Bản án số 36/2025/HC-PT ngày 15/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 36/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 36/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 36/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 36/2025/HC-PT ngày 15/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 36/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/01/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Dương Thị T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
` TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 36/2025/HC-PT
Ngày 15/01/2025.
V/v khiếu kiện quyết định hành
chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: bà Trần Thị Kim Liên
Các Thẩm phán: ông Nguyễn Văn Tào
ông Đinh Phước Hoà
- Thư ký phiên tòa: ông Nguyễn Thế Trường, Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: ông Quách Hoà
Bình, Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 15 tháng 01 năm 2025, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng và điểm cầu thành phần trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Toà
án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên toà trực tuyến xét xử phúc thẩm công
khai vụ án hành chính thụ lý số 937/2024/TLPT-HC ngày 04 tháng 9 năm 2024 về
việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do bản án hành chính sơ thẩm số 109/2024/HC-ST ngày 23 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 107/2024/QĐ-PT ngày 30
tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: bà Dương Thị T - sinh năm 1966;
Địa chỉ tạm trú: số G đường M, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: bà Trần Thị C - sinh năm
1991; địa chỉ: tổ dân phố I, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (văn bản uỷ quyền
ngày 14/01/2025). Vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: ông Lê Xuân Anh
P và bà Trần Thị C - Luật sư của Công ty L và Cộng sự thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ.
Luật sư P có mặt, Luật sư C vắng mặt.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;
2
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: ông Lê Đại T1 - chức vụ: Phó
Chủ tịch UBND thành phố B (văn bản uỷ quyền ngày 29/02/2024);
Địa chỉ: số A đường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Có đơn đề nghị xét xử vắng
mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
- Ông Trương Văn C1 - chức vụ: Giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất thành
phố B. Vắng mặt.
- Ông Võ Quang H - chức vụ: Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất thành
phố B.
Địa chỉ: số C đường H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;
Người đại diện theo pháp luật: ông Trương Văn C1; chức vụ: Giám đốc Trung
tâm Phát triển quỹ đất thành phố B. Vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền: ông Võ Quang H; chức vụ: Phó Giám đốc Trung
tâm Phát triển quỹ đất thành phố B.
Địa chỉ: số C đường H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
3.2. Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;
Người đại diện theo pháp luật: ông Huỳnh Thanh H1 - chức vụ: Chủ tịch UBND
phường T.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Huy H2 - Cán bộ địa chính phường
(văn bản uỷ quyền ngày 16/4/2024).
Địa chỉ: số E đường T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
3.3. Trường Trung học cơ sở P1.
Người đại diện theo pháp luật: bà Nguyễn Thị N - chức vụ: Hiệu trưởng.
Địa chỉ: số B đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
3.4. Ông Hồ Xuân H3 - sinh năm 1991, bà Trần Thị H4 - sinh 1992, bà Hồ Thị
Tường V - sinh năm 1989 và ông Nguyễn Chí C2.
Cùng địa chỉ tạm trú: số G đường M, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Ông H3 có mặt, bà H4, bà V và ông C2 đều vắng mặt.
4. Người kháng cáo: người khởi kiện bà Dương Thị T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án người khởi kiện, người đại
diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày:
Căn nhà số B đường L thuộc thửa đất số 11, mảnh trích đo số TĐ01/2021, tại
địa chỉ: số B đường L, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk hiện do bà Dương Thị
T quản lý, sử dụng có nguồn gốc như sau:
3
Chồng bà T là ông Hồ Xuân N1 sau khi đi bộ đội xuất ngũ về địa phương thì
công tác tại phường T vào năm 1989, giữ chức vụ phường đội phó tác chiến. Năm
1990, chồng bà T chuyển về trường Lê Thị Hồng G làm bảo vệ. Do hoàn cảnh gia
đình khó khăn, bà T là người tàn tật và có con nhỏ mới sinh mà gia đình bà T chưa
có chỗ ở ổn định, Ủy ban nhân dân phường T thấy ông N1 có đóng góp và công lao
phục vụ cho Đảng và Nhà nước cũng như ở địa phương nên cấp cho gia đình bà T
một mảnh đất để làm nhà ở để thuận tiện cho việc sinh hoạt và phục vụ cho công tác.
Cuối năm 1990, vợ chồng bà T đã xây dựng căn nhà trên mảnh đất này và sử dụng
ổn định từ đó đến nay không tranh chấp với ai, được cấp số nhà, làm sổ hộ khẩu
thường trú, bắt điện nước, làm nhà tình nghĩa, đóng thuế đất đầy đủ, không bị cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.
Mảnh đất này nằm ngoài khuôn viên trường và có bờ tường rào ngăn cách giữa
trường Lê Thị Hồng G với gia đình bà T. Hiện nay bờ tường rào này vẫn còn tồn tại,
ngăn cách giữa căn nhà nêu trên của gia đình bà T với trường Lê Thị Hồng G (nay
là trường Phạm Hồng T2).
Đến năm 1991-1992, Ủy ban nhân dân phường T đập tường sau dãy phòng học
(phía Bắc) bán từ 5-7m chiều dài cho các hộ dân kề sát đường Đ và bán đất cho ba
hộ sát đường L. Phía sau phòng ở của bà T và các giáo viên khác có một bãi đất
(trước dây là nơi tập kết gỗ của xưởng gỗ Đ, sau đó người dân trồng cây ăn trái và
có một số cây cổ thụ,...). Đặc biệt, sau phòng ở của bà Dương Thị T là bãi dây kẽm
gai của chiến tranh để lại, cây ăn trái và một hố rác bẩn của dân. Tại khu đất này, Uỷ
ban nhân dân phường đã cấp cho cô Nguyễn Thị Ngọc B và ông Hàng Tiến D có thu
mỗi hộ 2.000.000đồng tiền nhà ở.
Theo Báo cáo kết quả kiểm tra số 01/BC-KQ ngày 14/11/2007 của Đoàn kiểm
tra 1600, có nêu: “Khu đất của các hộ giáo viên ở nằm biệt lập với khuôn viên nhà
trường, trường không quản lý và sử dụng phần đất này. Các hộ cơi nới, cải tạo lại ở
trước thời điểm trường THCS P1 có quy hoạch ngày 18/12/1996 và có thời gian công
tác cho ngành giáo dục và đào tạo lâu, có nhiều công hiến cho ngành, hàng năm nộp
thuế nhà đất, không nộp tiền thuê nhà. Hiện nay, không có đơn vị thực sự quản lý
khu tập thể này”.
Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân thành phố B đã ban hành Quyết định thu hồi đất
số 7410/QĐ-UBND ngày 28/12/2023 và Quyết định số 7398/QĐ-UBND ngày
28/12/2023 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
để thực hiện dự án: Trường THCS P1, hạng mục bồi thường giải phóng mặt bằng,
xây dựng sân và tường rào phần mở rộng. Theo phương án này thì gia đình bà T chỉ
được bồi thường phần tài sản trên đất là 169.337.657đồng mà không được bồi thường
giá trị của thửa đất (thửa đất số 11, mảnh trích đo số TĐ01/2021 tại địa chỉ: số B
4
đường L, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk) theo giá đất tại đường L, phường T,
thành phố B, tỉnh Đăk Lăk và Ủy ban nhân dân thành phố B chỉ bố trí một nền đất
để tái định cư (theo diện mua đất tái định cư), bà Dương Thị T hoàn toàn không đồng
ý với Quyết định số 7398/QĐ-UBND ngày 28/12/2023 của Ủy ban nhân dân thành
phố B.
Ngoài ra, khi còn sinh sống tại số B đường L, bà Dương Thị T (là người tàn tật)
và con trai của bà là Hồ Xuân H3 còn có thể buôn bán nước giải khát, con trai bà còn
đi lao động phổ thông để kiếm tiền lo cho gia đình nhưng khi Nhà nước thu hồi đất
gia đình bà T mất nguồn thu nhập này.
Từ nội dung trên, bà Dương Thị T đề nghị Tòa án giải quyết như sau:
1. Hủy một phần Quyết định số 7398/QĐ-UBND ngày 28/12/2023 của UBND
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất để thực hiện dự án: Trường THCS P1, hạng mục bồi thường giải
phóng mặt bằng, xây dựng sân và tường rào phần mở rộng;
2. Buộc Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành lại Quyết định về việc phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án:
Trường THCS P1, hạng mục bồi thường giải phóng mặt bằng, xây dựng sân và tường
rào phần mở rộng mới, theo đó: Ủy ban nhân dân thành phố B phải bồi thường giá
trị của thửa đất (thửa đất số 11, mảnh trích đo số TĐ01/2021, tại địa chỉ: số B đường
L, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk) theo giá thị trường tại đường L, phường T,
thành phố B, tỉnh Đăk Lăk;
3. Buộc Ủy ban nhân dân thành phố B bồi thường phần tài sản mà theo Bảng
tính chi tiết bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường (cụ
thể: phần nhà thuộc sở hữu Nhà nước DT: ((4,35+4,47)/2)*6m
2
nhưng đối với phần
nhà này đã bị hư hỏng xuống cấp nên bà đã cải tạo và xây lại hoàn toàn; mái che
khung gỗ, vì kèo gỗ, mái lợp tôn kẽm DT: (5*4,47)m
2
. Dưới có nền ceramic (40*40);
mái che khung gỗ, vì kèo gỗ, mái lợp tôn kẽm DT (5*0,8)m
2
. Dưới có nền ceramic
(40*40)).
4. Buộc UBND thành phố B bố trí đất để tái định cư cho hộ gia đình (theo hướng
khấu trừ tiền bồi thường đất tại B L).
5. Buộc UBND thành phố B hỗ trợ chi phí giải quyết công ăn việc làm để bảo
đảm mức sống tối thiểu cho gia đình bà Dương Thị T.
* Người đại diện theo ủy quyền và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị kiện là Ủy ban nhân dân thành phố B và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố B trình bày:
Về nguồn gốc đất: hộ bà Dương Thị T được trường tiểu học L1 (nay là trường
THCS P1) cho mượn nhà tập thể để ở từ năm 1990 (được ông Phạm Hồng K - nguyên
5
hiệu trưởng trường Lê Thị Hồng G xác nhận, thửa đất số 11, mảnh trích đo TĐ
01/2021, thuộc địa chỉ: số B đường L, phường T, thành phố B, đất có nguồn gốc của
Nhà nước giao cho trường Lê Thị Hồng G quản lý. Do đó, không đủ điều kiện bồi
thường giá trị đất theo Điều 82 của Luật Đất đai năm 2013.
Về nhà, tài sản, vật kiến trúc: các tài sản, vật kiến trúc trên phần diện tích họ
dân tự cơi nới đã được hỗ trợ theo quy định tại khoản 2 Điều 15 và khoản 4 Điều 20
Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ.
Các tài sản, vật kiến trúc có trên phần diện tích đất thuộc sở hữu Nhà nước
không được bồi thường, hỗ trợ (căn cứ Biên bản làm việc ngày 24/10/2022 giữa
Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố với Ủy ban nhân dân phường T và quy định
tại khoản 1 Điều 14 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ).
Về bố trí đất tái định cư: tại thời điểm Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành
Thông báo thu hồi đất thì hộ bà Dương Thị T trực tiếp ở trên thửa đất thu hồi thuộc
sở hữu Nhà nước. Qua kết quả xác định điều kiện tái định cư tại chi nhánh V1 Đăng
ký đất đai thành phố và tại 21 phường, xã thì hộ bà T không có nhà ở, đất ở nào khác
ngoài căn nhà có trên thửa đất thu hồi tại địa chỉ số B đường L, phường T, thành phố
B. Qua đó, ngày 29/12/2023, Ủy ban nhân dân thành phố B đã ban hành Quyết định
số 7539/QĐ-UBND về việc giao cho hộ bà Dương Thị T 01 thửa đất ở có thu tiền sử
dụng đất không thông qua đấu giá (căn cứ điều 5 Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND
ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ). Việc bà T đề nghị giao thêm đất tái định cư cho
các người con gồm: Hồ Xuân H3, Hồ Thị Tường V là không đúng quy định, không
có cơ sở để giải quyết.
Vì vậy, phương án bồi thường, hỗ trợ đối với hộ bà Dương Thị T được UBND
thành phố B phê duyệt tại Quyết định số 7398/QĐ-UBND ngày 28/12/2023 là đúng
quy định của pháp luật. Các nội dung khởi kiện của hộ bà Dương Thị T là không có
cơ sở xem xét, giải quyết. Đề nghị Toà án xem xét không chấp nhận nội dung khởi
kiện của bà T.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B trình bày: về nguồn gốc đất: hộ bà
Dương Thị T trước đây được trường tiểu học Lê Thị Hồng G cho mượn 01 phòng
tập thể để ở từ năm 1990 và đã được ông Phạm Hồng K (trước đây là Hiệu trưởng
của trường) xác nhận ngày 01/6/2006. Việc cho mượn không được lập thành văn bản.
Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định
của pháp luật.
- Đại diện trường THCS P1 trình bày: Trường THCS P1 không lưu giữ giấy tờ,
hồ sơ liên quan đến việc cho bà Dương Thị T mượn đất, nhà. Do vậy, nhà trường
không thể cung cấp cho Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk các tài liệu liên quan. Theo
6
Báo cáo số 244/BC-TNMT ngày 16/10/2019 của Phòng T3, hộ bà T sử dụng thửa
đất số 30, tờ bản đồ số 10, diện tích 65,7m
2
tại phường T được trường L1 (nay là
trường THCS P1) cho mượn nhà tập thể từ năm 1988, được ông Phạm Hồng K -
nguyên Hiệu trưởng trường Lê Thị Hồng G xác nhận. Đối với yêu cầu khởi kiện của
bà T, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 109/2024/HC-ST ngày 23/7/2024 của Toà
án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116, Điều 157,
Điều 158, điểm a khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng Hành chính; Luật Đất đai năm
2013; Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; Quyết định số
14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ; Điều 12 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí,
lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Dương Thị T:
- Bác yêu cầu khởi kiện về việc hủy một phần Quyết định số 7398/QĐ - UBND
ngày 28/12/2023 của Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk về việc phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án: Trường
THCS P1, hạng mục bồi thường giải phóng mặt bằng, xây dựng sân và tường rào
phần mở rộng;
- Bác yêu cầu khởi kiện về việc buộc UBND thành phố B ban hành lại Quyết
định về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để
thực hiện dự án: Trường THCS P1, hạng mục bồi thường giải phóng mặt bằng, xây
dựng sân và tường rào phần mở rộng mới, theo đó Ủy ban nhân dân thành phố B phải
bồi thường giá trị của thửa đất (thửa đất số 11, mảnh trích đo số TĐ01/2021, tại địa
chỉ: số B đường L, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk) theo giá đất tại đường L,
phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk;
- Bác yêu cầu khởi kiện về việc buộc Ủy ban nhân dân thành phố B bồi thường
phần tài sản mà theo Bảng tính chi tiết bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
không được bồi thường (Cụ thể: phần nhà thuộc sở hữu Nhà nước DT:
((4,35+4,47)/2)*6m
2
nhưng đối với phần nhà này đã bị hư hỏng xuống cấp nên bà đã
cải tạo và xây lại hoàn toàn; mái che khung gỗ, vì kèo gỗ, mái lợp tôn kẽm DT:
(5*4,47)m
2
; dưới có nền ceramic (40*40); mái che khung gỗ, vì kèo gỗ, mái lợp tôn
kẽm DT (5*0,8)m
2
. Dưới có nền ceramic (40*40)).
- Bác yêu cầu khởi kiện về việc buộc Ủy ban nhân dân thành phố B bố trí đất
để tái định cư cho hộ gia đình (theo hướng khấu trừ tiền bồi thường đất tại số B
đường L).
7
- Bác yêu cầu khởi kiện về việc buộc UBND thành phố B hỗ trợ chi phí giải
quyết công ăn việc làm để bảo đảm mức sống tối thiểu cho gia đình bà Dương Thị
T.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng
cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 06/8/2024, bà Dương Thị T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Đề nghị
Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà, sửa bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người khởi kiện bà Dương Thị T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và nội
dung kháng cáo.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Luật sư Lê
Xuân Anh P đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của
người khởi kiện, sửa bản án sơ thẩm vì bà T đã nộp thuế cho Nhà nước, đủ điều kiện
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên yêu cầu bồi thường 100% tiền đất, bố
trí thêm đất tái định cư cho các con của bà, hỗ trợ chi phí giải quyết việc làm cho hộ
bà T.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng, về phần
thủ tục tố tụng ở giai đoạn phúc thẩm đảm bảo đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội
đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện bà Dương Thị T, giữ nguyên quyết
định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả
tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: tại phiên toà phúc thẩm, người đại diện theo uỷ quyền
của người khởi kiện là bà Trần Thị C vắng mặt, người bị kiện Ủy ban nhân dân thành
phố B có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm:
Ủy ban nhân dân phường T, trường Trung học cơ sở Phạm Hồng T2, bà Trần Thị
H4, bà Hồ Thị Tường V và ông Nguyễn Chí C2 đều vắng mặt. Đại diện Viện Kiểm
sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử. Hội đồng
xét xử căn cứ vào Điều 225 của Luật Tố tụng Hành chính, quyết định tiến hành phiên
toà phúc thẩm xét xử vắng mặt họ.
[2] Xét kháng cáo của người khởi kiện bà Dương Thị T với nội dung: đề nghị
Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà, Hội đồng xét xử
thấy:
[2.1] Về nguồn gốc đất: căn cứ Báo cáo kết quả kiểm tra số 01 ngày 14/11/2007
của Đoàn kiểm tra 1600, Biên bản làm việc về việc kiểm tra nguồn gốc, quá trình sử
dụng đất thuộc phạm vi mở rộng trường THCS P1 tại phường T ngày 16/10/2019, có
8
căn cứ xác định: nguồn gốc đất mà hộ bà Dương Thị T (địa chỉ: số B đường L,
phường T, thành phố B) sử dụng là Nhà nước giao cho trường L1 (nay là trường
THCS P1) quản lý. Sau đó, nhà trường cho ông Hồ Xuân N1 (là chồng bà T) mượn
nhà thuộc khu tập thể để ở từ năm 1990, không thu tiền. Như vậy, quyền sử dụng đất
là của trường THCS P1. Bà T cho rằng diện tích đất 65,7m
2
thuộc thửa đất số 30, tờ
bản đồ số 10 tại phường T là đất do Ủy ban nhân dân phường T cấp cho gia đình bà
nhưng bà T không xuất trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh là đất do Ủy ban
nhân dân phường C3.
[2.2] Hồ sơ kỹ thuật thửa đất do Trung tâm kỹ thuật địa chính tỉnh Đắk Lắk lập
năm 2003 thể hiện thửa đất số 30, tờ bản đồ số 10 thuộc quy hoạch đất giáo dục, diện
tích khu đất 4.718,4m
2
. Như vậy, hộ bà T thuộc trường hợp không đủ điều kiện được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không đủ điều kiện bồi thường về đất
theo quy định tại Điều 82, Điều 101 của Luật Đất đai năm 2013, khoản 5 Điều 19
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ. Do đó, việc bà T khởi
kiện yêu cầu hủy một phần Quyết định số 7398/QĐ-UBND ngày 28/12/2023 của
UBND thành phố B và buộc UBND thành phố B phải bồi thường giá trị của thửa đất
theo giá thị trường là không có căn cứ chấp nhận.
[2.3] Xét yêu cầu khởi kiện buộc UBND thành phố B bồi thường phần tài sản
mà theo Bảng tính chi tiết bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất không được
bồi thường thì thấy: tại Biên bản làm việc ngày 24/10/2022 về việc xác định tài sản,
vật kiến trúc do hộ dân xây dựng cơi nới khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự
án: mở rộng trường THCS P1; Bảng tính chi tiết kinh phí bồi thường, hỗ trợ đất, tài
sản, vật kiến trúc và cây cối hoa màu kèm theo Quyết định số 7398/QĐ-UBND ngày
28/12/2023 của UBND thành phố B thể hiện: đối với phần nhà thuộc sở hữu Nhà
nước diện tích: ((4,35+4,47)/2)*6m
2
: căn cứ theo khoản 1 Điều 14 Nghị định số
47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, đây là tài sản thuộc sở hữu của Nhà
nước nên khi thu hồi thì phần tài sản trên không được bồi thường. Đối với phần tài
sản trên đất, bao gồm: mái che khung gỗ, vì kèo gỗ, mái lợp tôn kẽm DT: (5*4,47)m
2
,
dưới có nền ceramic (40*40), phần tài sản trên do gia đình bà T tự xây dựng không
được cơ quan có thẩm quyền cho phép. Vì vậy, UBND thành phố B bồi thường 80%
giá trị tài sản theo quy định tại khoản 4 Điều 20 Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND
ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ là phù hợp. Đối với phần tài sản gồm: mái che
khung gỗ, vì kèo gỗ, mái lợp tôn kẽm DT (5*0,8)m
2
, dưới có nền ceramic (40*40)
nằm ngoài diện tích đất thu hồi, không được bồi thường là đúng quy định của pháp
luật. Do đó, Hội đồng xét xử thấy UBND thành phố B ban hành Bảng tính chi tiết
kinh phí bồi thường kèm theo Quyết định số 7398 nêu trên là có cơ sở, đúng pháp
luật.
9
[2.4] Xét yêu cầu khởi kiện buộc UBND thành phố B bố trí đất tái định cư cho
hộ gia đình bà T (theo hướng khấu trừ tiền bồi thường đất tại số B đường L) thì thấy:
do thửa đất mà gia đình bà T bị thu hồi có nguồn gốc là đất cho mượn, không thu
tiền và tại thời điểm UBND thành phố B thu hồi đất thì thửa đất nêu trên chỉ có 01
hộ gia đình bà T. Đồng thời, ngoài nơi ở nêu trên, hộ bà T không còn nhà ở, đất ở
nào khác trên địa bàn thành phố B nên UBND thành phố B đã giao cho hộ bà T 01
thửa đất ở có thu tiền sử dụng đất không thông qua đấu giá là đúng quy định tại Điều
5 Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ. Do đó, việc
bà T yêu cầu UBND thành phố B giao thêm đất tái định cư cho các con của bà T (bao
gồm: anh Hồ Xuân H3 và chị Hồ Thị Tường V) là không có căn cứ chấp nhận.
[2.5] Đối với yêu cầu khởi kiện buộc UBND thành phố B hỗ trợ chi phí giải
quyết công ăn việc làm để bảo đảm mức sống tối thiểu cho gia đình bà Dương Thị
T, Hội đồng xét xử thấy: quá trình Toà án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án và tại phiên
toà phúc thẩm hôm nay, bà T không cung cấp được căn cứ chứng minh gia đình bà
có bán nước giải khát tại địa chỉ đất bị thu hồi, có đăng ký kinh doanh và thu nhập
từ việc bán nước là thu nhập chính của gia đình bà T. Vì vậy, Hội đồng xét xử không
chấp nhận nội dung kháng cáo này.
[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy Toà án cấp sơ thẩm xử bác
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà T là hoàn toàn đúng pháp luật. Vì vậy, Hội đồng
xét xử bác kháng cáo của bà T cũng như quan điểm bảo vệ của Luật sư; chấp nhận
đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, giữ nguyên quyết
định của bản án sơ thẩm.
[4] Do toàn bộ nội dung kháng cáo không được chấp nhận, lẽ ra bà Dương Thị
T phải chịu án phí hành chính phúc thẩm. Nhưng xét, bà T là người cao tuổi, có đơn
xin miễn án phí nên không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm theo quy định tại
điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[5] Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị nên không xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng Hành chính,
Bác kháng cáo của người khởi kiện bà Dương Thị T và giữ nguyên quyết định
của Bản án hành chính sơ thẩm số 109/2024/HC-ST ngày 23/7/2024 của Toà án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk.
10
Áp dụng Điều 82, Điều 100, 101 của Luật Đất đai năm 2013; Nghị định số
47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND
ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh Đ; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí,
lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Dương Thị T về việc yêu cầu Toà án
giải quyết:
- Hủy một phần Quyết định số 7398/QĐ - UBND ngày 28/12/2023 của Ủy ban
nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án: trường THCS P1, hạng mục bồi thường
giải phóng mặt bằng, xây dựng sân và tường rào phần mở rộng;
- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố B ban hành lại Quyết định về việc phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án: trường
THCS P1, hạng mục bồi thường giải phóng mặt bằng, xây dựng sân và tường rào
phần mở rộng mới, theo đó: Ủy ban nhân dân thành phố B phải bồi thường giá trị
của thửa đất (thửa đất số 11, mảnh trích đo số TĐ01/2021, tại địa chỉ: số B đường L,
phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk) theo giá đất tại đường L, phường T, thành phố
B, tỉnh Đăk Lăk;
- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố B bồi thường phần tài sản mà theo Bảng tính
chi tiết bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường (Cụ thể:
phần nhà thuộc sở hữu Nhà nước DT: ((4,35+4,47)/2)*6m
2
nhưng đối với phần nhà
này đã bị hư hỏng xuống cấp nên bà đã cải tạo và xây lại hoàn toàn; mái che khung
gỗ, vì kèo gỗ, mái lợp tôn kẽm DT: (5*4,47)m
2
; dưới có nền ceramic (40*40); mái
che khung gỗ, vì kèo gỗ, mái lợp tôn kẽm DT (5*0,8)m
2
. Dưới có nền ceramic
(40*40).
- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố B bố trí đất để tái định cư cho hộ gia đình
(theo hướng khấu trừ tiền bồi thường đất tại số B đường L).
- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố B hỗ trợ chi phí giải quyết công ăn việc làm
để bảo đảm mức sống tối thiểu cho gia đình bà Dương Thị T.
2. Về án phí: miễn án phí hành chính phúc thẩm cho bà Dương Thị T.
3. Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
11
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Đăk Lăk;
- VKSND tỉnh Đăk Lăk;
- Cục THA dân sự tỉnh Đăk Lăk;
- Đương sự; Luật sư;
- Lưu hồ sơ vụ án, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Trần Thị Kim Liên
12
13
Tải về
Bản án số 36/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 36/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Bản án số 02/2025/HNGĐ-ST ngày 21/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 18/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 18/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm