Bản án số 463/2024/DS-PT ngày 18/11/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 463/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 463/2024/DS-PT ngày 18/11/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Số hiệu: 463/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 18/11/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bn án s: 463/2024/DS-PT
Ngày 18-11-2024
V/v Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Tấn Quốc
Các Thẩm phán Ông Nguyễn Văn Thu
Bà Lê Thị Bích Tuyền
- Thư phiên tòa: Ông Khổng Văn Đa Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Long An.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa:
Đặng Thị Cẩm Chi - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 12 18 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân
tỉnh Long An tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số
431/2024/TLPT-DS ngày 02 tháng 10 năm 2024 về việc “tranh chấp hợp đồng
đặt cọc”.
Do Bản án dân sự thẩm số 95/2024/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Đức Hòa bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm số 407/2024/QĐ-PT ngày
11 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1987.
2. Bà Võ Thị Ngọc R, sinh năm 1986.
Người đại diện theo ủy quyền của ông K: Thị Ngọc R, sinh năm
1986.
Cùng địa ch cư trú: Ấp A, xã A, huyện Đ, tỉnh Long An.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông K, R: Ông Trần TT
là luật sư của Văn phòng Luật sư Trần Minh T1 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh T.
- Bị đơn: Nguyễn Thị X, sinh năm 1969. Địa chỉ trú: Ấp B, Đ,
huyện Đ, tỉnh Long An.
2
Người đại diện theo ủy quyền của bà X: Ông Đặng Anh K1, sinh năm 1974.
Địa chỉ cư trú: Số B, đường số F, KDC L, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đặng Anh K1, sinh năm
1974. Địa chỉ trú: Số B số F, KDC L, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Người đại diện theo y quyền của ông K1: Ông Lê Thanh M, sinh năm
1976. Địa chỉ cư trú: Số C, Quốc lộ F, Phường F, thành phố T, tỉnh Long An.
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị X là bị đơn.
- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện
Đức Hòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện; trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án tại phiên
tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Văn KVõ Thị Ngọc R trình bày:
Ông Nguyễn Văn K người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số BQ 226462 đối với thửa
đất số 324, tờ bản đồ s29, loại đất HNK, tọa lạc tại ấp A, A, huyện Đ, tỉnh
Long An.
Vào ngày 30/6/2022, ông K hợp đồng đặt cọc với Nguyễn
Thị X về việc chuyển nhượng một phần thửa đất s324, tờ bản đồ s29, diện
tích ngang 17m dài đến hết đất (diện tích khoảng 1.048m
2
), loại đất HNK, tọa
lạc tại ấp A, xã A, huyện Đ, tỉnh Long An. Giá chuyển nhượng là 1.350.000.000
đồng, đã nhận tiền cọc 300.000.000 đồng. Thời hạn đặt cọc 60 ngày, kể từ
ngày 30/6/2022 cho đến ngày 30/8/2022, trong thời gian này hai bên sẽ tiến
hành thủ tục chuyển nhượng, sau khi hoàn thành thủ tục thì X sẽ thanh toán
đủ stiền còn lại cho ông bà. Nếu hồ pháp chưa hoàn thiện thợp đồng
đặt cọc sẽ tự gia hạn cho đến khi hồ sơ pháp lý hoàn thiện mới ra công chứng và
giao số tiền còn lại. Sau đó, ông thực hiện thủ tục đo vẽ, tách thửa nhưng
không thực hiện được, hai bên trao đổi qua điện thoại về việc chưa được
quan chức năng cho phép tách thửa. Đến ngày 14/12/2022, hai bên gặp nhau
tiếp tục thỏa thuận bà X mượn lại bản chính Giấy chứng nhận Quyền sử dụng
đất của ông đlàm thủ tục tách thửa, thời hạn 90 ngày, nếu hết thời hạn
này vẫn chưa thực hiện xong thì hai bên sẽ tiếp tục gia hạn thêm. Đến khoảng
tháng 6/2023, khi liên hệ quan chức năng biết được đã cho tách thửa phần
đất trên thì bà liên hệ bà X để tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nhưng
bà X không đồng ý vì cho rằng đã quá lâu, giá đất đã thay đổi nên không đồng ý
mua nữa.
Do đó, ông bà khởi kiện yêu cầu:
- Hủy hợp đồng đặt cọc ngày 30/6/2022, công nhận cho ông được nhận
3
số tiền cọc 300.000.000 đồng. Trường hợp bà X đồng ý tiếp tục thực hiện hợp
đồng thì ông đồng ý, số tiền đặt cọc trên sẽ trừ vào tiền chuyển nhượng
hai bên đã thỏa thuận.
Tại phiên tòa, R giữ nguyên ý kiến đã trình bày, đồng ý hủy hợp đồng
đặt cọc ngày 30/6/2022 giữa bà và ông K với bà X, đề nghị Tòa án giải quyết bà
X phải bị mất tiền đặt cọc, vì lỗi dẫn đến việc hủy hợp đồng là của bà X. Nếu bà
X đồng ý tiếp tục chuyển nhượng vẫn đồng ý chuyển nhượng phần đất trên
cho bà X.
Đối với số tiền 5.000.000 đồng mà phía bà X đã bỏ ra để cập nhật đường đi
vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng của bà, đồng ý trả lại cho X. Ngoài
ra, bà không đồng ý toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bị đơn Nguyễn Thị X trình
bày:
thừa nhận bà người nhận chuyển nhượng thửa đất trên giùm cho ông
K1, mặc số tiền nhận chuyển nhượng đất của ông K1 nhưng người
đứng tên trên hợp đồng đặt cọc với bà R và ông K vào ngày 30/6/2022. Bà đồng
ý trường hợp R trả lại số tiền trên thì và ông K1 sẽ tự thỏa thuận giải
quyết. Theo đó, có hợp đồng đặt cọc nhận chuyển nhượng một phần đất
thuộc thửa đất số 324, tờ bản đồ số 29, diện tích ngang 17m dài đến hết đất (diện
tích 1.048m
2
), loại đất HNK, tọa lạc tại ấp A, A, huyện Đ, tỉnh Long An do
ông K đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giá chuyển nhượng là
1.350.000.000 đồng, đã giao cho bà R ông K số tiền cọc 300.000.000
đồng, sau khi ký hợp đồng đặt cọc hai bên thỏa thuận bà R người đi thực hiện
thủ tục tách thửa, sau khi tách thửa sẽ ra công chứng. Theo hợp đồng đặt cọc
ngày 30/6/2022, hai bên thỏa thuận hợp đồng sẽ gia hạn cho đến khi hồ pháp
hoàn thiện sra công chứng, nhưng qua 06 tháng R không thực hiện được
việc tách thửa nên bà có hẹn bà R để hủy hợp đồng, chứng cứ là đoạn ghi âm
nộp cho Tòa án. R thừa nhận phần đất này không tách thửa được, R đồng
ý trả lại tiền cọc bồi thường 50.000.000 đồng. Sau đó, đến ngày 14/12/2022,
ông K1, R ông K thỏa thuận bên sẽ nhận lại bản chính giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của ông K để thực hiện thủ tục cập nhật đường đi
vào sổ tách thửa để chuyển nhượng nhưng vẫn không thực hiện được.
ông K1 liên hệ bà R nhưng không được. Đến nay đã quá lâu nên không
đồng ý tiếp tục nhận chuyển nhượng phần đất trên, đồng ý hủy hợp đồng đặt
cọc ngày 30/6/2022, đồng thời yêu cầu phản tbuộc R và ông K phải
trả lại 300.000.000 đồng tiền cọc và 8.500.000 đồng (trong đó 5.000.000 đồng là
tiền đã bỏ ra đcập nhật đường đi 3.500.000 đồng tiền bỏ ra để cắm
trụ).
Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản chính ông K1 đã nộp cho
Tòa án, đề nghị Tòa án xử theo quy định. Đối với số tiền đặt cọc ông
K1 không có tranh chấp trong vụ án này.
4
Tại phiên tòa, X đồng ý t lại phần yêu cầu phản tvviệc đòi lại số
tiền đã cắm trụ 3.500.000 đồng. đồng ý việc R tự nguyện trả lại cho
số tiền 5.000.000 đồng bà đã bỏ ra để cập nhật đường đi. đồng ý hủy hợp
đồng đặt cọc ngày 30/6/2022, giữa với ông K R, yêu cầu Tòa án buộc
bà R và ông K phải trả lại cho bà số tiền 300.000.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đặng Anh K1 trình bày:
Ông người b ra số tiền 300.000.000 đồng để đặt cọc về việc nhận
chuyển nhượng phần đất của R, ông K do X đứng n trên hợp đồng đặt
cọc. Đối với số tiền này ông không tranh chấp với X, ông X sẽ tự
thỏa thuận với nhau.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn, ông thống nhất ý
kiến của bà X. Vì sau khi ký hợp đồng đặt cọc, bên bà R người nhận hồ sơ để
thực hiện thủ tục tách thửa, sau đó R cho rằng không làm được nên cũng
đồng ý trả lại số tiền cọc chịu phạt cọc 50.000.000 đồng, chứng cứ đoạn
ghi âm do X ghi lại. Sau đó, vào ngày 14/12/2022, ông, bà X cùng với ông K
và bà R có thỏa thuận bên ông sẽ mượn lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất để đi cập nhật đường đi tách thửa để chuyển nhượng nhưng cũng
không thực hiện được do nhà nước chủ trương không cho tách thửa. Ông
X có liên hệ R để hủy hợp đồng nhưng không gặp được bà R. Sau này khi
nhà nước cho tách thửa thì đã quá lâu, ông không còn nhu cầu mua phần đất đó
vì giá cả đã thay đổi, giá đất thấp hơn lúc đặt cọc rất nhiều.
Tại thời điểm sau 90 ngày kể từ ngày 14/12/2022, ông nhận giấy đất để đi
làm thủ tục nhưng không thực hiện được, ông X liên hệ R nhưng
không được, ông còn giữ bản chính giấy đất của ông K, R nên ông không
đi khởi kiện, ông nghĩ khi nào R, ông K bán được đất sẽ trả tiền cho ông.
Trong vụ án này, ông xác định không yêu cầu, ông thống nhất ý kiến X,
buộc bà R, ông K phải trả lại cho bà X số tiền 300.000.000 đồng.
Tại bản án dân sự thẩm số: 95/2024/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Đức Hòa đã tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn K, bà Võ Thị
Ngọc R về việc “tranh chấp hợp đồng đặt cọc” với bà Nguyễn Thị X.
Tuyên bố:
1.1. Hủy hợp đồng đặt cọc ngày 30/6/2022 giữa ông Nguyễn Văn K
Võ Thị Ngọc R với bà Nguyễn Thị X đối với phần đất thuộc một phần thửa 324,
tờ bản đồ số 29, chiều ngang 17m, dài hết đất, loại đất HNK, tọa lạc tại p A, xã
A, huyện Đ, tỉnh Long An.
1.2. Ông Nguyễn Văn K bà Thị Ngọc R được sở hữu đối với số tiền
đặt cọc đã nhận là 300.000.000 đồng.
5
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Nguyễn Thị X đối với ông
Nguyễn Văn K Thị Ngọc R về việc đòi lại tiền đặt cọc 300.000.000
đồng.
2.1. Ghi nhận sự thỏa thuận của đương sự: Thị Ngọc R nghĩa vụ
trả cho bà Nguyễn Thị X số tiền 5.000.000 đồng.
Khi án hiệu lực pháp luật, kể tngày đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên
nghĩa vchậm thi hành sẽ phải chịu thêm khoản tiền lãi tính trên số tiền chậm
trả theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với
thời gian chưa thi hành án, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác.
2.2. Đình chỉ yêu cầu phản tố của Nguyễn Thị X về việc đòi lại số tiền
trồng trụ là 3.500.000 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí; quyền kháng cáo; quyền
yêu cầu, nghĩa vụ và thời hiệu thi hành án.
Ngày 30/5/2024, Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa nhận được đơn kháng
của Nguyễn Thị X kháng cáo toàn bộ Bản án thẩm, yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu
cầu phản tố của bị đơn.
Ngày 12/6/2024, Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa nhận được Q đinh kháng
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa kháng nghị một
phần bản án thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm chấp
nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc nguyên đơn trả lại tiền đặt cọc;
đồng thời không buộc bị đơn phải chịu tiền án phí đối với yêu cầu phản tố đòi
lại số tiền trồng trụ xi măng 3.500.000 đồng mà bị đơn đã rút.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo. Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa vẫn giữ nguyên quyết định
kháng nghị. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án.
Ông Đặng Anh K1 người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Nguyễn
Thị X ông Thanh M người đại diện theo ủy quyền của người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đặng Anh K1 cùng trình bày: Khi thoả thuận đặt cọc
thì ông K, bà R là người làm thủ tục tách thửa trong thời hạn 60 ngày để tiến tới
chuyển nhượng nhưng ông K, R không làm được vi phạm hợp đồng, lỗi
của ông K, R nên ông K, R mới đồng ý trả tiền cọc đồng ý trả thêm
50.000.000 đồng như đoạn ghi âm. Do lúc này X cũng muốn nhận chuyển
nhượng nên ngày 14/12/2022 X mới hỏi ông K, R mượn giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đlàm thủ tục tách thửa trong thời hạn 90 ngày, nếu không
được thì hai bên gia hạn thêm. Hết thời hạn này thì hai bên không gia hạn
6
thêm và bà X cũng không muốn nhận chuyển nhượng nữa. Đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận kháng cáo của bà X.
ThNgọc R người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn trình bày: Hợp đồng đặt cọc ngày 30/6/2022 đảm bảo theo quy định của
pháp luật, hai bên có thoả thuận trường hợp làm thủ tục chưa xong thì hợp đồng
tự gia hạn và đến nay hai bên không có thoả thuận huỷ hợp đồng. Bà R xác định
biết thông tin X cũng không làm thủ tục tách thửa được trong thời hạn 90
ngày. Khi đđiều kiện tách thửa thì bị đơn không đồng ý tiếp tục nên lỗi là
của bị đơn. Đoạn ghi âm không thể hiện ý chí của R huỷ bỏ hợp đồng do bà
R không tự quyết được còn phải ý kiến của ông K, X cũng đe dọa
R, người thứ ba xen ngang trong đoạn ghi âm. Đề nghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận kháng cáo của bà X.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến:
Về tính hợp lệ của kháng cáo: Đơn kháng cáo quyết định kháng nghị
phúc thẩm nằm trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về chấp hành pháp luật: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa đã tuân thủ
đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng
đã chấp hành đúng pháp luật.
Về giải quyết yêu cầu kháng cáo, kháng nghị: Hợp đồng đặt cọc ngày
30/6/2022 thoả thuận nếu chưa thực hiện xong thì hai bên gia hạn thêm. Khi
đã gia hạn quá 90 ngày nhưng thủ tục vẫn chưa xong thì hai bên không thoả
thuận gia hạn tiếp nên lỗi của hai bên. Mặc nguyên đơn đồng ý tiếp tục
hợp đồng nhưng bđơn không đồng ý. Bản án thẩm chấp nhận yêu cầu khởi
kiện, cho nguyên đơn được sở hữu tiền đặt cọc là không có căn cứ mà phải hoàn
trả cọc cho bị đơn. Về án phí sơ thẩm, bị đơn rút một phần phản tố về đòi số tiền
3.500.000 đồng nhưng án thẩm tuyên bị đơn phải chịu 300.000 đồng do t
yêu cầu khởi kiện cũng không đúng theo quy định tại Điều 218 Bộ luật Tố tụng
dân sự và Điều 18 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của
X kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hoà,
căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa một phần bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, những người được Tòa án triệu tập có mặt Tòa
án tiến hành xét xử theo trình tự phúc thẩm là phù hợp quy định tại Điều 296 Bộ
luật Tố tụng dân sự.
[2] Tòa án cấp thẩm xác định thẩm quyền Tòa án giải quyết, quan hệ
pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng t xử theo trình tự sơ thẩm
7
phù hợp với quy định tại Điều 26, 35, 39, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, bản
án sơ thẩm đảm bảo thủ tục tố tụng.
Về việc giải quyết yêu cầu kháng cáo, kháng nghị:
[3] Xét kháng cáo của bị đơn Nguyễn Thị X kháng nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[4] Tại Điều 2 Hợp đồng đặt cọc ngày 30/6/2022, ông K, R với X
thỏa thuận:
“Thời hạn đặt cọc là 60 ngày, kể từ ngày 30/6/2022 đến ngày 30/8/2022.
Trong thời gian này, hai bên tiến hành lập thủ tục chuyển nhượng quyền sử
dụng đất. Sau khi hoàn thành thủ tục chuyển nhượng, thì bên A sẽ thanh toán đủ
số tiền còn lại cho bên B theo hợp đồng chuyển nhượng. Nếu hồ sơ giấy tờ nhà
đất chưa hoàn thiện thì hợp đồng này sẽ tự gia hạn lại cho đến khi hồ sơ pháp lý
hoàn thiện mới ra công chứng.”
[5] Các bên đều thống nhất trình bày sau khi đặt cọc xong 300.000.000
đồng thì phía ông K, R nghĩa vụ làm thủ tục để tách thửa đất xong rồi các
bên mới ra công chứng hợp đồng chuyển nhượng, nếu hồ pháp chưa hoàn
thiện thì hợp đồng đặt cọc sẽ tự gia hạn. Hết thời hạn đặt cọc trên, phía ông K,
R chưa hoàn thành thủ tục nên hai bên trao đổi qua điện thoại, X cung
cấp đoạn ghi âm nội dung bà R đồng ý hủy cọc trả thêm số tiền
50.000.000 đồng cho bà X, việc này R thừa nhận.
[6] Đến ngày 14/12/2022, hai bên thỏa thuận tiếp X mượn lại
cuốn sổ đất để làm giấy tờ tách thửa - thời hạn 90 ngày - nếu trong thời gian
đến hạn không làm kịp thì hai bên thỏa thuận lại gia hạn thêm”, đây được xem
thoả thuận bổ sung của hợp đồng đặt cọc do đó hai bên phải thực hiện những
thỏa thuận bổ sung này thay cho những thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc về
cùng một nội dung.
[7] Xét theo hợp đồng đặt cọc thì hợp đồng sẽ tự gia hạn lại cho đến khi hồ
pháp hoàn thiện mới ra công chứng, còn theo thỏa thuận bổ sung thì nếu
trong thời hạn không làm kịp việc tách thửa thì hai bên thỏa thuận lại để gia
hạn thêm. Như vậy, theo hợp đồng thì hai bên không cần phải thỏa thuận lại
hợp đồng tự động gia hạn, còn theo thỏa thuận bổ sung thì hợp đồng không
đương nhiên tự gia hạn mà hai bên phải thỏa thuận lại. Tuy nhiên, trong thời hạn
90 ngày (tức đến ngày 13/3/2023) X không thực hiện được việc tách thửa
các bên cũng không thỏa thuận gia hạn thêm, trong khi tại phiên tòa phúc
thẩm nguyên đơn ng xác nhận biết bị đơn không thực hiện được việc tách
thửa trong thời hạn. Lẽ ra, theo thỏa thuận bổ sung thì trường hợp này các n
phải nghĩa vụ liên hệ với nhau để thỏa thuận về việc gia hạn thêm như thế
nào nhưng các bên không liên hệ, do đó xác định cả hai bên cùng có lỗi làm cho
hợp đồng chuyển nhượng công chứng không giao kết được n nhau nên
không phạt cọc theo quy định tại điểm d mục 1 phần I của Nghị quyết số
01/2003 ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Hơn
8
nữa, ông K, bà R cũng nhiều lần thể hiện ý chí muốn hủy hợp đồng đặt cọc như
đoạn ghi âm thể hiện R đồng ý hủy cọc trả thêm số tiền 50.000.000 đồng
cho X, đến khi khởi kiện thì ông K, R vẫn yêu cầu hủy bỏ hợp đồng đặt
cọc.
[8] Các bên xác nhận đến khoảng tháng 6/2023 phần đất trên được cho
phép tách thửa, ông K, R đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc để giao
kết hợp đồng chuyển nhượng có công chứng nhưng bà X không đồng ý tiếp tục.
Tuy nhiên với những do nêu trên, việc bị đơn từ chối giao kết hợp đồng
chuyển nhượng công chứng không thuộc trường hợp bị phạt cọc theo quy
định tại Điều 328 Bộ luật Dân sự.
[9] Ngoài ra, việc ông K, R yêu cầu hủy bỏ hợp đồng đặt cọc nhưng lại
yêu cầu sở hữu tiền đặt cọc là không phù hợp với quy định tại Điều 427 Bộ luật
Dân sự. Tuy nhiên yêu cầu hủy bỏ hợp đồng đặt cọc phù hợp với yêu cầu
phản tố của bị đơn, các bên không kháng cáo về phần này nên hiệu lực pp
luật.
[10] X rút yêu cầu phản tố về việc đòi lại số tiền trồng trụ xi măng
3.500.000 đồng nhưng bản án sơ thẩm tuyên buộc X nghĩa vụ chịu
300.000 đồng tiền án phí về việc rút một phần yêu cầu phản tố không đúng
phải tuyên hoàn trả tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu đã rút của bà X theo
quy định tại các Điều 218, 244 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 18 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ngoài
ra, nguyên đơn là ông K, bà R nhưng án sơ thẩm chỉ tuyên mỗi bà R chịu tiền án
phí mà không tuyên ông K chịu cũng không phù hợp nên cấp phúc thẩm cần sửa
lại cho đúng.
[11] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà
X và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, sửa
một phần bản án thẩm như ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhận
dân tỉnh Long An.
[12] Về án phí: X phải chịu 300.000 đồng án pdân sự thẩm không
giá ngạch về hủy bỏ hợp đồng đặt cọc và không phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm; ông K, R phải chịu 15.000.000 đồng án phí dân sự thẩm giá
ngạch về việc trả lại tiền đặt cọc 300.000 đồng án phí dân sự thẩm g
ngạch về việc trả lại cho X số tiền 5.000.000 đồng.
[13] Các khoản khác của bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị X.
9
Chấp nhận yêu cầu kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
huyện Đức Hòa.
Sửa một phần Bản án thẩm số: 95/2024/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm
2024 của Toà án nhân dân huyện Đức Hòa.
Căn cứ các Điều 5, 26, 35, 39, 147, 148, 217, 244 483 của Bộ luật Tố
tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 117, 328, 423, 427 của Bộ luật Dân sự; điểm d mục 1
phần I của Nghị quyết số 01/2003 ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao; các Điều 18, 26, 27, 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án plệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn n K,
Thị Ngọc R về việc “tranh chấp hợp đồng đặt cọc” với bà Nguyễn Thị X.
Hủy bỏ hợp đồng đặt cọc ngày 30/6/2022 giữa ông Nguyễn Văn K
Võ Thị Ngọc R với bà Nguyễn Thị X đối với phần đất thuộc một phần thửa 324,
tờ bản đồ số 29, chiều ngang 17m, chiều dài hết đất, loại đất HNK, tọa lạc tại ấp
A, xã A, huyện Đ, tỉnh Long An.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn K,
Thị Ngọc R về việc được sở hữu đối với số tiền đặt cọc đã nhận của
Nguyễn Thị X là 300.000.000 đồng.
3. Chấp nhận yêu cầu phản tố của Nguyễn Thị X đối với ông Nguyễn
Văn K và bà Võ Thị Ngọc R về việc đòi lại tiền đặt cọc 300.000.000 đồng.
Buộc ông Nguyễn Văn K và bà Võ Thị Ngọc R có nghĩa vụ hoàn trả cho bà
Nguyễn Thị X tiền đặt cọc 300.000.000 đồng.
4. Ghi nhận sự thỏa thuận của đương sự: Bà Võ Thị Ngọc R có nghĩa vụ trả
cho bà Nguyễn Thị X số tiền 5.000.000 đồng.
5. Khi án hiệu lực pháp luật, kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên
nghĩa vchậm thi hành sẽ phải chịu thêm khoản tiền lãi tính trên số tiền chậm
trả theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với
thời gian chưa thi hành án, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác.
6. Đình chỉ yêu cầu phản tố của Nguyễn Thị X về việc đòi lại số tiền
trồng trụ là 3.500.000 đồng.
7. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Buộc bà Nguyễn Thị X phải chịu 300.000 đồng. Khấu trừ số tiền tạm ứng
án phí 7.712.000 đồng X đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
10
0006618 ngày 18/3/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa; hoàn
trả cho bà Nguyễn Thị X 7.412.000 đồng.
- Buộc ông Nguyễn Văn K Thị Ngọc R phải chịu 15.300.000
đồng. Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí ông Nguyễn Văn K và bà Võ Thị Ngọc R
đã nộp tổng cộng 600.000 đồng tại các biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
0005399 0005398 cùng ngày 21/11/2023. Ông Nguyễn Văn K và Võ Thị
Ngọc R còn phải nộp tiếp 14.700.000 đồng.
8. Ván phí phúc thẩm: Nguyễn Thị X không phải chịu. Hoàn trả cho
Nguyễn Thị X 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp
theo Biên lai thu số 0004726 ngày 30/5/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Đức Hòa.
9. Trường hợp bản án, quyết định được thi nh theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a
9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
10. Bản án phúc thẩm có hiu lc thi hành k t ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Tp. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Đức Hòa;
- Chi cục THADS huyện Đức Hòa;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Tấn Quốc
Tải về
Bản án số 463/2024/DS-PT Bản án số 463/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 463/2024/DS-PT Bản án số 463/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất