phố H
ngày 18/4/1994, xác định nhường kỷ phần thừa kế của bà T2 được nhận từ cha
mẹ cho bà Nguyễn Thị M; Ông P, bà L, bà C đã tặng cho kỷ phần thừa kế được
hưởng cho bà M. Vậy, nếu trong trường hợp có yêu cầu chia thừa kế thì bà M sẽ
được xem xét nhận thừa kế bằng hiện vật và hoàn trả giá trị kỷ phần cho các
đồng thừa kế còn lại (do bà M đang cư trú tại nhà, đất tranh chấp và được nhận
kỷ phần nhiều hơn các đồng thừa kế khác). Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không
chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và nhận
định các đồng thừa kế của cụ S, cụ N4 có quyền khởi kiện bằng một vụ án dân
sự khác, để yêu cầu bà M trả lại giá trị kỷ phần thừa kế mà họ được hưởng từ di
sản của cụ S và cụ N4 là có căn cứ và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các
bên đương sự.
- Chứng cứ bà M nêu ra để chứng minh ông Huỳnh Minh H1 và bà Huỳnh
Thị H2 có mượn giấy tờ nhà 219/42 Dương Bá T12 của bà thế chấp vay tiền ông
M1 là: “Giấy mượn giấy tờ nhà” ngày 01/7/2011, và “Giấy mượn nhà” lập
ngày 07/4/2011 giữa bà M và ông H1, bà H2.
Xét thấy, “Giấy mượn giấy tờ nhà” ngày 01/7/2011 là lập sau hợp đồng
mua bán nhà đất giữa bà M và ông M1 (ngày 07/4/2011) nên không đủ căn cứ
để chứng minh. Trong các giấy tờ nêu trên chỉ thể hiện giao dịch giữa bà M và
ông H1, bà H2 không có nội dung liên quan đến ông M1. Quá trình giải quyết
vụ án, ông H1, bà H2 xác định có mượn giấy tờ nhà của bà M để thế chấp vay
tiền ông M1, nhưng ông M1 không thừa nhận và ông H1, bà H2 cũng không có
tài liệu, chứng cứ chứng minh. Trong khi đó, ông H1, bà H2 và bà M đều trình
bày thống nhất là ông H1, bà H2 nhận số tiền 2.700.000.000 đồng từ bà M,
không phải nhận từ ông M1. Sau khi giao kết hợp đồng mua bán, cùng ngày
07/4/2011 bà M, ông M1 ký “Biên bản bàn giao nhà” có nội dung: “Bên B đã
thanh toán toàn bộ số tiền là 2.700.000.000 đồng”; phần ký tên có nội dung
“Đã nhận trước 900.000.000đ” và “Đã nhận đủ tiền, số tiền là
2.700.000.000đ” , phía trên và phía dưới các hàng chữ này đều có chữ ký, ghi
tên bà Nguyễn Thị M; Cũng trong ngày 07/4/2011, bà M ký hợp đồng thuê lại
nhà đất 219/42 Dương Bá T12 của ông M1, thời hạn thuê là 06 tháng. Từ những
tài liệu, chứng cứ nêu trên, có cơ sở xác định lời trình bày của bà M về việc cho
rằng hợp đồng mua bán nhà là giả tạo là không có căn cứ để chấp nhận. Tòa án
cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M về việc: Hủy hợp
đồng mua bán nhà đất giữa bà M và ông M1; Hủy giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà, quyền sử dụng đất cập nhật sang tên cho M1, bà X; Buộc ông H1, bà
H2 trả số tiền 2.700.000.000 đồng cho ông M1, bà X là phù hợp với các tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
25
[2.2.2] Đối với Hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số 006755 ngày 19/6/2020 giữa ông M1, bà X với bà Võ Lan P3 đối với nhà
đất số 219/42 Dương Bá T12:
- Về hình thức: Hợp đồng được công chứng tại Văn phòng C6 đúng quy
định pháp luật.
- Về nội dung: Ông M1 bán nhà đất số B Dương Bá T12 cho bà P3 với giá
5.700.000.000 đồng. Theo đó, bà P3 đã trả đủ tiền mua bán nhà, hoàn tất thủ tục
chuyển nhượng và được cập nhật đứng tên trên giấy chứng nhận ngày
25/6/2020.
Hội đồng xét xử xét thấy: Trong các giao dịch liên quan đến nhà, đất số B
D, Phường A, Quận H, Thành phố H thì bà P3 là người thứ 3 (Bà M bán nhà cho
ông M1, ông M1 bán nhà cho bà P3). Việc xác định bà P3 là ngay tình hay
không ngay tình trong giao dịch với ông M1 chỉ có ý nghĩa khi giao dịch từ bà
M sang ông M1 được xác định là vô hiệu. Theo nội dung nhận định nêu trên thì
hợp đồng mua bán nhà từ bà M sang ông M1 được công nhận hiệu lực, nên Tòa
án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M về việc hủy Hợp
đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/6/2020 giữa
ông M1, bà X với bà P3 là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, phía nguyên đơn trình bày tại thời điểm ông M1,
bà P3 thực hiện giao dịch thì nhà, đất trên đang có tranh chấp nên không đủ điều
kiện được công nhận hiệu lực, và cơ quan có thẩm quyền thực hiện cập nhật
sang tên bà P3 trên giấy chứng nhận ngày 25/6/2020 là không đúng quy định
pháp luật; Hiện tại bà M vẫn đang quản lý, sử dụng nhà, đất nên hợp đồng ngày
19/6/2020 chưa được hoàn thành.
Xét thấy, lời trình bày này của phía nguyên đơn là có cơ sở bởi hồ sơ vụ án
thể hiện giao dịch giữa ông M1 và bà P3 được thực hiện khi Tòa án cấp sơ thẩm
đang thụ lý giải quyết vụ án. Nhưng việc xem xét hiệu lực của hợp đồng mua
bán ngày 19/6/2020 không liên quan, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của bà M, bởi: Ngày 07/4/2011 bà M đã chuyển nhượng nhà, đất số 219/42
Dương Bá T12 cho ông M1, hai bên đã thực hiện việc bàn giao nhà, đất theo
“Biên bản bàn giao nhà” cùng ngày 07/4/2011; Việc bà M tiếp tục quản lý, sử
dụng nhà là theo hợp đồng thuê lại nhà trong thời hạn 06 tháng (theo quy định
tại Điều 122 Luật Nhà ở thì hợp đồng thuê nhà không bắt buộc phải công
chứng), ông M1 và bà X cũng đã được cập nhật sang tên trên giấy chứng nhận.
Như vậy, giao dịch mua bán nhà giữa bà M và ông M1 đã hoàn thành, và bà M
không còn quyền sở hữu đối với nhà đất trên. Nếu hợp đồng ngày 19/6/2020 có
vô hiệu thì chỉ liên quan đến quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia giao kết hợp
đồng là ông M1, bà P3, và hiệu lực của hợp đồng mua bán ngày 19/6/2020
không ảnh hưởng đến hợp đồng mua bán ngày 07/4/2011 (như nhận định tại
phần [2.2.1]). Hơn nữa, giữa ông M1 và bà P3 xác định không có tranh chấp và
đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng ngày 19/6/2020. Do vậy, Hội đồng xét xử xét
26
thấy không cần thiết phải vô hiệu hợp đồng này và hủy nội dung cập nhật tên bà
P3 do Chi nhánh Văn phòng Đ, Thành phố H cập nhật ngày 25/6/2020 trên giấy
chứng nhận.
[3] Xét yêu cầu của các đương sự:
[3.1] Theo nội dung nhận định nêu tại mục [2] thì yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm
các ông, bà Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thị T2 và Nguyễn Thanh H3 là không
được chấp nhận.
[3.2] Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Lan P3 về việc buộc nguyên đơn giao trả
nhà đất số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H:
Do các giao dịch chuyển nhượng nhà, đất từ bà M sang ông M1, bà X; Sau
đó từ ông M1, bà X sang bà P3 được công nhận hiệu lực nên yêu cầu của ông
M1, bà X và bà P3 về việc buộc bà M và những người đang sinh sống trong nhà
đất nêu trên giao trả nhà đất là có căn cứ chấp nhận. Tuy nhiên, theo giao dịch
chuyển nhượng, mua bán giữa các bên thì bà M có nghĩa vụ giao nhà cho ông
M1, bà X; Sau đó ông M1, bà X có nghĩa vụ giao nhà cho bà P3. Tòa án cấp sơ
thẩm buộc bà M và những người đang sinh sống trong nhà đất số 219/42 Dương
Bá T12 di dời tài sản, giao trả nhà đất cho bà P3 là không rõ ràng và khó thi
hành án. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm điều chỉnh lại cách tuyên án của Tòa án
cấp sơ thẩm về phần này để đảm bảo cho việc thi hành án.
[4] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp sơ
thẩm đã xét xử là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Nguyên đơn và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo nhưng không có tài liệu, chứng cứ
mới để chứng minh. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H tham gia phiên tòa; Không
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các đương sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm
nhưng có điều chỉnh phần quyết định theo nội dung nhận định tại mục [3.2].
[5] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1954; Ông
Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1946; Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1949; Ông
Nguyễn Thanh H3, sinh năm 1950 được miễn án phí theo quy định tại Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
27
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị M.
Không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
ông Nguyễn Thành Đ, bà Nguyễn Thị T2, ông Nguyễn Thanh H3 (có ông
Nguyễn Văn T1 là người đại diện theo ủy quyền).
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 68/2024/DS-ST ngày 02 tháng 02
năm 2024 của Tòa án nhân dân Thành phố H, nhưng có điều chỉnh phần quyết
định.
Áp dụng:
- Các Điều 26, 37, 228, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các
Điều 623, 651, 612, 166 của Bộ luật Dân sự; các Điều 203, khoản 1 Điều 168,
khoản 1 Điều 188, điểm đ khoản 1 Điều 197, khoản 1 Điều 186 Luật Đất đai;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn
Thị M (có ông Nguyễn Phạm Thanh D đại diện) về việc:
- Tuyên vô hiệu Hợp đồng mua bán nhà số: 002163 ký ngày 07/4/2011 tại
Văn phòng C5 (nay là Văn phòng C7), Thành phố H giữa bà Nguyễn Thị M và
ông Vũ Duy M1 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành
phố H;
- Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở
hồ sơ gốc số 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H cấp
cho bà Nguyễn Thị M ngày 18/3/2009 và cập nhật thay đổi chủ sở hữu cho ông
Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011;
- Buộc ông Huỳnh Minh H1, bà Huỳnh Thị H2 trả lại toàn bộ số tiền đã
vay cho ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X là 2.700.000.000 (hai tỷ bảy
trăm triệu) đồng;
- Tuyên vô hiệu Hợp đồng mua bán nhà số F, quyển số 02 ký ngày
19/6/2020 tại Văn phòng C6, Thành phố H giữa ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn
Thị Thanh X với bà Võ Lan P3 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường A,
Quận H, Thành phố H;
- Tuyên hủy nội dung cập nhật tên bà Võ Lan P3 do Chi nhánh Văn phòng
Đ, Thành phố H cập nhật ngày 25/6/2020.
28
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Vũ Duy M1 và bà
Nguyễn Thị Thanh X (có ông Đồng Anh T đại diện); Và một phần yêu cầu độc
lập của bà Võ Lan P3 (có bà Nguyễn Thị T9 đại diện):
Công nhận Hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
công chứng 006755 do Văn phòng C6, Thành phố H chứng nhận ngày
19/6/2020; giữ nguyên cập nhật tên bà Võ Lan P3 ngày 25/6/2020 trên Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1052/2009/GCN do
Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H cấp ngày 18/3/2009;
Buộc bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị Thanh T5, bà Nguyễn Phạm Thanh
T7, trẻ Nguyễn Bảo N3 sinh năm 2016 và trẻ Nguyễn Bảo Y sinh năm 2020 và
những người đang cư trú trong căn nhà số B đường D, Phường A, Quận H,
Thành phố H phải di dời tài sản, giao nhà đất trên cho ông Vũ Duy M1, bà
Nguyễn Thị Thanh X.
Sau khi nhận nhà, đất số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H,
ông Vũ Duy M1 và bà Nguyễn Thị Thanh X có nghĩa vụ bàn giao nhà đất trên
cho bà Võ Lan P3 để thực hiện Hợp đồng mua bán nhà số 006755, quyển số 02
ký ngày 19/6/2020 tại Văn phòng C6, Thành phố H giữa ông Vũ Duy M1, bà
Nguyễn Thị Thanh X với bà Võ Lan P3.
Việc giao nhận nhà, đất số B đường D, Phường A, Quận H, Thành phố H
từ bà Nguyễn Thị M và những người đang cư trú tại căn nhà trên sang ông Vũ
Duy M1 và bà Nguyễn Thị Thanh X; Và từ ông Vũ Duy M1 và bà Nguyễn Thị
Thanh X sang bà Võ Lan P3 được thực hiện cùng một thời điểm.
Các bên đương sự thực hiện việc giao nhận nhà, đất số B đường D, Phường
A, Quận H, Thành phố H trong thời hạn 03 (ba) tháng kể từ ngày bản án có hiệu
lực pháp luật.
(theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ sơ
gốc số: 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5 cấp cho bà Nguyễn Thị
M ngày 18/3/2009, cập nhật tên ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X ngày
22/12/2011, cập nhật tên bà Võ Lan P3 ngày 25/6/2020 và Bản vẽ hiện trạng
nhà do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H
lập và phát hành ngày 12/6/2014 (theo hợp đồng số 119289/ĐĐBĐ-VPTT)).
3. Không chấp nhận yêu cầu của ông Vũ Duy M1 và bà Nguyễn Thị Thanh
X và yêu cầu độc lập của bà Võ Lan P3 (có bà Nguyễn Thị T9 đại diện) về việc:
Buộc bà Nguyễn Thị M và những người đang cư trú trong căn nhà số B đường
D, Phường A, Quận H, Thành phố H tại thời điểm thi hành án phải giao nhà đất
này cho bị đơn ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
4. Đình chỉ yêu cầu phản tố của ông Vũ Duy M1 và bà Nguyễn Thị Thanh
X (bị đơn), về việc buộc nguyên đơn bà Nguyễn Thị M phải trả lại tiền thuê nhà
là 7.000.000 đồng/tháng từ ngày 15/02/2012 tạm tính đến tháng 4 năm 2013.
29
5. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Thành Đ, bà Nguyễn
Thị T2 và ông Nguyễn Thanh H3 (có ông Nguyễn Văn T1 đại diện), về việc:
- Hủy Văn bản thỏa thuận phân chia di sản số công chứng 006982 do
Phòng C3, Thành phố H chứng nhận ngày 04/3/2009;
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ sơ
gốc số 1052/2009/GCN do Ủy ban nhân dân Quận H5, Thành phố H cấp cho bà
Nguyễn Thị M ngày 18/3/2009 và cập nhật thay đổi chủ sở hữu cho ông Vũ Duy
M1, bà Nguyễn Thị Thanh X ngày 22/12/2011;
- Tuyên vô hiệu Hợp đồng mua bán nhà số 002163 ký ngày 07/4/2011 tại
Văn phòng C5 (nay là Văn phòng C7), Thành phố H giữa bà Nguyễn Thị M và
ông Vũ Duy M1 về việc mua bán nhà số B đường D, Phường A, Quận H, Thành
phố H;
6. Không xem xét, giải quyết đối với việc bổ sung yêu cầu độc lập của ông
Nguyễn Thành Đ, bà Nguyễn Thị T2 và ông Nguyễn Thanh H3 (có ông Nguyễn
Văn T1 đại diện) trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, về việc: Hủy hợp đồng mua
bán nhà giữa ông Vũ Duy M1, bà Nguyễn Thị Thanh X với bà Võ Lan P3; hủy
nội dung cập nhật tên bà Võ Lan P3 trên giấy chứng nhận.
Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Thanh S và cụ
Nguyễn Thị N4 (trong đó có ông Nguyễn Thành Đ, bà Nguyễn Thị T2 và ông
Nguyễn Thanh H3) có quyền khởi kiện bà Nguyễn Thị M trong vụ án khác, để
yêu cầu bà Nguyễn Thị M trả lại kỷ phần thừa kế bằng giá trị mà họ được nhận
từ di sản của cụ Nguyễn Thanh S và cụ Nguyễn Thị N4 (giá trị nhà, đất số B D,
Phường A, Quận H, Thành phố H) theo quy định pháp luật.
(Giá trị nhà, đất các đương sự thống nhất là 5.700.000.000 đồng (Năm tỷ
bảy trăm triệu đồng)).
7. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
8. Án phí dân sự phúc thẩm:
Bà Nguyễn Thị M, ông Nguyễn Thành Đ, bà Nguyễn Thị T2, ông Nguyễn
Thanh H3 được miễn.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án
dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ
sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
30
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. H;
- TAND TP. H;
- VKSND TP. H;
- Cục THADS TP. H;
- Đương sự;
- Lưu (Án - NTCL).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Hòa Hiệp
Tải về
Bản án số 720/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 720/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Bản án số 843/2024/DS-PT ngày 20/09/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 09/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 04/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm