Bản án số 31/2025/DS-PT ngày 18/03/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 31/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 31/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 31/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 31/2025/DS-PT ngày 18/03/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Phúc |
Số hiệu: | 31/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số 31/2025/DS-PT
Ngày 18 - 3 - 2025
“Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh.
Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Đoan Trang
Bà Phạm Thị Thúy Mai
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Nhung, Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc: Bà Hoàng Thị Tuyết -
Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 18 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 135/2024/TLPT-DS ngày 20 tháng 11 năm
2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” do Bản án
Dân sự sơ thẩm số: 19/2024/DS- ST ngày 14 tháng 8 năm 2024 của Toà án nhân
dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 18/2025/QĐ - PT
ngày 20 tháng 01 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1962, có mặt.
Ông Dương Văn T, sinh năm 1961, vắng mặt.
2. Bị đơn: Ông Lưu Văn L, sinh năm 1971, có mặt.
Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1975, có mặt.
Đều có địa chỉ: khu A, tổ dân phố L, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên,
tỉnh Vĩnh Phúc .
2. Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị B - Nguyên đơn.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện đề ngày 08 tháng 01 năm 2023 và đơn sửa đổi, bổ sung
đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn
Thị B trình bày: Gia đình bà có thửa đất số 12,13, tờ bản đồ số 50, diện tích 844,6
m2 (Trong đó có 200m2 đất ở, 644,6m2 đất cây LNK), địa chỉ: Khu hành chính A,
phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Thửa đất trên đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) số AB868244, vào số số
cấp GCNQSDĐ HO1606-QĐ577/QĐ-UB do UBND thị xã Vĩnh Yên (nay là
UBND thành phố Vĩnh Yên) cấp ngày 28/6/2006 đứng tên Hộ ông Dương Văn T
và vợ là Nguyễn Thị B. Năm 1998, ông T làm giấy chuyển nhượng 161m
2
đất cho
ông Lưu Ngọc N (L) và vợ là Nguyễn Thị X với số tiền là 14.500.000 đồng (Mười
bốn triệu năm trăm ngàn đồng), ông N, bà X trả số tiền 12.500.000 đồng (Mười hai
triệu năm trăm ngàn đồng). Khi ông T chuyển nhượng cho ông N, bà X, bà B đang
đi làm ăn ở Sơn La, sau này bà B cũng thống nhất với việc chuyển nhượng của ông
T chồng bà. Số tiền ông N, bà X còn nợ của bà B là 2.000.000đ từ năm 1998. Sau
khi nhận chuyển nhượng đất với ông T, ông N, bà X đã xây nhà và lấn chiếm sang
phía bên trong mốc giới đất của gia đình bà B thêm 51m
2
, diện tích đất vợ chồng
ông N sử dụng là 212 m
2
, do vợ chồng ông N chưa thanh toán số tiền chuyển
nhượng nên gia đình bà B chưa ký các thủ tục để cho gia đình ông N, bà X làm thủ
tục cấp GCNQSDĐ. Năm 2009, gia đình bà B chuyển nhượng 200 m
2
đất (trong
đó có 50 m
2
đất thổ cư và 150 m
2
đất vườn) cho ông Nguyễn Hoàng V, thửa đất
chuyển nhượng cho ông Vũ được đo từ tiếp giáp tường nhà ông N, bà X về phía
thửa đất của bà B còn lại, sau này ông Vũ tách thửa đất làm 2 thửa và chuyển
nhượng cho hai hộ khác, một hộ liền kề với đất nhà bà B, một hộ giáp tường nhà
ông N, bà X, hai hộ này đã xây dựng nhà kiên cố. Năm 2020 bà B có đơn đề nghị
Ủy ban nhân dân (viết tắt UBND) phường Liên Bảo giải quyết về tranh chấp đất
đai, UBND phường Liên Bảo trả lời đơn và hướng dẫn bà B làm đơn khởi kiện đến
Toà án nhân dân thành phố Vĩnh Yên giải quyết thì gia đình ông L lại phá bỏ bức
tường bao loan giáp với đường dân sinh và xây lùi vào phía trong thửa đất bỏ lại
một phần đất giáp với rãnh thoát nước ở ven đường. Tại đơn khởi kiện và quá trình
giải quyết bà B yêu cầu ông L (N), bà X phải trả 2.000.000đ từ năm 1998 tính đến
nay theo giá trị bằng 22m
2
đất và trả lại 51m
2
đất lấn chiếm.
Ngày 17/6/2024, bà B và ông T có đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện về
việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu ông N (L),
3
bà X phải trả 2.000.000đ tương đương 22 m
2
đất và 51 m
2
đất lấn chiếm, bà B, ông
T có đơn đề nghị Tòa án thay đổi tư cách tố tụng của ông T chuyển từ người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thành nguyên đơn. Tại phiên tòa bà B đề nghị công
nhận hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng ông bà với ông L (N), bà X.
Bị đơn ông L bà X trình bày: Ông Lưu Văn L có tên gọi khác ở nhà là Lưu
Ngọc N, giấy tờ căn cước công dân đều thể hiện là Lưu Văn L. Ông L có đơn được
UBND phường Liên Bảo xác nhận người tên Lưu Ngọc N và Lưu Văn L là một
người. Ngày 14/2/1998 vợ chồng ông T, bà B và ông bà thỏa thuận về việc chuyển
nhượng QSDĐ, ông T, bà B chuyển nhượng cho ông L, bà X là 161 m
2
đất và một
nhà cấp 4 hai gian. Ngày 10/3/1998, ông T viết đơn xin mua bán nhà và chuyển
quyền sử dụng đất ở với số tiền 14 triệu đồng, ông bà mời địa chính phường đến
đo đạc, xác định mốc giới, lập biên bản kiểm tra hiện trạng, trích lục bản đồ có xác
nhận của UBND phường Liên Bảo. Sau khi đo đạc xong ông bà đã thanh toán cho
ông T, bà B số tiền 9.100.000đồng, ông Thể đã giao 161 m
2
đất cho ông L, bà X
quản lý, sử dụng theo mốc giới hai bên thỏa thuận. Đến ngày 04/11/2003, ông T
viết giấy cam đoan mua nhà đất ở xác nhận việc ông L, bà X đã trả tổng số tiền
mua đất là 12.000.000đồng, còn 2.000.000đồng, hai bên thỏa thuận để lại khi nào
đóng thuế Nhà nước sang tên, tách bìa thì mới trả nốt. Năm 1999, ông L, bà X xây
3 gian nhà cấp 4, gia đình ông T, bà B không có ý kiến gì. Năm 2009, một số cơ
quan chức năng là cơ quan thi hành án, UBND phường Liên Bảo có vào làm việc
với một phần diện tích đất của hộ ông T, bà B và yêu cầu vợ chồng ông bà ký giáp
ranh do phần đất đang làm việc giáp với đất của gia đình ông bà. Gia đình ông bà
sử dụng đất từ năm 1998 đến năm 2020, ông bà phá nhà cấp 4 và xây dựng nhà 2
tầng 1 tum. Từ năm 1998 đến nay, nhiều lần ông bà yêu cầu ông T, bà B làm thủ
tục tách bìa để cấp GCNQSDĐ cho vợ chồng ông bà nhưng ông T, bà B không làm
với lý do giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang thế chấp tại Ngân hàng nên
chưa làm được thủ tục sang tên. Hiện nay, diện tích đất của gia đình ông bà giáp
với đất của chị Nguyễn Thị Thu H (do chị H nhận chuyển nhượng từ hộ anh V, anh
V nhận chuyển nhượng của bà B, ông T). Năm 2020, ông bà biết ông T, bà B đã
được GCNQSDĐ trong đó có cả phần diện tích đất mà ông bà nhận chuyển nhượng
của ông T, bà B, ông bà yêu cầu ông T bà B làm thủ tục tách đất để cấp GCNQSDĐ
cho ông bà và để ông bà xây nhà nhưng bà B cho rằng ông bà lấn chiếm đất nên
không đồng ý. Ông T, bà B đã làm đơn đề nghị UBND phường giải quyết tranh
chấp đất đai, ủy ban nhân dân phường đã vào để tiến hành đo đạc lại diện tích đất

4
của hai hộ gia đình nhưng hộ bà B không cho đo chỉ đo được diện tích đất của vợ
chồng ông bà là 178,9 m
2
.
Nay bà B, ông T yêu cầu công nhận giao dịch chuyển nhượng QSDĐ giữa vợ
chồng bà B với vợ chồng ông bà thì ông bà đồng ý với yêu cầu trên của nguyên đơn.
Về yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu ông bà phải trả 2.000.000đ từ năm 1998 tính
bằng 22 m
2
đất hiện nay và trả lại 51 m
2
đất lấn chiếm. Ông bà không đồng ý vì số
tiền 2.000.000đ là các bên thỏa thuận để lại khi nào bà B làm thủ tục tách bìa, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông bà thì ông bà trả cho bà B, ông Thể
nhưng ông T, bà B chưa làm thủ tục tách bìa và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho gia đình ông bà nên ông bà chưa trả số tiền này. Mặt khác ông bà không lấn
chiếm đất của ông T, bà B. Về diện tích đất hiện nay của ông bà đang sử dụng là 179
m
2
tăng 18 m
2
so với khi nhận chuyển nhượng là do ông bà đã lấp đất đường thông
hào và hố bom phía giáp đường.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2024/DS- ST ngày 14 tháng 8 năm 2024
của Toà án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đã quyết định:
Căn cứ vào Điều 131, 691, 693 của Bộ luật dân sự năm 1995; Điều 73 của
luật đất đai năm 1993; Án lệ số 55 của Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số
02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị
quyết 326
/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Dương Văn T, bà Nguyễn
Thị B.
1.1. Công nhận giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/3/1998
giữa ông Dương Văn T bà Nguyễn Thị B và ông Lưu Văn Linh (N) và bà Nguyễn
Thị X có hiệu lực pháp luật. Diện tích đất của ông Linh, bà X được công nhận là
161 m
2
theo chỉ giới là D,C,B,A,10,9,D (trong đó có 100m
2
đất ở và 61m
2
đất trồng
cây lâu năm) nằm trong thửa đất số 23, tờ bản đồ số 50; địa chỉ: Tổ dân phố Láp
Trại, phường Liên Bảo, Thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc được Ủy ban nhân
dân thành phố Vĩnh Yên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB868244
ngày 28/6/2006 đứng tên hộ ông Dương Văn Thể và vợ là Nguyễn Thị B (có sơ đồ
kèm theo).

5
1.2. Buộc ông Lưu Văn Linh và bà Nguyễn Thị X phải thanh toán cho ông
Dương Văn Thể, bà Nguyễn Thị B số tiền 2.000.000đ (theo giao dịch chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/3/1998).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người
phải thi hành án không thanh toán khoản tiền nêu trên thì người phải thi hành án
phải chịu lãi suất chậm trả của số tiền phải thi hành án là 10%/năm.
1.3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Văn T, bà Nguyễn
Thị B về việc buộc ông Lưu Văn L và bà Nguyễn Thị X phải trả 51 m
2
đất.
Ông Lưu Văn L và bà Nguyễn Thị X được liên hệ với Cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 14/8/2024, Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên nhận được đơn kháng
cáo của bà Nguyễn Thị B đề nghị cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm của Toà án
nhân dân thành phố Vĩnh Yên.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện và thay đổi
nội dung kháng cáo, đề nghị cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của bà và ông T. Bị đơn đề nghị cấp phúc thẩm giữ nguyên bản
án sơ thẩm. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc phát biểu quan điểm:
- Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ
án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, Thẩm
phán và các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
trong quá trình giải quyết. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã
thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa phúc thẩm.
- Về việc giải quyết vụ án:
+ Không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của bà Nguyễn Thị B.
6
+ Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 19/2024/DS- ST ngày 14 tháng 8
năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Về án phí bà B, ông T được miễn theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị B trong thời hạn theo
quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được Hội đồng xét xử xem xét
theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng cáo của bà Nguyễn Thị B đề nghị cấp phúc thẩm sửa
bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị B và
ông Dương Văn T.
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện đề nghị công nhận giao dịch chuyển nhượng
161m
2
đất vườn của ông T và bà B. Hộ đồng xét xử thấy: ông Dương Văn T và bà
Nguyễn Thị B có diện tích 844,6m
2
đất (200m
2
đất ở và 644,6m
2
đất cây LNK) tại
địa chỉ khu hành chính 14- phường Liên Bảo - thành phố Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh
Phúc. Do có nhu cầu chuyển nhượng đất nên ông Dương Văn T đã thỏa thuận
chuyển nhượng cho ông Lưu Văn L, bà Nguyễn Thị X 161 m
2
(trong đó có 100 m
2
đất ở và 61 m
2
đất trồng cây lâu năm) với số tiền là 14.000.000đ. Ông L, bà X đã
trả cho ông T số tiền 12.000.000đ. Việc thỏa thuận được thể hiện tại đơn xin mua
bán nhà và chuyển quyền sử dụng đất của ông T ngày 10/3/1998 và có xác nhận
của UBND phường Liên Bảo ngày 19/3/1998. Hai bên đã đo đạc vẽ sơ đồ và lập
biên bản kiểm tra hiện trạng ngày 10/3/1998, sơ đồ hiện trạng, trích lục bản đồ đều
có xác nhận của UBND phường Liên Bảo.
Thời điểm ông T chuyển nhượng đất cho ông L, bà X lúc đó bà B đang làm
ăn ở Sơn La nhưng bà B có biết và khi về đã viết giấy xác nhận ngày 12/2/2001 về
việc có bán cho ông L mảnh đất 160 m
2
với giá 14.000.000 đồng và xác nhận ông
L đã trả 9.100.000 đồng. Sau đó ông T có giấy cam đoan ngày 04/01/2003 xác
nhận số tiền đã nhận của ông L, bà X là 12.000.000đ, còn lại 2.000.000đ khi nào
làm thủ tục tách bìa cấp giấy chứng nhận QSDĐ và nộp thuế thì ông L, bà X sẽ
thanh toán nốt.
Sau khi ông T, bà B chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông L, bà X, ông
T đã giao phần diện tích đất 161m
2
cho ông L, bà X quản lý, sử dụng theo biên bản
kiểm tra hiện trạng ngày 10/3/1998 có sơ đồ hiện trạng, trích lục bản đồ và xác
7
nhận của UBND phường Liên Bảo. Năm 1999, ông L, bà X xây dựng 3 gian nhà
cấp 4 trên phần đất nhận chuyển nhượng. Ông T, bà B không có ý kiến gì, đến năm
2020 ông L, bà X đập nhà cấp 4 xây dựng tiếp nhà 2 tầng 1 tum.
Hội đồng xét xử thấy: mặc dù khi chuyển nhượng ông T, bà B chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các bên không lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nhưng ông T viết đơn xin mua bán nhà và chuyển quyền
sử dụng đất ngày 10/3/1998 có xác nhận của UBND phường Liên Bảo, bà B có
viết giấy xác nhận việc chuyển nhượng cho ông Linh, bà X diện tích đất 160 m
2
với giá 14.000.000đồng. Ông L, bà X đã thanh toán cho ông T, bà B 12.000.000đ
trong tổng số 14.000.000 đồng là quá 2/3 giá trị hợp đồng và sử dụng đất từ năm
1998 theo sơ đồ hiện trạng, trích lục bản đồ ngày 10/3/1998, đều có xác nhận của
UBND phường Liên Bảo. Năm 1999, ông L, bà X xây dựng 3 gian nhà cấp 4 và
năm 2020 ông L, bà X đập nhà cấp 4 xây dựng tiếp nhà 2 tầng 1 tum, ông T, bà B
biết nhưng không có ý kiến gì. Theo Án lệ số 55 của Tòa án nhân dân Tối cao và
Nghị quyết số 02/2004 ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
Tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn
nhân gia đình tại phần b.3, tiểu mục 2.3, Mục 2 quy định:
“b.3) Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều
kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi
thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu
năm, đã làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối … thì Toà án
công nhận hợp đồng”.
Do đó cấp sơ thẩm công nhận giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất
theo đơn xin chuyển nhượng nhà và chuyển quyền sử dụng đất ngày 10/3/1998
giữa ông Dương Văn T, bà Nguyễn Thị B với ông Lưu Văn L và bà Nguyễn Thị
X đối với 161m
2
đất (trong đó có 100m
2
đất ở và 61m
2
đất trồng cây lâu năm) tại
thửa đất 23, tờ bản đồ số 50, diện tích 844,6m
2
; địa chỉ: khu 14, TDP Láp Trại,
phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc có hiệu lực là có căn cứ và
phù hợp quy định của pháp luật. Quan điểm bà B cho rằng chỉ chuyển nhượng đất
vườn là không có căn cứ và không được chấp nhận.
[2.2] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc ông , bà X phải thanh
toán số tiền 2.000.000đ từ năm 1998 tương đương với trị giá 22 m
2
đất hiện nay, Hội
đồng xét xử thấy: Ông L bà X chưa thanh toán số tiền 2.000.000đ để theo cam kết
của hai bên để đảm bảo việc ông T, bà B làm thủ tục tách bìa và cấp giấy chứng

8
nhận quyền sử dụng đất cho ông L bà X khi chuyển nhượng chứ không phải ông L,
bà X nợ 2.000.000đ của ông T, bà B. Do ông T, bà B là người có lỗi không thực hiện
theo đúng thỏa thuận giữa hai bên khi lập giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 10/3/1998 là làm thủ tục tách bìa để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông L, bà X nên ông L bà X chưa trả số tiền 2.000.000đ. Vì vậy yêu cầu của
bà B, ông T về việc buộc ông L, bà X phải thanh toán số tiền 2.000.000đ theo hợp
đồng chuyển nhượng từ năm 1998 tương đương với trị giá 22 m
2
đất hiện nay đất là
không có căn cứ nên không được Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm chấp nhận là phù
hợp.
[2.3] Đối với yêu cầu khởi kiện của ông T, bà B về việc ông L, bà X lấn chiếm
51m
2
, quá trình giải quyết cấp sơ thẩm đã tiến hành xác minh, kiểm tra, đo đạc hiện
trạng thửa đất đang tranh chấp (hiện ông L, bà X đang quản lý, sử dụng) có diện tích
là 179 m
2
. Sau khi so sánh đối chiếu hiện trạng thửa đất của ông L, bà X so với diện
tích ông bà nhận chuyển nhượng của ông T bà B tăng 18 m
2
, trong đó về phía tây có
một phần đất ông L, bà X lấn ra đường dân sinh là 2,4 m
2
. Đối với diện tích 15,6 m
2
tăng so với diện tích khi ông L, bà X nhận chuyển nhượng của ông T, bà B là do sai
số do đo đạc, vì trước đây đo bằng thước dây, hiện nay đo bằng máy chính xác hơn.
Đối với diện tích 2,4 m
2
ông L, bà X lấn chiếm ra đường dân sinh Ủy ban nhân dân
phường Liên Bảo không đề nghị giải quyết trong vụ án này nên cấp sơ thẩm không
xem xét giải quyết và không đưa Ủy ban nhân dân phường Liên Bảo vào tham gia tố
tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là phù hợp.
Từ các phân tích và nhận định như trên thấy rằng việc cấp sơ thẩm xét xử
chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc công nhận giao dịch
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T, bà B với ông Linh, bà X theo đơn
xin chuyển nhượng nhà và chuyển quyền sử dụng đất ngày 10/3/1998 với diện tích
là 161m
2
(trong đó có 100 m
2
đất ở và 61 m
2
đất trồng cây lâu năm) và buộc ông L
bà X phải thanh toán cho ông T, bà B 2.000.000đ theo thỏa thuận ngày 10/3/1998
và không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải trả 51m
2
đất
là hợp tình, hợp lý, có căn cứ theo quy định tại Điều 131, 691, 693 của Bộ luật dân
sự năm 1995; Điều 73 của luật đất đai năm 1993; Án lệ số 55 của Tòa án nhân dân
tối cao và Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao. Do đó nội dung kháng cáo của bà B không được cấp phúc
thẩm chấp nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của viện kiểm sát. Tuy

9
nhiên phần quyết định cấp sơ thẩm tuyên chưa rõ ràng nên cấp sơ thẩm điều chỉnh lại
cách tuyên để bản án đảm bảo được thi hành.
[3] Về chi phí tố tụng ông T, bà B đã nộp 4.900.000 đồng. Do yêu cầu của
nguyên đơn được Tòa án chấp nhận một phần nên nguyên đơn và bị đơn mỗi bên phải
chịu 1/2 chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 2.450.000đ . Xác nhận
bà B, ông T đã nộp toàn bộ và chi phí xong. Ông Lưu Văn L và bà Nguyễn Thị X
phải chịu 2.450.000đ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản để trả cho
bà Nguyễn Thị B và ông Dương Văn T.
[4] Về án phí sơ thẩm và phúc thẩm: Bà B, ông T đều là người cao tuổi và có
đơn đề nghị miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về
án phí lệ phí Tòa án nên Hội đồng xét xử miễn án phí cho bà B, ông Thể.
Về phía bị đơn, ông L, bà X phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[5] Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc giải quyết vụ án là có căn
cứ, được xem xét chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: Không chấp
nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị B, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số:
19/2024/DS- ST ngày 14 tháng 8 năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố Vĩnh
Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Căn cứ vào Điều 131, 691, 693 của Bộ luật dân sự năm 1995; Điều 73 của
luật đất đai năm 1993; Án lệ số 55 của Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số
02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa
án; Điều 26 Luật thi hành án dân sự.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Dương Văn T, bà Nguyễn
Thị B.
1.1 Công nhận giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/3/1998
giữa ông Dương Văn T, bà Nguyễn Thị B và ông Lưu Văn L (N), bà Nguyễn Thị
X có hiệu lực pháp luật. Ông Lưu Văn L (N), bà Nguyễn Thị X được quyền sử
dụng là 161 m
2
đất (trong đó có 100m
2
đất ở và 61m
2
đất trồng cây lâu năm) theo

10
chỉ giới là D,C,B,A,10,9,D nằm trong thửa đất số 23, tờ bản đồ số 50 tại Tổ dân
phố , phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc được Ủy ban nhân
dân thành phố Vĩnh Yên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB868244
ngày 28/6/2006 đứng tên hộ ông Dương Văn T và vợ là Nguyễn Thị B (có sơ đồ
kèm theo).
Ông Lưu Văn L và bà Nguyễn Thị X được liên hệ với Cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật.
Ông Dương Văn T và bà Nguyễn Thị B có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà
nước để nộp lại bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB868244 ngày
28/6/2006 để điều chỉnh theo quy định.
1.2. Buộc ông Lưu Văn L và bà Nguyễn Thị X phải thanh toán cho ông
Dương Văn T bà Nguyễn Thị B số tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng), theo giao dịch
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/3/1998.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Văn T, bà Nguyễn
Thị B về việc buộc ông Lưu Văn L và bà Nguyễn Thị X phải trả 51 m
2
đất.
3. Về chi phí phí tố tụng: Bà Nguyễn Thị B và ông Dương Văn T phải chịu
1/2 số tiền xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 2.450.000đ (Hai triệu
bốn trăm năm mươi nghìn đồng), xác nhận bà B, ông T đã nộp đủ. Ông Lưu Văn
L và bà Nguyễn Thị X phải chịu 1/2 số tiền xem xét thẩm định tại chỗ và định giá
tài sản là 2.450.000đ (Hai triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng), để trả cho bà
Nguyễn Thị B và ông Dương Văn T.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị B và ông Dương
Văn T là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên được miễn toàn bộ án phí.
Ông Lưu Văn L, bà Nguyễn Thị X phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)
án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu công nhận giao dịch chuyển nhượng QSDĐ
của nguyên đơn và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với
yêu cầu của nguyên đơn về việc trả số tiền 2.000.000đ. Tổng cộng ông L, bà X
phải chịu 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người
phải thi hành án không thanh toán khoản tiền nêu trên thì người phải thi hành án
phải chịu lãi suất chậm trả của số tiền phải thi hành án là 10%/năm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
11
có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
(Kèm theo bản án là sơ đồ hiện trạng thửa đất).
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- TAND thành phố Vĩnh Yên;
- VKSND thành phố Vĩnh Yên;
- Chi cục THADS thành phố Vĩnh
Yên;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm