Bản án số 67/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 67/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 67/2025/DS-PT ngày 27/03/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đà Nẵng
Số hiệu: 67/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của bà Hồ Thị N; Giữ nguyên Bản án dân sự số 64/2024/DS-ST ngày 15/10/2024 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
——————————
Bản án số: 67/2025/DS-PT
Ngày: 27/3/2025
V/v “Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất; Yêu cầu
công nhận quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tdo - Hạnh pc
——————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Hoài Sơn
Các thẩm phán: Nguyễn Hữu Thị Hảo Hảo
Ông Nguyễn Ngọc Anh
- Thư phiên tòa: Phạm Thị Kiều Hạnh - Thư Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Hưng - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 3 m 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét
xử phúc thẩm công khai
vụ án thụ số 228/2024/TLPT-DS ngày 05/12/2024, về
“Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất; Yêu cầu công nhận quyền
sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự số 64/2024/DS-ST ngày 15/10/2024 của Tòa án nhân dân
quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 30/2025/QĐPT-DS ngày
06/02/2025; Quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm số 65/2025/QĐPT-DS ngày
19/02/2025; Quyết định hoãn phiên phúc thẩm số 107/2025/QĐPT-DS ngày
05/3/2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Phạm Anh T, sinh năm: 1961 và Phùng Thị T1 sinh
năm: 1965; Cùng trú tại: Số 01 đường S 11, tổ 5, phường H, quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng. Đại diện theo uỷ quyền của Thọ : Ông Phạm Anh T, (theo
giấy uỷ quyền ngày 13/3/2025). Có mặt.
2
2. Bị đơn: Bà Hồ Thị N, sinh năm: 1949; Trú tại: Tổ 9, phường H, quận Ngũ
Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
+ Người bảo vệ, quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Trần Văn Đ - Luật
sư, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Doãn Thị Nhất L, sinh năm: 1984; Trú tại: Tổ 9, phường H, quận
Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. mặt.
3.2. Ông Huỳnh T2, sinh năm: 1938 bà Phạm Thị Bạch Y, sinh năm:
1943; ng trú tại: Trú tại: K503/32 đường T, phường Hòa Thuận Tây, quận Hải
Châu, thành phố Đà Nẵng. (Ông Huỳnh T2 chết năm 2024). Y đơn đề nghị
xét xử vắng mặt.
- Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Huỳnh T2 gồm:
+ Bà Phạm Thị Bạch Y, sinh năm: 1943; Trú tại: K503/32 đường T, phường
Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. (Vợ ông Huỳnh Tứ).
+ Huỳnh Thị Bạch N1, sinh năm 1966; Trú tại: H7/17 đường Thi S,
phường Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
+ Bà Huỳnh Thị Thúy N2, sinh năm: 1968; Trú tại: Số 24 đường Đ, phường
Nam Dương Nam, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
+ Huỳnh Thị Kim N3, sinh năm: 1981; Trú tại: K34 đường Thi S, phường
Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
+ Huỳnh Thị Minh N3, sinh năm: 1985; Trú tại: Số 249 đường H, quận
Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Các N1, N2, N3, N4 là các con của ông Huỳnh T2 đơn đề nghị xét
xử vắng mặt.
5. Người kháng cáo: Bị đơn bà Hồ Thị N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án dân sự sơ thẩm nội dung vụ án như sau:
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên
đơn ông Phạm Anh T và bà Phùng Thị T1 trình bày:
Vào năm 2001, ông Phạm Anh T và vợ là bà Phùng Thị T1 là người trực tiếp
thỏa thuận để mua đất của Hồ Thị N, theo đó: Bà N chuyển nhượng cho vợ chồng
ông 100m² đất tọa lạc tại t4, Sơn Thủy II (nay số 01 đường S 11, t5), phường
Hòa Hải, quận Ngũ Hành n, thành phố Đà Nẵng với giá trị chuyển nhượng
15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng), bên mua có trách nhiệm chịu chi phí công
chứng khi làm giấy tờ chuyển nhượng. Do vợ chồng ông mới chuyển công tác từ
huyện Điện Bàn ra nên chưa có hộ khẩu thường trú và theo quy định của thành phố
3
Đà Nẵng lúc đó phải hkhẩu tại Đà Nẵng mới được mua bán đất tại thành phố,
vì vậy ông nhờ vợ chồng chruột của ông T Phạm Thị Bạch Y ông
Huỳnh T2 đứng tên để mua đất của bà N và được sđồng ý của hai bên (thể hiện tại
Giấy chuyển nhượng đất ở ngày 21/11/2001).
Ngày 23/11/2001, N đã lập hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, gồm:
Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất được giữa các bên gửi tới quan nhà nước thẩm quyền. Hồ
chuyển nhượng đã được UBND phường Hòa Hải ký xác nhận ngày 04/12/2001 (có
sơ đồ vị trí khu đất kèm theo).
Ngày 30/12/2001, ông T đã giao đúng đầy đủ số tiền 15.000.000 đồng
(Mười lăm triệu đồng) như đã thỏa thuận cho N (theo Giấy giao tiền lập ngày
30/12/2001).
Năm 2003, ông T T1 tiến hành xây dựng nhà trên khu đất đã nhận
chuyển nhượng thì bà N ra cản trở việc xây dựng, với lý do chỉ bán đất vườn và bên
mua phải nộp tiền chuyển đổi mục đích sử dụng đất khi tách thửa. vậy, ngày
14/9/2003 các bên tiếp tục ký kết Giấy cam kết cùng thỏa thuận, theo đó: Bà N bán
cho ông T 100m² đất (5m x 20m), “Sau này tách quyền sử dụng đất. Bên mua chịu
hoàn toàn thuế nhà nước trong phạm vi 100m². Hai bên cùng thỏa thuận tên để
cho bên mua làm nhà ở(theo Giấy cam kết cùng thỏa thuận lập ngày 14/9/2003).
Đến ngày 31/5/2011, gia đình ông T tiếp tục chuyển cho N số tiền
50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) để nộp tiền thuế đất nhằm chuyển đất vườn
thừa sang mục đích đất với diện tích 100m² đã chuyển nhượng (theo Giấy nhận
tiền lập ngày 31/5/2011).
Nay được biết, bà N đã lập hồ sơ và đã được UBND thành phố Đà Nẵng cấp
Giấy chứng nhận quyền shữu nhà quyền sở hữu đất số 3405020217 ngày
16/01/2003. Tuy nhiên, bà N vẫn không làm thủ tục tách thửa, không cắt riêng diện
tích đất đã bán cho vợ chồng ông T theo thỏa thuận đã ký và cũng không thông báo
cho vợ chồng ông T hay vợ chồng bà Y biết.
Từ đó đến nay nhiều lần vợ chồng ông T sang thương lượng với N đề
nghị nhiều lần tại các cuộc họp Tổ dân phố nhưng vẫn không được bà N giải quyết.
Bà N nại ra nhiều lý do để từ chối thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết như: sợ về lại
đồ đất của Sổ hồng sẽ mất đất của Bà!? hay ảnh hưởng tới việc giải tỏa đất làm
đường Trần Văn Đ của N? (mặc Phòng Địa chính - Nhà đất quận Ngũ Hành
Sơn đã giải thích việc cắt đất nêu trên không làm mất đất, không gây ảnh hưởng tới
Sổ hồng và việc giải tỏa đất làm đường Trần Văn Đ của N). Tuy nhiên, bà N vẫn
không thực hiện.
Nhận thấy, N không thiện chí để giải quyết vụ việc ông T đã làm đơn
gửi tới UBND phường Hòa Hải để đề nghị giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng
đất. Ngày 04/8/2022, UBND phường Hòa Hải đã tổ chức buổi hòa giải để giải quyết
4
tranh chấp quyết sdụng đất nhưng không đạt kết quả. Tại buổi hòa giải, N đã
yêu cầu vợ chồng ông T phải chuyển thêm cho N 500.000.000 đồng (Năm trăm
triệu đồng) thì N mới thực hiện việc tách đất cho vợ chồng ông T (theo Biên bản
hòa giải ngày 04/8/2022). Xét thấy, yêu cầu của bà N lý, ngang ngược cố
tình không thực hiện các thỏa thuận đã trước đó. Sự việc không thể giải quyết
thông qua thương lượng, hòa giải.
Vì vậy, ông T bà T1 đề nghị Toà án xem xét, giải quyết với các yêu cầu cụ
thể như sau:
- Yêu cầu xem xét công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất
ngày 04/12/2001; công nhận ông bà là chủ sdụng hợp pháp thửa đất ở có diện tích
100m² thuộc một phần thửa đất số 11, tờ bản đồ số 25, tổng diện tích 637,3 m² theo
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sở hữu đất số 3405020217 do
UBND thành phố Đà Nẵng cấp ngày 16/01/2003 đứng tên bà Hồ Thị N.
- Giao cho ông bà có quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để
thực hiện thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất nêu trên theo quy định của pháp luật.
- Điều chỉnh lại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu đất ở
số 3405020217 do UBND thành phố Đà Nẵng cấp ngày 16/01/2003 đứng tên bà Hồ
Thị N tương ứng với việc giảm trừ diện tích 100m² đất ở đã chuyển nhượng cho gia
đình ông T.
* Theo bản trình bày ý kiến và tại phiên tòa, bị đơn bà Hồ Thị N trình bày:
Năm 2001, bà có bán 100m² đất vườn tạp cho vợ chồng ông Huỳnh T2 và bà
Phạm Thị Bạch Y theo Hợp đồng chuyển nhượng do UBND phường ký ngày
04/12/2011 với thỏa thuận bên mua chịu hoàn toàn chi phí liên quan đến vấn đề
tách thửa. Đến năm 2004, vợ chồng ông Phạm Anh T Phùng Thị T1 không
biết quan hệ gì của người mua đất đến chặt cây, đập phá tường rào đlàm nhà,
không cho vì đất bà bán cho bà Y chưa tách thửa thì làm có nhiều rắc ri sau này.
Tuy nhiên, ông T dẫn người đến đã uy hiếp bà để được làm nhà, bà đã làm đơn đến
quan làm việc của ông T ông bị Nhà trường chuyển công tác từ Hiệu phó về
làm tại phòng giáo quận. Năm 2003, khi Nnước chủ trương chuyển từ s đ
sang s hồng, đã là quyền lợi của bà, có nhắn với bà Y thông qua vchồng ông
T tách thửa ra nhưng phải nộp tiền thuế chi phí hết 10.000.000 (Mười triệu
đồng), nhưng họ viện lý do là không có tiền để làm, quyền lợi của bà nên bà vẫn
chuyển toàn bộ đất sang sổ hồng nên việc ông T nói không thông báo về việc
chuyển đổi sổ là sai sự thật.
chỉ làm việc với người đứng tên trên Hợp đồng chuyển nhượng pháp
luật chỉ công nhận tính hợp pháp của người đứng tên trên Hợp đồng chuyển nhượng.
Trong Hợp đồng chuyển nhượng tất cả các giấy tliên quan đến việc mua bán
đất đều không đề cập đến vấn đề phải chuyển mục đích sử dụng đất cho người
mua. Nên bà không có nghĩa vụ phải chuyển mục đích đất ở cho họ.
5
Từ những ý kiến trên bà mong Tòa giải quyết cho bà một số vấn đề sau:
- Giữa vchồng ông Phạm Anh T, Phùng Thị T1 không phát sinh
việc mua bán 100m
2
đất. Do đó vợ chồng ông Tbà T1 không có quyền khởi kiện
đòi đất của bà.
- Khi nào ông Huỳnh T2 và bà Phạm Thị Bạch Y yêu cầu thì bà sẽ thực hiện
theo đúng thỏa thuận của Hợp đồng chuyển nhượng ngày 04/12/2001 chỉ
đồng ý hỗ trợ làm thủ tục tách thừa với các điều kiện sau:
+ Khi nào hoàn thành xong việc giải tỏa đền nhà đất nhà đang
trong diện quy hoạch giải tỏa không thể tách thửa;
+ Đập bỏ tất cả các phần xây dựng lấn chiếm sang đất nhà bà dù 1cm;
+ Thanh toán toàn bộ tiền thuế đất mà bà đã nộp thay từ năm 2001 đến nay;
- Bà không chịu trách nhiệm về ngôi nhà xây dựng trái phép và lấn chiếm đất
nhà bà, còn việc tách thửa được hay không là việc của nhà nước;
- Việc tách thửa chỉ được thực hiện khi sự đồng thuận giữa bên mua bên
bán, không liên quan đến bên thứ ba và bà cũng không đồng ý vẽ nhà vào sổ của bà
vì bà chỉ bán đất không bán nhà.
* Tại phiên toà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Doãn Thị Nhất L
ý kiến như sau:
Bà là con gái của bà Hồ Thị N, gia đình bà chỉ có hai mẹ con bà. Năm 1989,
hộ gia đình bà N (gồm bà N và con gái là bà L) được Nhà nước cấp đất để làm nhà
ở và năm 1995 được UBND huyện Hoà Vang cấp Giấy chứng nhận. Năm 2001, mẹ
bà có bán đất cho vợ chồng Y ông T2, thời điểm đó bà còn nhỏ nên chỉ nghe
mẹ bà nói lại. Suốt quá trình vợ chồng ông T làm nhà và có tranh chấp với mẹ thì bà
biết sự việc. Nay vợ chồng ông T khởi kiện mẹ yêu cầu công nhận quyền s
dụng đất cho vợ chồng ông T thì bà không đồng ý, bà thống nhất với ý kiến của mẹ
bà.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Phạm Thị Bạch Y có bản tự khai như sau:
Vào năm 2001, vợ chồng em ông Phạm Anh T và vợ bà Phùng Thị T1
người trực tiếp thỏa thuận để mua đất của Hồ Thị N, theo đó: Bà N chuyển
nhượng cho vợ chồng ông T, bà T1 diện tích 100m² đất tọa lạc tại tổ 4, Sơn Thủy II
(nay số 01 đường S 11, t5), phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố
Đà Nẵng với giá chuyển nhượng là 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng).
Tuy nhiên do vợ chồng ông T mới chuyển công tác từ huyện Điện Bàn ra nên
chưa có hkhẩu thường trú tại Đà Nẵng. Vì vậy, vợ chồng ông T có nhờ vợ chồng
Phạm Thị Bạch Y và ông Huỳnh T2 đứng tên giùm trên giấy tờ chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với N. Theo đó, vợ chồng bà đứng tên giúp để ký kết một số
giấy tờ về chuyển nhượng quyền sử dụng đất với N (như Giấy chuyển nhượng
6
đất ngày 21/11/2001; Đơn xin chuyển nhượng quyền sdụng đất Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/11/2001 được UBND phường Hòa Hải
ký xác nhận ngày 04/12/2001).
Tuy đứng tên trên một số giấy tờ chuyển nhượng như mọi thỏa thuận mua
bán/chuyển nhượng, giao nhận tiền bạc, quản sdụng quyền sử dụng đất đã
nhận chuyển nhượng đều do vợ chồng ông T và bà T1 trực tiếp thực hiện.
Nay sự việc phát sinh tranh chấp. Vì vậy, bà làm văn bản này để trình bày sự
việc như đã nêu trên vào khẳng định rằng: Quyền sử dụng đất theo Hợp đồng chuyển
nhượng nêu trên của vợ chồng em ông Phạm Anh T bà Phùng Thị T1.
Việc giao dịch thỏa thuận về mua bán/chuyển nhượng, giao nhận tiền bạc, quản
và sử dụng quyền sử dụng đất đã nhận chuyển nhượng đều do vợ chồng ông T và bà
T1 trực tiếp thực hiện từ đó đến nay. Vợ chồng không liên quan gì không
có yêu cầu gì khác.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng
của ông Huỳnh T2 là bà Huỳnh Thị Bạch N1 có bản tự khai như sau:
Nguyên cha ông Huỳnh T2 (sinh năm 1938) người quyền lợi
nghĩa vliên quan trong vụ án “Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Phạm Anh T vợ Phùng Thị T1 với bị đơn
là bà Hồ Thị N.
Trong quá trình giải quyết vụ án, vào ngày 03/06/2024 cha bà đã chết. Do đó,
mẹ và các chị em của được Tòa án xác định người kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Bà làm
bản tự khai này để trình bày lại sự việc như sau:
- Về hàng thừa kế thứ nhất của cha bà ng Huỳnh T2) như sau:
Ông Huỳnh T2 có cha là ông Huỳnh Đạm, sinh năm 1906 (chết năm 1986)
mẹ là bà Lê Thị La, sinh năm 1906 (chết năm 1955) có bản chụp bia mộ kèm theo.
Do ông, nội của đã chết từ rất lâu nên mẹ các chị em người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng của cha ông Huỳnh T2 trong vụ án. Cụ thể là: Mẹ là bà
Phạm Thị Bạch Y và các chị em gồm: Bà Huỳnh Thị Bạch N1, bà Huỳnh Thị Thúy
N2, Huỳnh Thị Kim N3, bà Huỳnh Thị Minh N4.
- Về nội dung vụ án: Vào năm 2001 vợ chồng chú bà là ông Phạm Anh T
bà Phùng Thị T1 người trực tiếp thỏa thuận để mua đất của Hồ Thị Nghĩa, theo
đó: Bà N chuyển nhượng cho vợ chồng ông TT1 diện tích 100m
2
tọa lạc tại tổ 4,
Sơn Thủy II (nay là số 01 đường S 11, t5), phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng với giá chuyển nhượng 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu
đồng).
Tuy nhiên do vợ chồng chú mới chuyển công tác từ huyện Điện Bàn ra nên
chưa có hộ khẩu thường trú tại Đà Nẵng. Vì vậy, vợ chồng chú bà có nhờ ba mẹ bà
(Phạm Thị Bạch Y và Huỳnh T2) đứng tên giùm trên giấy tờ chuyển nhượng quyền
7
sử dụng đất với bà N. Theo đó, cha mẹ Phạm Thị Bạch Y và Huỳnh 2 đứng tên
giúp để kết một số giấy tờ về chuyển nhượng quyền sdụng đất với bà Hồ Thị N
(như Giấy chuyển nhượng đất ngày 21/11/2001; Đơn xin chuyển nhượng quyền
sử dụng đất và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/11/2001 được
UBND phường Hòa Hải ký xác nhận ngày 04/12/2001).
Tuy đứng tên trên một số giấy tờ chuyển nhượng nhưng mọi thỏa thuận mua
bán/chuyển nhượng, giao nhận tiền bạc, quản sdụng quyền sử dụng đất đã
nhận chuyển nhượng đều do vợ chồng ông T và T1 trực tiếp thực hiện. vậy,
cha mẹ bà cũng đã có văn bản gửi tới Tòa án để trình bày lại sự việc và khẳng định
rằng: Quyền sử dụng đất theo Hợp đồng chuyển nhượng nêu trên của vợ chồng
ông T T1. Việc giao dịch thỏa thuận về mua bán/chuyển nhượng, giao nhận
tiền bạc, quản sử dụng quyền sử dụng đất đã nhận chuyển nhượng đều do vợ
chồng ông T T1 trực tiếp thực hiện từ đó đến nay. Cha mẹ không liên
quan gì và không có yêu cầu gì khác.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án, vào ngày 03/06/2024 cha bà
ông Huỳnh T2 do tuổi già, sức yếu nên đã chết theo Giấy chứng tử số 14/TLKT
do UBND phường Hòa Thuận Tây cấp ngày 04/6/2024. Do đó, mới được xác
định là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Bản thân được biết, cha mẹ chỉ đứng tên giùm trên giấy tờ chuyển
nhượng quyền sử dụng đất không quyền lợi nghĩa vụ đối với vụ việc nêu
trên. vậy, cũng chỉ tham gia vụ án theo thủ tục không quyền nghĩa
vụ liên quan gì. Do đó, bà cũng thống nhất với ý kiến trình bày của mẹ bà và không
có yêu cầu gì khác.
Do điều kiện công việc không thể tham dự các phiên hòa giải xét xđối
với vụ án nêu trên. Vì vậy, bà làm đơn này xin được vắng mặt tại các phiên a giải
xét xử vụ án nêu trên đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết xét xử vắng mặt
bà trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng
của ông Huỳnh T2 các bà Huỳnh Thị Thuý N2, Huỳnh Thị Kim N3, Huỳnh Thị
Minh N4 bản tự khai như sau: Thống nhất như lời trình bày của Huỳnh Thị
Bạch N1.
* Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn ông Huỳnh Hoài
N trình bày luận cứ bảo vệ: Đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn.
* Với nội dung nêu trên tại Bản án dân sự số 64/2024/DS-ST ngày 15/10/2024
của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã xử và quyết định:
Căn cứ khoản 3 điều 26; điểm a khoản 1 điều 35 điểm a khoản 1 điều 35
khoản 2 điều 227; c Điều 157, 158, 161, 162, 165, 166 Bộ luật Ttụng dân sự;
các Điều 131, 133, 400, 691, 705, 707 Bluật dân sự năm 1995; Luật đất đai năm
8
1993; Căn cứ Luật đất đai năm 2003 sửa đổi bổ sung năm 2009; Luật đất đai năm
2013; Luật đất đai năm 2024; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Anh T,
Phùng Thị T1 đối với bđơn Hồ Thị N về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất; Yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất”.
Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/11/2001 giữa
Hồ Thị N với Phạm Thị Bạch Y, ông Huỳnh T2 được UBND phường Hoà Hải
chứng thực ngày 04/12/2001 có hiệu lực pháp luật;
Công nhận giao dịch thoả thuận miệng giữa vợ chồng ông Phạm Anh T,
Phùng Thị T1 với vợ chồng ông Huỳnh T2, bà Phạm Thị Bạch Y về việc nhờ đứng
tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hiệu lực;
Công nhận cho ông Phạm Anh T, Phùng Thị T1 được quyền sử dụng đất
diện tích 96,7m² là một phần thuộc thửa đất số 11 (số 6 mới), tờ bản đồ số 25 (số 33
mới) tại địa chỉ phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng có Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 3405020217 đứng tên
Hồ Thị N do UBND TP Đà Nẵng cấp ngày 16/01/2003;
Thửa đất tứ cận: Đông giáp đất N; Tây giáp đất trống (số 03 đường S
11); Nam giáp nhà và đất bà N; Bắc giáp đường S 11.
Sơ đồ đo đạc hiện trạng thửa đất của Văn phòng đăng đất đai thành phố
Đà Nẵng kèm theo.
Ông Phạm Anh T, bà Phùng Thị T2 được quyền liên hvới quan nhà nước
thẩm quyền để được làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền
sử dụng sử dụng đất đối với nđất nói trên và thực hiện các nghĩa vụ tài chính của
người sử dụng đất theo đúng quy định (nếu có).
2. Án phí dân sthẩm: Bị đơn Hồ Thị N được miễn nộp án phí với
do người cao tuổi, người có công với cách mạng.
Hoàn trả cho nguyên đơn ông Phạm Anh T, bà Phùng Thị T1 số tiền tạm ứng
án phí 300.000 đồng nguyên đơn đã nộp theo Biên lại thu số 0001438 ngày
10/11/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn.
3. Các chi phí tố tụng khác: Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ 5.000.000
đồng, chi pđo đạc 2.750.210 đồng, chi phí định giá tài sản 17.000.000 đồng. Tổng
cộng 24.750.210 đồng bị đơn Hồ Thị N trách nhiệm trả lại cho nguyên đơn
ông Phạm Anh T, bà Phùng Thị T1.
* Sau khi xét xử thẩm, ngày 23/10/2024 Hồ Thị N kháng o đề ngh
sửa hoặc huỷ bản án sơ thẩm để giải quyết đúng bản chất vụ việc, đúng quy định
pháp luật để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bà.
9
Tại phiên toà phúc thẩm, N người bảo vệ, quyền lợi ích hợp pháp đề
nghị huỷ bản án thẩm và chuyển hồ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết
lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của bà N.
* Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà
Nẵng phát biểu về quan điểm giải quyết vụ án như sau:
+ Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
ở giai đoạn phúc thẩm là đảm bảo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về quan điểm giải quyết: Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 B luật Tố tụng dân
sự. Không chấp nhận kháng cáo của Hồ Thị N. Giữ nguyên Bản án dân sự số
64/2024/DS-ST ngày 15/10/2024 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành
phố Đà Nẵng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; sau khi đại diện Viện
kiểm sát phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về ttụng: Tại phiên toà, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm
Thị Bạch Y người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Huỳnh T2 gồm các
: Phạm Thị Bạch Y, Huỳnh Thị Bạch N1, Huỳnh Thị Thuý N2, Huỳnh Thị Kim
N3, Huỳnh Thị Minh N4 đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 296
Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ.
[2] Về nội dung: Xét nội dung kháng cáo của bà Hồ Thị N, thì thấy:
[2.1] Năm 2001, vợ chồng ông Phạm Anh T, bà Phùng Thị T2 người trực
tiếp thỏa thuận để mua đất của bà Hồ Thị N, theo đó: Bà N chuyển nhượng cho ông
T, T1 diện tích 100m² đất vườn, tcận: Phía bắc giáp đất Niên, phía nam
giáp đất N, phía tây giáp đất ông May, phía đồng giáp đất N tại địa chỉ t4,
Sơn Thủy II (nay là số 01 đường S 11, t5), phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng thuộc thửa đất số 143, tờ bản đồ số 4 Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất vào sổ cấp giấy s44 QSDĐ/241/QĐUB do UBND huyện Hoà Vang,
tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ) cấp ngày 24/4/1995 với giá trị chuyển nhượng
15.000.000 đồng, bên mua trách nhiệm chịu chi phí công chứng khi làm giấy tờ
chuyển nhượng. Do vợ chồng ông T, T1 mới chuyển công tác từ huyện Điện Bàn,
Quảng Nam ra nên chưa hộ khẩu thường trútheo quy định của thành phố Đà
Nẵng lúc đó phải hộ khẩu tại Đà Nẵng mới được mua bán đất tại thành phố.
vậy ông T, T1 nhờ vợ chồng chị ruột của ông T Phạm Thị Bạch Y ông
Huỳnh T2 đứng tên để nhận chuyển nhượng đất của bà N được sđồng ý của hai
bên thể hiện tại Giấy chuyển nhượng đất ở ngày 21/11/2001.
Ngày 23/11/2001, bà N đã lập hồ chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối
với diện tích đất trên cho ông T2, bà Y gồm: Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng
10
đất Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được giữa các bên được
UBND phường Hòa Hải ký xác nhận ngày 04/12/2001 (có sơ đồ vị trí khu đất kèm
theo).
Ngày 30/12/2001, ông T đã giao đsố tiền 15.000.000 đồng như đã thỏa thuận
cho bà N theo Giấy giao tiền lập ngày 30/12/2001.
Năm 2003, vợ chồng ông T bà T1 tiến hành xây dựng nhà ở trên diện tích
đất đã nhận chuyển nhượng thì N cản trở việc xây dựng, với do chỉ bán đất
vườn bên mua phải nộp tiền chuyển đổi mục đích sử dụng đất khi tách thửa.
vậy, ngày 14/9/2003 các bên ký kết Giấy cam kết cùng thỏa thuận, theo đó bà Nghĩa
bán cho vợ chồng Y 100m² đất (5m x 20m). “Sau này tách quyền sử dụng đất.
Bên mua chịu hoàn toàn thuế nhà nước trong phạm vi 100m². Hai bên thỏa thuận ký
tên để cho bên mua làm nhà . Đến tháng 11/2003, vợ chồng ông T T1 đã xây
dựng ngôi nhà cấp 4 năm 2006 xây dựng lại, có kết cấu như hiện nay gồm: Nhà
02 tầng, móng + trụ + sàn đúc tông cốt thép, tường xây gạch, mái tôn, nền gạch
men + gạch hoa, diện tích xây dựng 90,7m
2
, diện tích sử dụng 187,4m
2
ổn định
cho đến nay. Đồng thời vợ chồng ông T T1 đã thực hiện nghĩa vụ đóng thuế sử
dụng đất từ năm 2001 cho đến năm 2024 dưới tên bà Phạm Thị Bạch Y.
Ngày 31/5/2011, gia đình ông T tiếp tục chuyển cho bà N số tiền 50.000.000
đồng để nộp tiền thuế đất nhằm chuyển đất vườn thừa sang mục đích đất ở với diện
tích 100m² theo Giấy nhận tiền lập ngày 31/5/2011.
Tuy nhiên, N được UBND thành phố Đà Nẵng cấp đổi Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hu đất ở số 3405020217 ngày 16/01/2003 thửa
đất số 11, tờ bản đồ số 25 nhưng đã không làm thủ tục tách thửa, không cắt diện tích
đất đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông T, bà T1 và cũng không thông báo cho vợ
chồng ông T2, bà Y biết.
[2.2] Hội đồng xét xử xét thấy: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 23/11/2001 giữa bên chuyển nhượng bà Hồ Thị N bên nhận chuyển nhượng
ông Huỳnh T2, bà Phạm Thị Bạch Y được ký kết trên cơ sở tự nguyện, có xác nhận
của UBND phường Hòa Hải ngày 04/12/2001. Nên Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất trên đã tuân thủ quy định về nội dung hình thức nên được pháp luật
công nhận bảo vtheo quy định tại các Điều 400, 691, 705, 707 Bộ luật dân sự
năm 1995 và các Điều 73, 75 Luật đất đai năm 1993.
Quá trình giải quyết vụ án, vợ chồng ông T, bà T1 trình bày có nhờ vợ chồng
Y, ông T2 đứng tên dùm để mua đất của Ng. Mặc ông T2, Y người
nhận chuyển nhượng, nhưng thực tế việc giao kết các thoả thuận, thực hiện hợp
đồng, giao tiền cho bà N, quản lý và sử dụng đất đều do vợ chồng ông T, bà T1 thực
hiện. Như vậy đây một giao dịch dân sự miệng được thoả thuận giữa vợ chồng
ông T, bà T1 và vợ chồng bà Y, trên cơ sở tự nguyện, mục đích và nội dung không
vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức hội, được các bên thừa nhận nên
11
được Hội đồng xét xử ng nhận hiệu lực phù hợp với các Điều 131, 133 B
luật dân sự năm 1995.
Do vậy, Hội đồng xét xử đủ sở để xác định Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 23/11/2001 được UBND phường Hòa Hải ký xác nhận ngày
04/12/2001 giữa bà Hồ Thị N ông Huỳnh T2, bà Phạm Thị Bạch Y liên quan đến
diện tích 100m² đất vườn toạ lạc tại t4, Sơn Thủy II (nay là số 01 đường S 11, t
5), phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng hiệu lực; Giao dịch
thoả thuận nhờ đứng tên giữa vợ chồng ông Phạm Anh T, Phùng Thị T1 với vợ
chồng ông Huỳnh T2, bà Phạm Thị Bạch Y có hiệu lực.
Tại thời điểm chuyển nhượng, các bên thoả thuận vviệc chuyển nhượng
100m² đất vườn, qtrình xây dựng nhà ở trên đấto ngày 31/5/2011 vợ chồng
ông T, T2 tiếp tục giao cho N số tiền 50.000.000 đồng để nộp tiền thuế đất
nhằm chuyển đất vườn sang mục đích đất theo diện tích 100m² đã chuyển nhượng.
Ngày 16/5/2011, N đã được UBND quận Ngũ Hành Sơn Quyết định số
1341/QĐ-UBND v/v cho phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất trồng cây lâu
năm sang mục đích đất với diện tích 141,3m², số tiền N phải nộp theo Thông
báo nộp tiền sử dụng đất của Chi cục thuế quận Ngũ Hành Sơn ngày 24/5/2011
48.910.995 đồng tiền lphí trước bạ nhà, đất 489.110 đồng. Như vậy vchồng
ông T, T1 đã thực hiện việc chuyển mục đích sử dụng đất từ đất trồng cây lâu
năm sang đất nên đủ sđ công nhận cho vợ chồng ông T, bà T1 được quyền
sử dụng 100m² đất ở là phù hợp. Hiện thửa đất trên có tứ cận: Phía đông giáp đất bà
N1; phía tây giáp đất trống (số 03 đường S 11); phía nam giáp nhà và đất bà N; phía
bắc giáp đường S 11.
Theo kết quả đo đạc ngày 20/5/2024 của Văn phòng đăng đất đai thành
phố Đà Nẵng thì diện tích đất tranh chấp theo ông T xác định 96,7m²; diện tích
đất theo hiện trạng có hàng rào xây là 106m². Do đó, quyết định của Toà án cấp
thẩm công nhận cho ông Phạm Anh T, Phùng Thị T1 được quyền sử dụng đất
diện tích 96,7m² là một phần thuộc thửa đất số 11 (số 6 mới), tờ bản đồ số 25 (số 33
mới) tại địa chỉ số 01, đường S 11, phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố
Đà Nẵng Giấy chứng nhận quyền sở hữu n quyền sử dụng đất số
3405020217 đứng tên Hồ Thị N do UBND thành phố Đà Nẵng cấp ngày
16/01/2003. Ông Phạm Anh T, Phùng Thị T1 được quyền liên hệ với quan nhà
nước thẩm quyền để được làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà,
quyền sdụng sử dụng đất đối với nhà đất nói trên thực hiện các nghĩa vụ tài
chính của người sdụng đất theo đúng quy định (nếu có)căn cứ, đúng quy
định của pháp luật. Tuy nhiên tại phần quyết định của bản án thẩm không buộc
Hồ Thị N phải nộp lại Giấy chứng nhận quyền shữu nhà quyền sử dụng
đất ở trên cho cơ quan có thẩm quyền để thực hiện việc điều chỉnh biến động thủ
tục cấp đổi nên Hội đồng xét xử điều chỉnh nội dung này để bảo đảm cho việc thi
hành án.
12
[2.3] N cho rằng giữa bà vợ chồng ông T, T1 không phát sinh việc
mua bán, chỉ thực hiện theo yêu cầu của vợ chồng ông T2, bà Y không phù hợp
như phân tích trên. Theo sơ đồ thửa đất, thì hiện tích đất tranh chấp theo hiện trạng
có hàng rào xây 106m
2
, dư 0,6cm, đây là sai số cho phép trong đo đạc đất đai. Đồng
thời việc dư diện tích đất 0,6cm là về hướng bắc (nơi tiếp giáp đất của bà Đặng Thị
Niên) nên phần diện tích đất theo hiện trạng thuộc phần đất của Niên chứ
không phải đất của bà N. Hơn nữa ông T, bà T1 chỉ được công nhận quyền sử dụng
đối với diện tích đất 96,7m
2
, ít hơn so với hợp đồng chuyển nhượng 0,3cm nên
việc bà N cho rằng ngoài diện tích đất nhận chuyển nhượng, vchồng ông T, bà T1
còn lấn chiếm đất của không sở. Giữa với vợ chồng ông T, bà T1
không phát sinh việc mua bán, chỉ mua bán với vợ chồng ông T2, Y2. Tuy
nhiên, như đã nêu trên ông T2, bà Y2 các con của bà Y2 đều xác nhận việc giao
kết các thoả thuận, thực hiện hợp đồng, giao tiền, quản lý và sử dụng đất đều do vợ
chồng ông T2, bà T1 thực hiện.
[2.4] Từ những phân tích trên, quyết định của Bản án sơ thẩm là có căn cứ, bà
Hồ Thị N kháng cáo đề nghị hủy Bản án thẩm do làm ảnh hưởng đến quyền lợi
của nhưng không cung cấp được chứng cứ mới, chứng minh cho yêu cầu kháng
cáo của mình căn cứ nên không sở chấp nhận. Căn c khoản 1 Điu 308
Blut Ttụng dân sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Hồ Thị N,
giữ nguyên Bản án dân sự số 64/2024/DS - ST ngày 15/10/2024 của Tán nhân
dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng theo như đề nghị của đại diện Viện
kiểm sát tại phiên tòa.
[3] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ 5.000.000 đồng;
chi phí đo đạc 2.750.210 đồng và chi phí định giá tài sản 17.000.000 đồng. Tổng
cộng 24.750.210 đồng, bà Hồ Thị N phải chịu theo quy định tại các Điều 157, 158,
161, 162, 165, 166 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do ông Phạm Anh T đã nộp đã chi trả
nên buộc bà N có trách nhiệm trả lại cho ông T.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩmán phí dân sự phúc thẩm: Bà Hồ Thị N được
miễn nộp do thuộc trường hợp người cao tuổi, người công với cách mạng theo
quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Ông Phạm Anh T Phùng Thị T1 không phải chịu án phí dân sự thẩm
nên được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo Biên lại thu
số 0001438 ngày 10/11/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng.
Vì các lẽ trên,
13
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: khoản 1 Điều 308; các Điều 147, 148, 157, 161, 165, 296 Bộ luật
Tố tụng dân sự; các Điều 131, 133, 400, 691, 705, 707, 708 Bộ luật dân sự năm
1995; Luật đất đai năm 1993; Luật đất đai năm 2003 sửa đổi bổ sung năm 2009;
Luật đất đai năm 2013; Luật đất đai năm 2024; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bà Hồ Thị N;
Giữ nguyên Bản án dân sự số 64/2024/DS-ST ngày 15/10/2024 của Tòa án
nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất; Yêu cầu công nhận quyền sdụng đất” của ông Phạm Anh T,
Phùng Thị T1 đối với bà Hồ Thị N.
1.1. Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/11/2001
giữa Hồ Thị N với Phạm Thị Bạch Y, ông Huỳnh T2 được UBND phường
Hoà Hải chứng thực ngày 04/12/2001 có hiệu lực pháp luật.
1.2. Công nhận giao dịch thoả thuận miệng giữa vợ chồng ông Phạm Anh T,
Phùng Thị T1 với vợ chồng ông Huỳnh T2, Phạm Thị Bạch Y về việc nhờ
đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hiệu lực.
1.3. Công nhận cho ông Phạm Anh T, Phùng Thị T1 được quyền sử dụng
đất diện tích đất 96,7m² một phần thuộc thửa đất số 11 (số 6 mới), tờ bản đồ s25
(số 33 mới) tại địa chỉ số 01, đường S 11, phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng có Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở quyền sử dụng đất
số 3405020217 ngày 16/01/2003 do UBND thành phố Đà Nẵng cấp đứng tên
Hồ Thị N.
Có tứ cận: Đông giáp đất bà N; Tây giáp đất trống (số 03 đường S 11); Nam
giáp nhà và đất bà N; Bắc giáp đường S 11.
(đồ đo đạc hiện trạng thửa đất của Văn phòng đăng đất đai thành
phố Đà Nẵng kèm theo).
2. Buộc Hồ Thị N phải nộp lại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
quyền sử dụng đất trên cho quan thẩm quyền để thực hiện việc điều chỉnh
biến động thủ tục cấp đổi. Trường hợp bà N không nộp thì ông Phạm Anh T, bà
Phùng Thị T1 được quyền liên hệ với quan Nnước thẩm quyền đđược làm
thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất đối với nhà đất
trên thực hiện các nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất theo đúng quy định
(nếu có).
14
3. Án phí dân sự thẩm và án phí dân sự phúc thẩm: Bà Hồ Thị N được miễn
nộp do thuộc trường hợp người cao tuổi, người có công với cách mạng.
- Hoàn trả cho ông Phạm Anh T, Phùng Thị T1 số tiền tạm ứng án phí
300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tại Biên lại thu s 0001438 ngày
10/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân squận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà
Nẵng.
4. Chi phí tố tụng gồm: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: 5.000.000 đồng,
chi phí đo đạc: 2.750.210 đồng chi phí định giá tài sản: 17.000.000 đồng. Tổng
cộng 24.750.210 đồng (Hai mươi bốn triệu, bảy trăm năm mươi nghìn, hai trăm
mười nghìn đồng), Hồ Thị N trách nhiệm trả lại cho ông Phạm Anh T,
Phùng Thị T1.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 luật thi hành án dân sự.
Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo định tại Điều 30 luật thi hành án
dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND TP Đà Nẵng;
- TAND quận Ngũ Hành Sơn;
- Chi cục THADS quận Ngũ Hành Sơn;
- Cục THADS TP Đà Nẵng;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Tổ nghiệp vụ;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Hoài Sơn
15
Tải về
Bản án số 67/2025/DS-PT Bản án số 67/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 67/2025/DS-PT Bản án số 67/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất