Bản án số 409/2024/HC-PT ngày 28/10/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 409/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 409/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 409/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 409/2024/HC-PT ngày 28/10/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 409/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/10/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Căn cứ khoản 1 Điều 241, Điều 242 Luật Tố tụng hành chính; khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
ông Nguyễn Tấn Long
Các Thẩm phán:
ông Phạm Ngọc Thái
ông Trần Đức Kiên
- Thư ký phiên tòa: bà Đinh Thị Trang, Thư ký Tòa án cấp cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên toà:
ông Phạm Ngọc Ánh - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 10 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm tại trụ sở Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng kết nối điểm cầu thành phần tại trụ sở Toà án nhân dân
tỉnh Đăk Lăk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 193
/2024/TLPT-HC ngày 22 tháng 7 năm 2024 về “Khiếu kiện quyết định hành
chính trong lĩnh trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 69/2024/HC-ST ngày 10/5/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1979/2024/QĐ-PT ngày 14 tháng 10
năm 2024, giữa các đương sự:
1- Người khởi kiện: Hợp tác xã N1;
Người đại diện theo pháp luật: ông Y Kuôm Niê S – Giám đốc Hợp tác xã N1;
địa chỉ: buôn K, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Đình C, sinh năm: 1981; địa chỉ:
Số C đường N, khối F, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
2- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ: Số A L,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 409/2024/HC-PT
Ngày: 28 - 10 -2024
V/v: “Kiện quyết định hành chính trong
lĩnh vực quản lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê Đại T; chức vụ: Phó chủ tịch UBND
thành phố B – vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:
- Ông Trương Văn C1 – Giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố B;
có mặt.
- Ông Võ Quang H - Phó Giám đốc trung tâm phát triển quỹ đất thành phố B;
có đơn xin xét xử vắng mặt.
3 – Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
3. 1. Ban T1; địa chỉ: buôn K, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện: ông Y Bhưt K – Buôn trưởng buôn K3; địa chỉ: buôn K, phường
T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – có mặt.
3. 2. Công ty TNHH Đ2; địa chỉ: Số B đường H, phường T, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk.
Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Trọng Đ– Giám đốc Công ty; có
đơn xin xét xử vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Hợp tác xã N1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
[1] Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án như sau:
- Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng, đại diện của người khởi
kiện trình bày:
Hợp tác xã N1 (Sau đây viết tắt là HTX N1) được thành lập năm 1991. Trước
năm 1990, Hợp tác xã là đơn vị liên kết với Hợp tác xã Đ3 (nay là Công ty cổ
phần Đ4). Năm 1987, do có nhu cầu sử dụng đất để ổn định cuộc sống cho các
xã viên nên gia đình ông Y Muê Ê và ông Nguyễn Văn G – Là người đại diện
theo pháp luật của Hợp tác xã Đ3 cùng HTX N1 tiến hành lập giấy sang nhượng
đất. Do tại thời điểm sang nhượng năm 1987, điều kiện của HTX N1 còn khó
khăn nên Hợp tác xã Đoàn K1 đứng ra làm thủ tục chuyển nhượng với gia đình
ông Y Muê Ê.
Ngày 15/01/1987 vợ chồng ông Y M viết giấy nhượng đất với nội dung
“Nhượng lại 03 sào đất cho Hợp tác xã Đ3 để xây dựng khu tập thể với giá
công khai phá là 50.000 đồng”. Để hoàn thiện hồ sơ, đến ngày 23/6/1987 gia
đình ông Y Muê Ê, ông Nguyễn Văn G và ông Y K2 (đại diện HTX Kô Siêr)
cùng tiến hành lập giấy thoả thuận về việc chuyển nhượng đất. Đối với nguồn
3
kinh phí thanh toán cho gia đình ông Y Muê Ê thời điểm chuyển nhượng do
Hợp tác xã Đ3 chi trả và Hợp tác xã N1 ghi nợ vào quyết toán công nợ hàng
năm. Trong quá trình hoạt động, do khó khăn nên Hợp tác xã đã dùng một phần
từ chi phí sản xuất và huy động các xã viên góp tiền để thanh toán dứt điểm số
nợ cho HTX Đ3. Đồng thời, HTX Đ3 đã bàn giao diện tích đất này cho HTX
Kô Siêr quản lý từ năm 1987. Do chưa có điều kiện để xây dựng các công trình
và chưa bố trí được nơi ở cho các xã viên nên diện tích đất này HTX đã sử dụng
làm sân bóng phục vụ cho nhu cầu giải trí, thể thao của 02 Buôn và HTX N1
giao cho B tự quản Buôn Kô S1 mượn quản lý.
Để tạo kinh phí hoạt động và có nguồn thu hoạt động nên sau khi HTX N1 được
Ban tự quản Buôn Kô S1 báo cáo xin ý kiến về việc cho thuê mặt bằng nên
ngày 08/7/2013 HTX N1 và B tự quản Buôn đã lập hợp đồng thuê đất với ông
Nguyễn Trọng Đ1 thời hạn thuê 25 năm, giá thuê 50.000.000 đồng/năm. Tuy
nhiên, ngày 08/10/2013 Ủy ban nhân dân phường T ban hành Công văn số
42/CV-UBND về việc huỷ bỏ hợp đồng thuê đất vì HTX Kô Siêr và B1 không
có thẩm quyền cho thuê đất.
Đối với diện tích đất nêu trên, về nguồn gốc và quá trình xác minh của các cơ
quan có thẩm quyền đủ cơ sở khẳng định diện tích 2.186,1m
2
mà UBND thành
phố B thu hồi theo Quyết định số 8391/QĐ-UBND ngày 30/9/2022 là của HTX
Kô Siêr nhận chuyển nhượng năm 1987. Về chủ trương thu hồi đất của Nhà
nước để sử dụng vào mục đích công cộng thì HTX Kô Siêr hoàn toàn thống
nhất. Tuy nhiên, sau khi nhận được Quyết định về việc thu hồi đất số 8391/QĐ-
UBND ngày 30/9/2022 của U, HTX N1 đã tiến hành họp xã viên và không
đồng ý một số vấn đề sau:
- Thứ nhất: Nguồn gốc diện tích đất 2.186,1m
2
mà UBND thành phố B thu hồi
theo Quyết định số 8391 là của HTX Kô Siêr nhận chuyển nhượng năm 1987,
chủ sử dụng đất không phải là Ban tự quản Buôn Kô S1. Do đó, việc Uỷ ban
nhân dân thành phố xác định thửa đất số 58, tờ bản đồ số 81, diện tích 2.186,1m
2
– Chủ sử dụng đất Ban tự quản Buôn Kô S1 là hoàn toàn không đúng.
- Thứ hai: Diện tích 2.186,1m
2
mà UBND thành phố B thu hồi là của HTX N1
nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 66 Luật đất đai thì việc thu hồi đất
của tổ chức thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh Đ. Việc UBND thành phố B thu
hồi đất là không đúng thẩm quyền.
- Thứ ba: HTX N1 có đầy đủ các giấy tờ thể hiện nguồn gốc đất đó là các chứng
cứ thể hiện việc chuyển nhượng từ năm 1987.
Vì vậy, HTX N1 khởi kiện đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk giải quyết:
-Huỷ Quyết định về việc thu hồi đất số 8391/QĐ-UBND ngày 30/9/2022 của
U, tỉnh Đắk Lắk để xác định chủ thể bị thu hồi là HTX Kô Siêr.
4
-Hủy Quyết định số 8392/QĐ-UBND ngày 30/9/2022 của U, tỉnh Đắk Lắk về
việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và chi phí tổ chức thực hiện công
tác bồi thường, hỗ trợ; tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng công
trình: Trung tâm G1, phòng chống đuối nước cho trẻ em, học sinh tại phường
T, thành phố B lập phương án bồi thường, hỗ trợcho HTX N1.
- Người đại diện của Ủy ban nhân dân thành phố B và người bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp trình bày:
Về nguồn gốc đất: Do gia đình ông Y Muê Ê khai phá để sản xuất nông nghiệp
trước năm 1975. Đến năm 1987 ông Y Muê Ê chuyển nhượng lô đất trên cho
ông Nguyễn Văn G (tại thời điểm chuyển nhượng ông Nguyễn Văn G là người
đại diện mua đất vì khi đó Hợp tác xã Đoàn Kết đầu tư vốn sản xuất cho Hợp
tác xã N1). Sau khi nhận chuyển nhượng lô đất trên, ông Nguyễn Văn G đã bàn
giao lại cho Hợp tác xã N1. Việc bàn giao không có các giấy tờ gì. Hiện nay
ông Nguyễn Văn G không có liên quan gì đến lô đất nêu trên. Năm 2007 Hợp
tác xã nông nghiệp Buôn Kô S1 đã bàn giao lô đất trên cho Ban tự quản Buôn
Kô S1 quản lý sử dụng.
Đến ngày 08/7/2013, Ban tự quản Buôn Kô S1 và Hợp tác xã N1 ký Hợp đồng
cho ông Nguyễn Trọng Đ thuê đất thời hạn 25 năm. Ngày 08/10/2013 UBND
phường có công văn số 42/CV-UBND yêu cầu Ban tự quản buôn Kô Siêr hủy
bỏ hợp đồng thuê đất với ông Nguyễn Trọng Đ. Hiện nay lô đất trên do UBND
phường T đang quản lý.
Diện tích đất để thực hiện dự ánlà 2186,1m² đất nông nghiệp chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng. Ngày 30/9/2022,UBND thành phố B ban hành
Quyết định số 8391/QĐ-UBND về việc thu hồi 2186,1m² đất nông nghiệp do
UBND phường T đang quản lý (đơn vị đang sử dụng là Ban tự quản buôn Kô
Siêr), thuộc thửa đất số 58, tờ bản đồ số 81, tại phường T, thành phố B để thực
hiện dự án: Trung tâm G1, phòng chống đuối nước cho trẻ em, học sinh tại
phường T, thành phố B và Quyết định số 8392/QĐ-UBND ngày 30/9/2022về
việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và chi phí tổ chức thực hiện công
tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng Công
trình: Trung tâm G1, phòng chống đuối nước cho trẻ em, học sinh tại phường
T, thành phố B.
Việc UBND thành phố B ban hành Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê
duyệt phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ của Tổ chức được áp dụng theo
Quyết định số 3750/QĐ-UBND ngày 29/12/2021 của UBND tỉnh Đ.Nội dung
ủy quyền được quy định tại Điều 2 quyết đinh này: Ủy ban nhân dân tỉnh Ủ cho
Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố quyết định thu hồi đất, quyết định
5
phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với trường hợp trong
khu vực thu hồi đất có cả đối tượng là tổ chức và hộ gia đình, cá nhân.
Đối với nội dung khởi kiện của Hợp tác xã N1 yêu cầu Hủy Quyết định thu hồi
đất số 8391/QĐ-UBND ngày 30/9/2022 và quyết định phê duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ số 8392/QĐ-UBND ngày 30/9/2022 của UBND thành phố B.
Sau khi xem xét đơn khởi kiện của Hợp tác xã N1 đề ngày 01/10/2023 thì việc
khởi kiện là quá thời hiệu khởi kiện theo quy định: Tại Khoản 1 và Điểm a,
Khoản 2, Điều 116, Luật tố tụng hành chính 2015.
- Đại diện của Ban tự quản buôn K, ông Y Bhưt K trình bày:
Ông Y Bhưt K được bầu làm Buôn trưởng buôn K vào năm 2016. Theo ông
được biết thì diện tích đất mà UBND thành phố thu hồi là do gia đình ông Y
Muê Ê khai phá để sản xuất nông nghiệp trước năm 1975. Đến năm 1987 ông
Y Muê Ê chuyển nhượng lô đất trên cho ông Nguyễn Văn G và Hợp tác xã N1.
Đến năm 2007, diện tích đất bỏ trống nên Ban chủ nhiệm HTX Kô Siêr họp xã
viên và nhân dân muốn bàn giao đất cho Nhà nước xây trường học cho con em
trong buôn nhưng với điều kiện Nhà nước lấy đất phải đền bù cho HTX Kô Siêr
theo quy định của pháp luật.
- Người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Đ2, ông Nguyễn Trọng Đ
trình bày:
Khi biết thông tin UBND tỉnh Đ có chủ trương kêu gọi đầu tư xây dựng công
trình Trung tâm G1, phòng chống đuối nước cho trẻ em, học sinh trên thửa đất
số 58, tờ bản đồ số 81 tại phường T, Công ty đã đăng ký đầu tư và được UBND
tỉnh chấp thận theo quyết định số 3436/QĐ-UBND ngày 08/12/2021 và đã có
quyết định cho Công ty thuê đất để thực hiện dự án. Đối với yêu cầu khởi kiện
của HTX N1 thì việc thu hồi, bồi thường thực hiện đúng quy trình, có căn cứ
nên đề nghị giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
[2] Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 69/2024/HC-ST ngày 10-5-2024 của Toà
án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ Điều 30; Điều 32; khoản 3 Điều 57; Điều 115; Điều 116; Điều 165;
điểm a khoản 2 Điều 193; Điều 194 và Điều 206 của Luật Tố tụng hành chính;
Áp dụng Điều 7; 28 Luật Khiếu nại; Điều 66, 67, 69 Luật đất đai;
Căn cứ khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
6
Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của Hợp tác xã N1 về việc Huỷ Quyết định số
8391/QĐ-UBND ngày 30/9/2022 của U, tỉnh Đắk Lắk: Về việc thu hồi đất để
thực hiện dự án: Trung tâm G1, phòng chống đuối nước cho trẻ em, học sinh
tại phường T, thành phố B và Quyết định số 8392/QĐ-UBND ngày 30/9/2022
của U, tỉnh Đắk Lắk về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và chi phí
tổ chức thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất để xây dựng công trình: Trung tâm G1, phòng chống đuối nước cho trẻ em,
học sinh tại phường T, thành phố B để UBND thành phố B thu hồi và lập
phương án bồi thường cho Hợp tác xã N1 theo quy định.
2. Về án phí hành chính sơ thẩm: Hợp tác xã N1 phải chịu 300.000 đồng án phí
hành chính sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền300.000 đồng (Ba trăm nghìn
đồng) tạm ứng án phítheo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
AA/2023/0004607 ngày 07/11/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về quyền kháng cáo của đương sự.
[3] Kháng cáo:
Ngày 24-5-2024 Hợp tác xã N1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Nêu lý do
kháng cáo là HTX N1 và HTX Đ3 là đơn vị liên kết nhau. Tại thời điểm 1987,
do điều kiện HTX Kô Siêr khó khăn nên đã thông qua HTX Đ3 để làm thủ tục
chuyển nhượng đất với gia đình ông Y Muê Ê. Do đó, nguồn gốc diện tích đất
2.186,1m
2
đất thu hồi theo Quyết định 8391 là của HTX N1, do được nhận
chuyển nhượng năm 1987; không phải của HTX Đ3, cũng không phải của Ban
tự quản buôn Kô Siêr, các đơn vị này cũng thừa nhận chưa bao giờ được nhà
nước giao đất. Biên bản bàn giao đất ngày 13-11-2013 là chỉ tạm giao quản lý
làm sân bóng đá cho thanh niên, do tình hình trật tự xã hội phức tạp nên tạm
dành chỗ vui chơi cho thanh thiếu niên; không phải là bàn giao luôn quyền sử
dụng đất.
[4] Tại phiên toà phúc thẩm:
Người đại diện Hợp tác xã Nông nghiệp Kô Siêr giữ nguyên kháng cáo; đề
nghị xác định thu hồi đất là thu hồi của Hợp tác xã N1 và bồi thường cho xã
viên HTX, vì đây là tài sản có nguồn gốc do xã viên HTX Kô Siêr nhận chuyển
nhượng và đại diện buôn Kô S1, đại diện Công ty Đ4 đều thừa nhận là đất của
Hợp tác xã N1.
7
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu ý kiến: đây là
phiên tòa phúc thẩm được mở lần thứ hai, Thẩm phán, Thư ký Tòa án và những
người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung đơn kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác đơn kháng
cáo, giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Ngày 30/9/2022, Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành Quyết định số
8391/QĐ-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện dự án: Trung tâm G1, phòng
chống đuối nước cho trẻ em, học sinh tại phường T, thành phố B (Sau đây viết
tắt là Quyết định số 8391/QĐ-UBND); và Quyết định số 8392/QĐ-UBND ngày
30/9/2022 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và chi phí tổ chức
thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ; tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để
xây dựng công trình: Trung tâm G1, phòng chống đuối nước cho trẻ em, học
sinh tại phường T, thành phố B (Sau đây viết tắt là Quyết định số 8392/QĐ-
UBND).
Ngày 04/10/2022, Hợp tác xã N1 (HTX N1) có đơn khiếu nại đối với Quyết
định số 8391/QĐ-UBND ngày 30/9/2022 của Ủy ban nhân dân thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk (BL75) nhưng không được giải quyết.
Ngày 11/10/2023, Hợp tác xã N1 có đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk. Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã căn cứ điểm a khoản 2 Điều 116 Luật
Tố tụng hành chính để thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều
30; khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính.
[2] Về đối tượng khởi kiện:
Quyết định thu hồi đất số 8391/QĐ-UBND có nội dung thu hồi 2.186,1m
2
đất
nông nghiệp do UBND phường T quản lý (đơn vị đang sử dụng là Ban tự quản
Buôn Kô S1). Tại Biên bản xác minh lập ngày 11//11/2023 và ngày 11/3/2014
(do Phòng T2 thành phố thực hiện) thì đại diện UBND phường T xác định
UBND phường chỉ quản lý đất theo địa giới hành chính.
Theo Điều 2 Quyết định số 3750/QĐ-UBND ngày 29/12/2021 của UBND tỉnh
Đ: Ủy ban nhân dân tỉnh Ủ cho Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố
8
quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư đối với trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng là tổ chức
và hộ gia đình, cá nhân. Do đó, UBND thành phố ban hành quyết định thu hồi
đất và quyết định phê duyệt phương án bồi thường đối với tổ chức là đúng thẩm
quyền.
Quyết định thu hồi đất xác định chủ thể bị thu hồi là Ban tự quản Buôn Kô S1.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 66 của Luật đất đai năm 2013 thì việc UBND
thành phố B quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi
thường đối với đất của cộng đồng dân cư là đúng thẩm quyền.
[3] Về thủ tục, trình tự ban hành quyết định:
Ngày 10/12/2020, UBND tỉnh Đ ban hành quyết định số 3009/QĐ-UBND phê
duyệt danh mục dự án đầu tư có sử dụng đất đối với dự án Trung tâm G1, phòng
chống đuối nước cho trẻ em, học sinh tại phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
tại thửa đất số 58, tờ bản đồ số 81, phường T, thành phố B (BL 135).
Ngày 08/12/2021, UBND tỉnh Đ quyết định chấp thuận Công ty TNHH Đ2 là
nhà đầu tư thực hiện dự án (BL 141).
Ngày 30/12/2021, UBND thành phố B phê duyệt Kế hoạch thu hồi đất để thực
hiện dự án (Kế hoạch số 214/KH-UBND – BL 143).
Ngày 30/12/2021, UBND thành phố B ban hành Thông báo thu hồi đất của Ban
tự quản Buôn Kô S1, thửa đất số 58, tờ bản đồ số 81, diện tích 2.186,1m
2
, loại
đất đang sử dụng là đất Thể dục – Thể thao (BL 66).
Ngày 30/9/2022, UBND thành phố B ban hành Quyết định thu hồi đất số
8391/QĐ-UBND, thu hồi 2.186,1m
2
đất nông nghiệp do UBND phường T quản
lý (đơn vị đang sử dụng là Ban tự quản Buôn Kô S1) thuộc thửa đất số 58, tờ
bản đồ số 81. Lý do thu hồi là để thực hiện dự án Trung tâm giáo dục thể chất,
phòng chống đuối nước cho trẻ em, học sinh tại phường T, thành phố B. Cùng
ngày, UBND thành phố B ban hành Quyết định phê duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất số8392/QĐ-UBND.
[4] Xem xét các căn cứ và quá trình quản lý sử dụng đất:
Người khởi kiện cho rằng việc UBND thành phố B xác định đối tượng bị thu
hồi và được bồi thường là Ban tự quản Buôn Kô S1 là không đúng, mà phải là
Hợp tác xã N1; với lý do: thửa đất đất số số 58, tờ bản đồ số 81, tại phường T,
thành phố B là của người khởi kiện. Tài liệu mà người khởi kiện cung cấp để
chứng minh là Biên bản họp xã viên và dân Buôn Kô S1 lập ngày 23/7/2017 và
Văn bản đề nghị xác nhận nguồn gốc sử dụng đất được Công ty cổ phần Đ4 xác
9
nhận ngày 19/5/2022 được chứng thực theo quy định, các tài liệu còn lại là bản
phô tô. Cụ thể các tài liệu người khởi kiện cung cấp thể hiện:
Giấy nhượng đất đề ngày 15/01/1987 (BL 46), gia đình bà H1, ông Y Muê E
nhất trí sang nhượng 03 sào đất với giá 50.000 đồng.
Giấy Thỏa thuận lập ngày 23/6/1987 (BL44), gia đình bà H1 có thỏa thuận với
Chủ nhiệm HTX Đ3 – ông Nguyễn Văn G, Đội phó đội cà phê liên kết Buôn
Kô S1 – ông Y Buin A với nội dung gia đình bà H1 giao diện tích đất về địa
phương để xây dựng khu phúc lợi, công khai phá là 5 chỉ 3 phân vàng.
Ngày 23/6/1987, Kế toán đội là ông Y Kuôm N có đề nghị tạm ứng, đề nghị
Ban quản trị HTX Đoàn Kết chấp thuận chi khoản nhường đất 03 sào để xây
dựng khu phúc lợi cho B1 (BL 47).
Tại phiếu đề nghị chi tiền ngày 25/6/1987 và phiếu chi số 304 ngày 31/7/1987
của HTX Đ3, nôi dung chi là để mua đất xây dựng công trình phúc lợi cho B1.
(BL 48, 49).
Như vậy, tại thời điểm chuyển nhượng thì chủ thể nhận chuyển nhượng là HTX
Đ3. Không có tài liệu chứng cứ chứng minh thửa đất trên do HTX Kô Siêr nhận
chuyển nhượng. Tại các biên bản làm việc với Phòng Tài nguyên và Môi trường
thành phố T2 và với Tòa án thì đại diện của HTX Đ3 (nay là Công ty cổ phần
Đ4) khẳng định đã bàn giao đất cho HTX N1, việc bàn giao không có giấy tờ
gì và Công ty Đ4 xác định không còn liên quan gì đến thửa đất này.
Ngày 08/5/2013, sau khi san ủi lại và nghiệm thu mặt bằng sân bóng, Đại diện
UBND phường T đã bàn giao mặt bằng cho B2 quản lý, sử dụng vào mục đích
công cộng (BL 72).
Ngày 13/11/2013, Đại diện HTX N1, Đại diện Công ty cổ phần Đ4 và Đại diện
BTQ Buôn có biên bản bàn giao đất (BL 73) với nội dung: Căn cứ biên bản họp
liên tịch giữa BTQ-HTX và Công ty Đ4; Căn cứ vào các cuộc họp nhân dân,
xã viên HTX đã khẳng định việc mua đất là để phục vụ lợi ích cộng đồng nhân
dân trên địa bàn mà nguồn kinh phí trích từ chi phí sản xuất của HTX và Công
ty Đ4... Xuất phát từ nhu cầu của nhân dân B1, nay HTX và Công ty Đ4 thống
nhất giao lại lô đất trên cho BTQ quản lý và sử dụng vào mục đích phúc lợi cho
nhân dân B1. BTQ Buôn có trách nhiệm làm các thủ tục cần thiết đề nghị cấp
có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận cho B tự quản. Biên bản có chữ ký, đóng
dấu của HTX N1 và Công ty Đ4, chữ ký Buôn trưởng.
Ngày 15/11/2013, Đại diện Ban tự quản Buôn có Tờ trình gửi UBND phường
T và UBND thành phố B (BL 39), trong đó có nội dung: “Tài sản Buôn Kô S2
chỉ có một lô đất diện tích 2.550m
2
nằm trên đường H nối dài, từ lâu nay đất
10
bỏ hoang lãng phí, một số hộ lợi dụng lấn chiếm..., kính đề nghị các cơ quan
có thẩm quyền tạo điều kiện cho B1 hợp đồng thuê đất để giải quyết nhu cầu
phục vụ cộng đồng của B1”.
[5] Xem xét tính hợp pháp và có căn cứ của các Quyết định hành chính bị khởi
kiện:
Các tài liệu, chứng cứ thể hiện mục đích Hợp tác xã Đoàn K1 nhận chuyển
nhượng đất là để xây dựng công trình phúc lợi cho B1. Tuy nhiên, người chuyển
nhượng đất cũng chưa có căn cứ sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật,
mà chỉ là người đang sử dụng đất trên thực tế. Như vậy, các chủ thể chỉ chuyển
quyền sử dụng đất thực tế cho nhau và đều không có căn cứ chứng quyền sử
dụng đất theo quy định pháp luật. Người khởi kiện kiện và đại diện Buôn Kô
S1 cũng xác nhận đã giao đất cho B1 sử dụng từ năm 2007 cũng trên thực tế.
Nhưng thửa đất trên không được đưa vào sử dụng, dẫn đến để hoang phí như
nội dung Tờ trình của Ban tự quản Buôn Kô S1. Trên cơ sở họp nhân dân, xã
viên, Hợp tác xã N1 và Công ty Đ4 đã có văn bản thống nhất giao lại lô đất trên
cho B tự quản Buôn quản lý, sử dụng vào mục đích phúc lợi cho nhân dân trong
Buôn nên đối tượng sử dụng đất trên thực tế tại thời điểm thu hồi đất là cộng
đồng dân cư do B tự quản đại diện.
Trước khi UBND thành phố B ban hành quyết định thu hồi đất, vào ngày
13/5/2022, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố có văn bản gửi HTX N1 đề
nghị HTX chậm nhất đến ngày 20/5/2022 phải cung cấp các loại giấy tờ mua
bán (bản gốc), giấy tờ chứng minh nguồn kinh phí chi trả cho việc nhận chuyển
nhượng thửa đất số số 58, tờ bản đồ số 81, tại phường T, thành phố B (BL 36),
công văn nêu rõ nếu quá thời hạn mà không cung cấp thì xem như không có cơ
sở để lập phương án bồi thường nhưng người khởi kiện cũng xác nhận chỉ cung
cấp được các tài liệu phô tô.
Đối với lời trình bày của Buôn trưởng Buôn K là ông Y Bhưt K, tuy nhiên ông
Y Bhưt K không trực tiếp tham gia, chứng kiến các giao dịch chuyển nhượng,
bàn giao đất; các chủ thể chỉ tự chuyển giao cho nhau quyền sử dụng đất trên
thực tế mà không có tài liệu chứng cứ thể hiện có căn cứ sử dụng đất, không có
đăng ký kê khai theo thủ tục quản lý đất đai, nên thửa đất vẫn thể hiện trong hồ
sơ địa chính là đất do chính quyền địa phương quản lý, tại thời điểm thu hồi do
B tự quản Buôn Kô S1 sử dụng.
[6] Từ những phân tích, nhận định nêu trên, xét thấy Bản án hành chính sơ thẩm
đã xem xét toàn diện các tài liệu chứng cứ và đã quyết định bác yêu cầu khởi
kiện là có căn cứ. Người kháng cáo không cung cấp được các tài liệu chứng cứ
11
mới làm thay đổi nội dung vụ án nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo; Hội
đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên quyết định của bản án hành chính sơ thẩm.
Về án phí hành chính phúc thẩm người kháng cáo phải chịu là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 241, Điều 242 Luật Tố tụng hành chính; khoản 1 Điều
34 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội; bác kháng cáo của Hợp tác xã N1 và giữ nguyên quyết định của
Bản án hành chính sơ thẩm số 69/2024/HC-ST ngày 10-5-2024 của Toà án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk.
2. Hợp tác xã N1 phải chịu án phí hành chính phúc thẩm là 300.000 đồng, được
khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng
án phí, lệ phí Tòa án số 0012899 ngày 31/5/2024 tại Cục thi hành án dân sự
tỉnh Đắk Lắk.
Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Vụ III, TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Đăk Lăk;
- VKSND tỉnh Đăk Lăk;
- Cục THADS tỉnh Đăk Lăk;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Nguyễn Tấn Long
Tải về
Bản án số 409/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 409/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm