Bản án số 1006/2024/DS-ST ngày 17/09/2024 của TAND Q. Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 1006/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 1006/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 1006/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 1006/2024/DS-ST ngày 17/09/2024 của TAND Q. Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND Q. Bình Tân (TAND TP. Hồ Chí Minh) |
Số hiệu: | 1006/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 17/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bản án số 1006/2024/DSST ngày 17/9/2024 về việc Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, tranh chấp hợp đồng vay tài sản, yêu cầu hủy cập nhật giấy chứng nhận quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN BÌNH TÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 1006/2024/DSST
Ngày: 17/9/2024
V/v Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà,
tranh chấp hợp đồng vay tài sản, yêu cầu
hủy cập nhật giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Đào Tiến Trung.
Các Hội thẩm nhân dân:
1/ Ông Phạm Văn Mười.
2/ Ông Lê Văn Khanh.
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: ông Trần Hoàng Phúc – Thư ký Tòa án
nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân: bà Hồ Thị Vân – Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong ngày 11 và 17 tháng 9 năm 2024 tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 619/2024/TLST-DS ngày
03/7/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, tranh chấp hợp đồng vay tài
sản, yêu cầu hủy cập nhật giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” theo Quyết định xét xử
số 771/2024/QĐXXST-DS ngày 20/8/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng P, sinh năm: 1966;
Địa chỉ số: đường C, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: ông Nguyễn Ngọc L, sinh năm: 1984;
Địa chỉ số: đường T, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Võ Lê Phương T, sinh năm: 1998;
Địa chỉ số: đường Đ, Phường C, thành phố V, tỉnh V.
2/ Ông Nguyễn Hoàng D, sinh năm: 1991;
Địa chỉ số: đường C, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
3/ Bà Đặng Thị Thúy, sinh năm: 1964;
Địa chỉ số: đường C, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
2
4/ Bà Phạm Thị Tuyết M, sinh năm: 1987;
Địa chỉ số: đường U, Phường D, Quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh.
5/ Văn phòng Công chứng T;
Địa chỉ số: đường T, phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 31/5/2024, đơn khởi kiện bổ sung ngày 09/7/2024 và
lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn trình bày:
Ngày 17/01/2023, ông Nguyễn Hoàng P ký hợp đồng vay số tiền 1.300.000.000
đồng của ông Nguyễn Ngọc L với lãi suất 0%, thời hạn vay là 02 năm và được quyền
ân hạn thêm 02 năm nếu bên vay trả được 650.000.000 đồng trong thời hạn 02 năm đầu.
Để đảm bảo cho hợp đồng vay tiền, ông Nguyễn Hoàng P đồng ý ký hợp đồng chuyển
nhượng nhà và đất tọa lạc tại địa chỉ số đường C, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí
Minh theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số CH12895 ngày 14/11/2022 của Ủy ban nhân dân quận Bình Tân, Thành
phố Hồ Chí Minh. Thực hiện hợp đồng thì ông Nguyễn Ngọc L đã chuyển khoản cho
ông số tiền 1.300.000.000 đồng và ông đã ký hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển
nhượng quyền sử dụng đất tại Văn phòng Công chứng T theo hợp đồng số 000481 ngày
17/01/2023. Thực hiện hợp đồng thì ngày 19/6/2023 ông Nguyễn Hoàng P đã thanh
toán được 180.000.000 đồng tiền nợ. Theo thỏa thuận thì ông Nguyễn Ngọc L không
được quyền bán nhà cho ai và ông Nguyễn Hoàng P được quyền mua lại nhà trong thời
gian 04 năm tính từ ngày ký hợp đồng vay tiền. Tuy nhiên đến ngày 05/4/2024 ông
Nguyễn Ngọc L lại ký hợp đồng chuyển nhượng căn nhà của ông cho bà Võ Lê Phương
T và ký hợp đồng tại Văn phòng Công chứng T, hiện căn nhà trên đang do bà T đứng
tên. Sau này bà T đến yêu cầu ông phải giao nhà thì ông mới biết ông L đã bán nhà cho
bà T. Nay ông đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng
quyền sử dụng đất số công chứng: 000481 do Văn phòng Công chứng T chứng nhận
ngày 17/01/2023; tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số công chứng: 003238 do Văn phòng Công chứng T chứng nhận ngày 05/4/2024
giữa bà Võ Lê Phương T với ông Nguyễn Ngọc L và bà Phạm Thị Tuyết M là vô hiệu;
tuyên hủy cập nhật giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Ngọc L theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH12985, cập nhật ngày 06/4/2023; tuyên hủy
cập nhật giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Võ Lê Phương T theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CN13947 ngày 02/5/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai quận Bình Tân; ông Nguyễn Hoàng P có trách nhiệm hoàn trả số tiền
1.120.000.000 đồng cho ông Nguyễn Ngọc L.
Đối với số tiền 1.200.000.000 đồng theo hợp đồng vay ngày 24/3/2023 mà bên bị
đơn yêu cầu ông phải trả thì ông thừa nhận do con trai ông là Nguyễn Hoàng D có nợ
tiền của ông Nguyễn Ngọc L và không có khả năng trả, vì vậy ông đã đứng ra nhận bảo
lãnh để trả nợ thay cho con và được ông Nguyễn Ngọc L đồng ý chuyển giao nghĩa vụ
trả nợ từ ông Nguyễn Hoàng D sang ông Nguyễn Hoàng P vì vậy mới ký thành hợp
đồng vay tiền trên, khi ký hợp đồng có sự chứng kiến của bà Đặng Thị Thúy. Thực tế
khi ký hợp đồng thì ông L không hề giao bất cứ khoản tiền nào cho ông. Do các bên đã
thống nhất chuyển giao nghĩa vụ trả nợ để lập thành hợp đồng vay tiền nêu trên vì vậy
3
ông đồng ý trả số tiền thực mà ông Nguyễn Hoàng D nợ ông Nguyễn Ngọc L là
890.000.000 đồng cho ông L với thời hạn trả mỗi năm là 300.000.000 đồng.
Trong đơn yêu cầu phản tố, tại các buổi làm việc cũng như tại phiên tòa, bị đơn
ông Nguyễn Ngọc L trình bày: ông không đồng ý hủy hợp đồng mua bán nhà ở và
chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Văn phòng Công chứng T theo hợp đồng số
000481 ngày 17/01/2023 giữa ông Nguyễn Ngọc L với ông Nguyễn Hoàng P liên quan
đến nhà đất số đường C, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH12895
ngày 14/11/2022 của Ủy ban nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Hợp
đồng mua bán nhà trên là thật, còn hợp đồng vay tài sản ngày 17/01/2023 giữa ông P
với ông L là hợp đồng giả tạo, nguyên nhân ký hợp đồng vay là do ông P không muốn
cho con trai là ông Nguyễn Hoàng D biết việc bán nhà cho ông nên mới ký thêm hợp
đồng vay để nói là ký hợp đồng bán nhà là giả còn thực ra là vay tiền ông L. Do đó đề
nghị Hội đồng xét xử công nhận hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử
dụng đất tại Văn phòng Công chứng T theo hợp đồng số 000481 ngày 17/01/2023 giữa
ông Nguyễn Ngọc L với ông Nguyễn Hoàng P đối với nhà đất số đường C, phường T,
quận T, Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH12895 ngày 14/11/2022 của Ủy ban
nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh là có hiệu lực pháp luật, tuyên hủy
hợp đồng vay tài sản ngày 17/01/2023 giữa ông Nguyễn Hoàng P và ông Nguyễn Ngọc
L do giả tạo.
Ngày 24/3/2023 ông Nguyễn Hoàng P do cần tiền để trả nợ thay con là ông Nguyễn
Hoàng D nên có vay của ông L số tiền 1.200.000.000 đồng và lập thành hợp đồng vay
tiền, trên hợp đồng thể hiện rõ khi ký hợp đồng vay là đã nhận đủ tiền và sau này khi
trả đủ thì ông L sẽ bán lại nhà số đường C, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh
cho ông P với giá 1.500.000.000 đồng (tiền gốc 1.200.000.000 đồng và tiền lời tương
đương là 300.000.000 đồng). Thực hiện hợp đồng thì ngày 19/6/2023 ông Nguyễn
Hoàng P đã thanh toán được 180.000.000 đồng tiền nợ và còn nợ lại số tiền
1.020.000.000 đồng, nay đề nghị Tòa án buộc ông Nguyễn Hoàng P phải trả lại số tiền
1.020.000.000 đồng cho ông.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Lê Phương T trình bày: do ông L có
vay của bà số tiền 1.000.000.000 đồng để mua lại căn nhà số đường C, phường T, quận
T, Thành phố Hồ Chí Minh của ông Nguyễn Hoàng P, sau này khi bà cần thiền thì ông
L không có tiền trả, vì vậy ông L nói giờ chỉ còn nhà và đất đã mua của ông Nguyễn
Hoàng P và hiện đang cho gia đình ông P ở nhờ, nếu đồng ý thì ông L bán lại cho bà T
với giá 1.500.000.000 đồng. Bà T đồng ý mua lại nhà đất số đường C, phường T, quận
T, Thành phố Hồ Chí Minh của vợ chồng ông Nguyễn Ngọc L và bà Phạm Thị Tuyết
M với giá 1.500.000.000 đồng, đã trả 1.000.000.000 đồng là tiền mà ông L nợ trước đó,
khi nào giao nhà thì trả hết và các bên đã tiến hành ký hợp đồng mua bán nhà ở và
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 003238 do Văn phòng Công chứng T chứng nhận
ngày 05/4/2024 và đã được giấy chứng nhận quyển sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất số CN13947 ngày 02/5/2024 của Chi nhánh văn phòng
đăng ký đất đai quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó bà có liên hệ với ông
Nguyễn Hoàng P yêu cầu giao nhà thì ông P không giao mà còn xúc phạm bà. Nay bà
đề nghị Tòa án xem xét giải quyết vụ án trên đúng theo quy định của pháp luật, đề nghị
4
tòa không chấp nhận yêu cầu của ông P và buộc vợ chồng ông Nguyễn Ngọc L phải
tiếp tục thực hiện hợp đồng với bà, tuy nhiên đây chỉ là ý kiến chứ không làm đơn yêu
cầu độc lập, trường hợp Tòa chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Hoàng P về việc hủy
hợp đồng thì bà và ông Nguyễn Ngọc L sẽ tự giải quyết hậu quả với nhau.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Tuyết M trình bày: khi chồng
bà là ông Nguyễn Ngọc L mua nhà đất số đường C, phường T, quận T, Thành phố Hồ
Chí Minh của ông Nguyễn Hoàng P thì bà không đi coi nhà và đi ký hợp đồng chuyển
nhượng vì nghĩ là tài sản chung của vợ chồng và chỉ cần chồng bà đi làm thủ tục là
được. Bà đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hoàng P, chấp
nhận yêu cầu phản tố của chồng bà là ông Nguyễn Ngọc L, buộc ông P phải giao nhà
đất số đường C, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh cho vợ chồng ông bà để
ông bà giao cho bà Võ Lê Phương T. Ngày 23/4/2023 thì chồng bà là ông Nguyễn Ngọc
L có làm hợp đồng cho ông Nguyễn Hoàng P vay số tiền 1.200.000.000 đồng, bà không
chứng kiến việc ký hợp đồng cũng như giao nhận tiền. Sau này ông P có trả 180.000.000
đồng tiền vay và còn nợ số tiền 1.020.000.000 đồng. Nay bà đề nghị Hội đồng xét xử
buộc ông Nguyễn Hoàng P phải trả khoản tiền còn thiếu là 1.020.000.000 đồng cho vợ
chồng ông, bà.
Người có quyền lợi, nghĩ vụ liên quan là bà Đặng Thị Thúy trình bày: bà và ông
Nguyễn Hoàng P trước đây là vợ chồng và đã ly hôn, tuy nhiên cả hai đã quay lại sống
như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn. Khi ông P trả số tiền 180.000.000 đồng
cho ông L thì số tiền đó là bà đi mượn để cùng ông P trả. Nay bà không có ý kiến gì về
số tiền đã trả, ngoài ra khi ông P ký hợp đồng vay 1.200.000.000 đồng thì bà có chứng
kiến và xác định ông L không giao bất cứ khoản nào cho ông P. Nay bà đề nghị Tòa án
giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình giải quyết Tòa án có triệu tập bà Nguyễn Thị Kiều T, sinh năm
1997 và bà có bản khai với nội dung hiện đang cư trú tại địa chỉ số đường C, phường T,
quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, bà không có ý kiến gì về việc giải quyết tranh chấp
đối với vụ án trên và đề nghị được vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng Công chứng T, Thành phố Hồ
Chí Minh tại bản tự khai ngày 25/7/2024 trình bày: căn cứ hồ sơ yêu cầu công chứng
của ông Nguyễn Ngọc L đối với hợp đồng mua bán nhà đất số đường C, phường T,
quận T, Thành phố Hồ Chí Minh với ông Nguyễn Hoàng P. Văn phòng Công chứng T
đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật và đã công chứng hợp đồng mua bán nhà
ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 000481 quyển 01/2023TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 17/01/2023. Ngày 05/4/2024 căn cứ hồ sơ yêu cầu công chứng của ông Nguyễn
Ngọc L đối với hợp đồng mua bán nhà đất số đường C, phường T, quận T, Thành phố
Hồ Chí Minh giữa ông Nguyễn Ngọc L, bà Phạm Thị Tuyết M với bà Võ Lê Phương T
Văn phòng Công chứng T đã công chứng hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng
quyền sử dụng đất số 003238 quyển 04/2024TP/CC-SCC/HĐGD ngày 05/4/2024 đúng
theo quy định của pháp luật. Việc Văn phòng Công chứng T công chứng 02 hồ sơ trên
là đúng theo quy định của pháp luật, do đó Văn phòng không đồng ý với yêu cầu của
nguyên đơn về việc yêu cầu tuyên vô hiệu 02 hợp đồng trên.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ
Chí Minh phát biểu về việc chấp hành đúng quy định tại bộ luật tố tụng dân sự của
5
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, các đương sự và xác định: Thẩm phán và Hội đồng xét
xử đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, các
đương sự đã thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong quá trình tham gia tố tụng.
Về thời hạn giải quyết vụ án chưa đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án:
Đề nghị hủy 02 hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa ông Nguyễn Hoàng P với
ông Nguyễn Ngọc L và hợp đồng giữa ông Nguyễn Ngọc L, bà Phạm Thị Tuyết M với
bà Võ Lê Phương T.
Tuyên hủy cập nhật giấy chứng nhận ngày 06/4/2023 cho ông Nguyễn Ngọc L và
hủy cập nhật đổi sổ mới ngày 02/5/2024 đứng tên bà Võ Lê Phương T.
Buộc ông Nguyễn Hoàng P phải trả 1.120.000.000 đồng cho ông Nguyễn Ngọc L.
Chấp nhận một phần yêu cầu của bị đơn buộc nguyên đơn phải trả 890.000.000
đồng theo hợp đồng vay ngày 24/3/2023 cho ông Nguyễn Ngọc L.
Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của bị đơn đối với số tiền yêu cầu ông Nguyễn
Hoàng P phải trả số tiền 130.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà,
Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về thủ tục tố tụng:
Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Tranh chấp giữa ông Nguyễn Hoàng P và ông Nguyễn Ngọc L phát sinh từ việc
các bên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất số đường C, phường T, quận T, Thành
phố Hồ Chí Minh theo hợp đồng số 000481 ngày 17/01/2023 tại Văn phòng Công chứng
T và lập hợp đồng vay tài sản ngày 17/1/2023. Do đối tượng tranh chấp là hợp đồng
mua bán nhà đất tại quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử xác định
quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà”.
Đối với yêu cầu hủy cập nhật giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 06/4/2023
của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận Bình Tân và yêu cầu hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số CN13947
cập nhật ngày 02/5/2024 của Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi
trường, Thành phố Hồ Chí Minh. Việc cập nhật giấy chứng nhận và cấp mới giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất trong vụ án trên phát sinh do nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, việc Văn phòng đăng ký đất đai cập nhật sang tên cho ông Nguyễn Ngọc L
ngày 06/4/2023 và cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN13947 ngày
02/5/2024 đứng tên bà Võ Lê Phương T là thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự,
không mang tính chất của quyết định hành chính cá biệt. Do đó việc giải quyết yêu cầu
trên của ông Nguyễn Hoàng P không làm thay đổi thẩm quyền giải quyết vụ án trên, vì
vậy thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Đối với yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Ngọc L về việc yêu cầu ông Nguyễn
Hoàng P phải trả tiền vay theo hợp đồng vay tiền ngày 23/4/2023, Hội đồng xét xử xác
6
định đây là “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xác định tranh chấp trong vụ án trên là
“Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, tranh chấp hợp đồng vay tài sản, yêu cầu hủy cập
nhật giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Văn phòng Công chứng T có đơn xin
vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, căn cứ Điều 228 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015.
Bà Nguyễn Thị Kiều T là người hiện đang cư trú tại nhà đất số đường C, phường
T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên Hội đồng xét xử xét thấy bà chỉ là người
cư trú và việc giải quyết vụ án không liên quan gì đến quyền và lợi ích của bà do đó xác
định bà không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án trên.
2. Xét yêu cầu của đương sự:
Ông Nguyễn Hoàng P yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa
ông Nguyễn Hoàng P và ông Nguyễn Ngọc L có số công chứng: 000481 do Văn phòng
Công chứng T chứng nhận ngày 17/01/2023 và hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển
nhượng quyền sử dụng đất số công chứng: 003238 do Văn phòng Công chứng T chứng
nhận ngày 05/4/2024 giữa bà Võ Lê Phương T với ông Nguyễn Ngọc L và bà Phạm Thị
Tuyết M là vô hiệu
Hội đồng xét xử nhận thấy: ngày 17/01/2023 ông Nguyễn Hoàng P và ông Nguyễn
Ngọc L lập hợp đồng mua bán nhà số 000481 tại Văn phòng Công chứng T và sau đó
lập hợp đồng vay số tiền 1.300.000.000 đồng. Tại hợp đồng vay tiền có thể hiện rõ “...
với điều kiện bên B phải thực hiện Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cho bên A. Cụ thể là Hợp đồng số 000481 ngày 17/01/2023 tại Văn phòng
Công chứng quận Bình Tân... trong đó bên B đã chuyển nhượng căn nhà số 73/6/7 Lê
Đình Cẩn, phường Tân Tạo, quận Bình Tân cho bên B với số tiền là 1.300.00.000 đồng”.
Qua lời khai tại phiên tòa thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Phạm Thị
Tuyết M (vợ ông Nguyễn Ngọc L) thừa nhận không hề biết khi ông L ký hợp đồng mua bán
nhà và cũng không xem nhà trước khi ông L mua nhà. Việc ông L mua nhà và không bàn
bạc trước với vợ để tự quyết định việc mua nhà là điều không hợp lý bởi lẽ số tiền
1.300.000.000 đồng là tài sản chung của vợ chồng, khi các bên tiến hành mua bán nhà thì cả
hai vợ chồng phải xem xét nhà đất ở đâu, như thế nào nhưng bà M lại không biết việc trên
và tại phiên tòa cả hai vợ chồng cùng thừa nhận trước khi mua nhà thì không có bàn bạc gì
với nhau. Ngoài ra khi mua bán nhà đồng thời với việc giao tiền thì các bên phải thực hiện
việc giao nhà nhưng bên bị đơn khai cho ở nhờ và không lập thành văn bản là điều không
hợp lý. Xét tại hợp đồng vay tiền đều thể hiện các bên trong hợp đồng đều tự nguyện giao
kết, không bị ép buộc, các bên thỏa thuận rõ việc vay tiền và đảm bảo cho việc vay tiền thì
các bên đã thực hiện việc ký hợp đồng mua bán nhà cùng các điều khoản về việc chuyển
nhượng lại nhà sau này cho bên ông Nguyễn Hoàng P.
Do đó xác định việc mua bán nhà ở đây là không có thực, việc các bên tiến hành ký hợp
đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 000481 tại Văn phòng Công
chứng T đối với nhà đất số đường C, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh theo
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
7
số CH12895 ngày 14/11/2022 của Ủy ban nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí
Minh là nhằm mục đích đảm bảo cho việc vay số tiền 1.300.000.000 đồng theo hợp
đồng vay tiền ngày 17/01/2023. Căn cứ Điều 124 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì hợp
đồng mua bán nhà số 000481 tại Văn phòng Công chứng T là giao dịch giả tạo nhằm
mục đích che giấu cho giao dịch vay số tiền 1.300.000.000 đồng, do đó hợp đồng mua
bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 000481 tại Văn phòng
Công chứng T ngày 17/01/2023 là vô hiệu, hợp đồng vay tiền ngày 17/01/2024 có hiệu
lực pháp luật.
Xét yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số công chứng: 003238 do Văn phòng Công chứng T chứng nhận ngày 05/4/2024
giữa bà Võ Lê Phương T với ông Nguyễn Ngọc L và bà Phạm Thị Tuyết M là vô hiệu.
Từ lời khai của bà Võ Lê Phương T cùng ông Nguyễn Ngọc L và bà Phạm Thị Tuyết M
thì xuất phát từ việc ông L nợ bà T số tiền 1.000.000.000 đồng (hợp đồng miệng) và
không có điều kiện trả nên ông mới ký hợp đồng mua bán căn nhà số đường C, phường
T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Hoàng P
để cấn trừ nợ. Khi bà Võ Lê Phương T nhận chuyển nhượng nhà đất thì bà biết nhà đất
đang do ông Nguyễn Hoàng P quản lý và sử dụng nhà, biết rõ nguồn gốc nhà đất của ai
nhưng vẫn ký hợp đồng nhằm mục đích cấn trừ nợ. Do đó xác định việc ông L và bà M
ký hợp đồng bán lại căn nhà số đường C, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh
cho bà T là để cấn trừ khoản nợ trước đó vay của Tuyền để cấn trừ nợ là giao dịch giả
tạo. Căn cứ Điều 124 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì hợp đồng mua bán nhà công
chứng số 003238 do Văn phòng Công chứng T chứng nhận ngày 05/4/2024 giữa bà Võ
Lê Phương T với ông Nguyễn Ngọc L và bà Phạm Thị Tuyết M là vô hiệu. Ngoài ra
hợp đồng mua bán nhà giữa ông Nguyễn Hoàng P với ông Nguyễn Ngọc L được công
chứng số 000481 tại Văn phòng Công chứng T, Thành phố Hồ Chí Minh là hợp đồng
vô hiệu vì vậy hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nguyễn Ngọc L, bà Phạm Thị Tuyết M với bà Võ Lê Phương T được công chứng số
003238 tại Văn phòng Công chứng T chứng nhận ngày 05/4/2024 cũng vô hiệu.
Do Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 000481
quyển 01/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 17/01/2023 của Văn phòng Công chứng T giữa
ông Nguyễn Hoàng P và ông Nguyễn Ngọc L là vô hiệu và hợp đồng vay tài sản ngày
17/01/2023 có hiệu lực. Vì vậy ông Nguyễn Hoàng P có trách nhiệm phải trả lại số tiền
1.300.000.000 đồng cho ông Nguyễn Ngọc L, ngày 19/6/2023 ông Nguyễn Hoàng P đã
thanh toán được 180.000.000 đồng tiền nợ vì ông Nguyễn Hoàng P có trách nhiệm phải
trả lại số tiền 1.120.000.000 đồng cho ông Nguyễn Ngọc L ngay sau khi Bản án có hiệu
lực pháp luật.
Xét yêu cầu hủy cập nhật sang tên cho ông Nguyễn Ngọc L ngày 06/4/2023 và cấp
mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN13947 ngày 02/5/2024 đứng tên bà Võ
Lê Phương T của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận Bình Tân. Do Hợp đồng
mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 000481 tại Văn phòng Công
chứng T giữa ông Nguyễn Hoàng P và ông Nguyễn Ngọc L và Hợp đồng mua bán nhà
ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Ngọc L, bà Phạm Thị Tuyết
M với bà Võ Lê Phương T được công chứng số 003238 tại Văn phòng Công chứng T
chứng nhận ngày 05/4/2024 cũng vô hiệu vì vậy phải hủy cập nhật ngày 06/4/2023 và
giấy chứng nhận số CN13947 ngày 02/5/2024 để khôi phục lại giấy chứng nhận quyền
8
sử dụng đất cho ông Nguyễn Hoàng P. Tuy nhiên hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH12895 ngày 14/11/2022
của Ủy ban nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã bị thu hồi và được cấp
lại bằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số CN13947 ngày 02/5/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận
Bình Tân cấp cho bà Võ Lê Phương T. Do đó không cần phải hủy cập nhật ngày
06/4/2023 đứng tên ông Nguyễn Ngọc L của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận
Bình Tân do đối tượng yêu cầu không còn.
Xét yêu cầu hủy cập nhật và cấp lại giấy chứng nhận số CN13947 ngày 02/5/2024
của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận Bình Tân cấp cho bà Võ Lê Phương T.
Do Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
Ngọc L, bà Phạm Thị Tuyết M với bà Võ Lê Phương T được công chứng số 003238 tại
Văn phòng Công chứng T chứng nhận ngày 05/4/2024 cũng vô hiệu nên cần phải hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên. Xét việc cấp lại giấy cho bà Võ Lê Phương
T là thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự, không mang tính chất của quyết định
hành chính cá biệt vì vậy chỉ cần kiến nghị Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận
Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CN13947 ngày 02/5/2024 của Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai quận Bình Tân cấp cho bà Võ Lê Phương T để cấp mới giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đối với nhà đất số đường C, phường T,
quận T, Thành phố Hồ Chí Minh cho ông Nguyễn Hoàng P.
Xét yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Ngọc L về việc công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất số 000481 tại Văn phòng Công chứng
T giữa ông Nguyễn Hoàng P và ông Nguyễn Ngọc L và hủy hợp đồng vay tài sản ngày
17/01/2023. Như phân tích ở trên hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa ông Nguyễn
Hoàng P và ông Nguyễn Ngọc L là vô hiệu và hợp đồng vay tiền là có hiệu lực nên yêu
cầu trên của ông Nguyễn Ngọc L không được chấp nhận.
Xét yêu cầu buộc ông Nguyễn Hoàng P phải trả tiền vay theo hợp đồng ngày
23/4/2023 giữa ông Nguyễn Hoàng P và ông Nguyễn Ngọc L là 1.020.000.000 đồng.
Tại phiên tòa ông Nguyễn Ngọc L thừa nhận việc ông Nguyễn Hoàng P đứng ra nhận
nợ thay cho con là ông Nguyễn Hoàng D nên mới ký hợp đồng vay tiền ngày 23/4/2023
và yêu cầu ông Nguyễn Hoàng P phải trả cho ông số tiền 890.000.000 đồng ngay sau
khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ông Nguyễn Ngọc L xin rút lại một phần yêu cầu phản
tố đối với số tiền 130.000.000 đồng như yêu cầu phản tố ban đầu. Hội đồng xét xử xét
thấy tại phiên tòa ông Nguyễn Hoàng P cũng đồng ý trả lại cho ông Nguyễn Ngọc L số
tiền 890.000.000 đồng theo hợp đồng vay tiền và ông Nguyễn Ngọc L cũng đồng ý vì
vậy cần buộc ông Nguyễn Hoàng P phải trả số tiền 890.000.000 đồng theo hợp đồng
vay ngày 23/4/2023 cho ông Nguyễn Ngọc L.
Do đó ông Nguyễn Hoàng P có trách nhiệm phải trả cho ông Nguyễn Ngọc L tổng
số tiền là 1.120.000.000 đồng + 890.000.000 đồng = 2.010.000.000 đồng ngay sau khi
Bản án có hiệu lực pháp luật.
Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Ngọc L buộc ông Nguyễn
Hoàng P phải trả số tiền là 130.000.000 đồng.
9
Xét hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng
003238 ngày 05/4/2024 tại Văn phòng Công chứng T giữa ông Nguyễn Ngọc L và bà
Phạm Thị Tuyết M với bà Võ Lê Phương T là vô hiệu, Tòa án đã giải thích rõ về việc
giải quyết hậu quả đối với hợp đồng vô hiệu nhưng ông Nguyễn Ngọc L, bà Phạm Thị
Tuyết M và bà Võ Lê Phương T không yêu cầu giải quyết hậu quả. Do đó trong vụ án
trên Hội đồng xét xử không có căn cứ để giải quyết hậu quả, vì vậy dành quyền khởi
kiện bằng một vụ án khác để giải quyết hậu quả đối với hợp đồng trên khi các bên có
yêu cầu.
3. Về án phí:
Do ông Nguyễn Hoàng P có nghĩa vụ phải trả lại cho ông Nguyễn Ngọc L tổng số
tiền 2.010.000.000 đồng nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 72.200.000
đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 22.800.000 đồng theo biên lai tạm ứng án phí
số 0017034 ngày 01/7/2024 và số tiền là 300.000 đồng theo biên lai tạm ứng án phí số
0017035 ngày 01/7/2024 và số tiền là 300.000 đồng theo biên lai tạm ứng án phí số
0017091 ngày 09/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ
Chí Minh. Vì vậy ông Nguyễn Hoàng P phải nộp thêm số tiền án phí là 48.800.000
đồng.
Do 02 hợp đồng công chứng số 000481 ngày 17/01/2023 và hợp đồng công chứng
số 003238 ngày 05/4/2024 của Văn phòng Công chứng T bị tuyên vô hiệu nên ông
Nguyễn Ngọc L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch của mỗi hợp đồng
là 300.000 đồng, vì vậy ông Nguyễn Ngọc L có trách nhiệm nộp áp phí là 600.000 đồng.
Số tiền án phí trên được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà ông Nguyễn Ngọc L đã nộp
là 600.000 đồng theo biên lai tạm ứng án phí số 0017380 ngày 07/8/2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Hoàn lại cho ông Nguyễn Ngọc L tiền tạm ứng án phí đã nộp là 21.300.000 đồng
theo biên lai tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0017256 ngày 29/7/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Áp dụng Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 228, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015;
- Áp dụng các Điều 122, Điều 124, Điều 131, Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều
468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
+ Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 000481 quyển
01/2023TP/CC-SCC/HĐGD ngày 17/01/2023 của Văn phòng Công chứng T, Thành
phố Hồ Chí Minh giữa ông Nguyễn Hoàng P và ông Nguyễn Ngọc L là vô hiệu. Không
10
chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Ngọc L về việc công nhận hợp đồng mua
bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 000481 quyển 01/2023TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 17/01/2023 của Văn phòng Công chứng T, Thành phố Hồ Chí Minh
là có hiệu lực.
+ Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 003238 quyển
04/2024TP/CC-SCC/HĐGD ngày 05/4/2024 của Văn phòng Công chứng T, Thành phố
Hồ Chí Minh giữa ông Nguyễn Ngọc L, bà Phạm Thị Tuyết M với bà Võ Lê Phương T
là vô hiệu.
Buộc ông Nguyễn Hoàng P phải trả lại cho ông Nguyễn Ngọc L số tiền
1.120.000.000 (một tỷ một trăm hai mươi triệu) đồng theo hợp đồng vay tiền ngày
17/01/2023 ngay sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật.
Hủy cập nhật và đổi sổ đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CN13947 ngày 02/5/2024 của Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai quận Bình Tân cấp cho bà Võ Lê Phương T.
Kiến nghị Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận Bình Tân, Thành phố Hồ
Chí Minh cập nhật hoặc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất số CN13947 ngày 02/5/2024 của Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai quận Bình Tân cấp cho bà Võ Lê Phương T để được cập nhật sang tên
hoặc cấp mới giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất đối với nhà đất số
đường C, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh cho ông Nguyễn Hoàng P.
Ông Nguyễn Hoàng P được quyền liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xác
lập quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đối với nhà đất số đường C, phường T, quận
T, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn:
Buộc ông Nguyễn Hoàng P có trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Ngọc L số tiền
890.000.000 (tám trăm chín mươi triệu) đồng theo hợp đồng vay tiền ngày 23/4/2023
giữa ông Nguyễn Hoàng P với ông Nguyễn Ngọc L ngay sau khi Bản án có hiệu lực
pháp luật.
Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Ngọc L về việc yêu cầu ông
Nguyễn Hoàng P phải trả số tiền 130.000.000 (một trăm ba mươi triệu) đồng theo hợp
đồng vay tiền ngày 23/4/2023.
Kể từ ngày ông Nguyễn Ngọc L có đơn yêu cầu thi hành án thì ông Nguyễn Hoàng
P phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành
án.
Dành quyền khởi kiện về việc giải quyết hậu quả do giao dịch dân sự vô hiệu đối
với Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 003238 quyển
04/2024TP/CC-SCC/HĐGD ngày 05/4/2024 của Văn phòng Công chứng T, Thành phố
Hồ Chí Minh giữa ông Nguyễn Ngọc L, bà Phạm Thị Tuyết M với bà Võ Lê Phương T
khi các bên có yêu cầu.
3. Về án phí:
11
Do ông Nguyễn Hoàng P có nghĩa vụ phải trả lại cho ông Nguyễn Ngọc L số tiền
2.010.000.000 (hai tỷ không trăm mười triệu) đồng nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm
có giá ngạch là 72.200.000 (bảy mươi hai triệu hai trăm nghìn) đồng được trừ vào số tiền
tạm ứng án phí là số tiền 22.800.000 (hai mươi hai triệu tám trăm nghìn) đồng theo biên
lai tạm ứng án phí số 0017034 ngày 01/7/2024 và số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng
theo biên lai tạm ứng án phí số 0017035 ngày 01/7/2024 và số tiền là 300.000 (ba trăm
nghìn) đồng theo biên lai tạm ứng án phí số 0017091 ngày 09/7/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy ông Nguyễn Hoàng P
phải nộp thêm số tiền án phí là 48.800.000 (bốn mươi tám triệu tám trăm nghìn) đồng.
Do 02 (hai) hợp đồng công chứng số 000481 ngày 17/01/2023 và hợp đồng công
chứng số 003238 ngày 05/4/2024 của Văn phòng Công chứng T bị tuyên vô hiệu nên
ông Nguyễn Ngọc L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch của mỗi hợp
đồng là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, vì vậy ông Nguyễn Ngọc L có trách nhiệm nộp
áp phí là 600.000 (sáu trăm nghìn) đồng. Số tiền án phí trên được trừ vào số tiền tạm
ứng án phí mà ông Nguyễn Ngọc L đã nộp là 600.000 (sáu trăm nghìn) đồng theo biên
lai tạm ứng án phí số 0017380 ngày 07/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình
Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Hoàn lại cho ông Nguyễn Ngọc L tiền tạm ứng án phí đã nộp là 21.300.000 (hai
mươi mốt triệu ba trăm nghìn) đồng theo biên lai tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số
0017256 ngày 29/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ
Chí Minh.
4. Về quyền kháng cáo, kháng nghị.
Đương sự được quyền kháng cáo, Viện kiểm sát được quyền kháng nghị bản án
này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân
sự.
Nơi nhận:
- VKSND quận Bình Tân;
- Chi cục THADS quận Bình Tân;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đào Tiến Trung
Tải về
Bản án số 1006/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 1006/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Bản án số 843/2024/DS-PT ngày 20/09/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm