Bản án số 231/2024/KDTM-PT ngày 17/09/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về thuê, cho thuê, thuê mua

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 231/2024/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 231/2024/KDTM-PT ngày 17/09/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về thuê, cho thuê, thuê mua
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thuê, cho thuê, thuê mua
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Số hiệu: 231/2024/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/09/2024
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THUÊ MẶT BẰNG
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Ngô Thanh Nhàn
Các Thẩm phán: Ông Lê Công Toại
Ông Đào Quốc Thịnh
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Ngọc Thy T
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia
phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Phương – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 12 ngày 17 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án về kinh doanh
thương mại thụ lý số: 158/2024/TLPT-KDTM ngày 22 tháng 7 năm 2024 về
“Tranh chấp hợp đồng thuê mặt bằng nhà, đất”.
Do Bản án sơ thẩm số 14/2024/KDTM-ST ngày 03 tháng 6 năm 2024 của
Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 4306/2024/QĐ-PT
ngày 01 tháng 8 năm 2024 Quyết định hoãn phiên tòa số 12385/2024/QĐ-PT
ngày 20 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Văn phòng T; Địa chỉ: Số 58 đường , phường VTS, Quận
E, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đ là người đại diện theo
ủy quyền – giấy ủy quyền số 1099-QĐ/VPTU ngày 19/5/2023 (có mặt).
Bị đơn: Công ty TNHH khí Thương mại Dịch vụ hàng hải P; Trụ
sở: số 210 NTT, Phường QE, Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: ông Phạm Thanh T là đại diện theo
pháp luật (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:
- Ông Nguyễn Trà Duy L Luật của Công ty Luật TNHH L thuộc
đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang;
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 231/2024/KDTM-PT
Ngày: 17/9/2024
V/v Tranh chấp hợp đồng thuê
mặt bằng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
- Ông Nguyễn Văn Th Luật sư của Văn phòng Luật sư Nguyễn Văn Th
thuộc đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang;
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH MTV Đầu tư
Xây dựng T; Trụ sở: 185 Chính Thắng, Phường Thị Sáu, Quận 3, Thành
phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp: Phạm Thị Đài Trang người đại diện theo
ủy quyền - giấy ủy quyền số 167/GUQ TT ngày 13/8/2024 (có mặt ngày
12/9/2024, vắng mặt ngày 17/9/2024)
Người kháng cáo: Công ty TNHH khí Thương mại Dịch vhàng
hải P.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 22/5/2023 quá trình tố tụng tại Tòa án
cấp sơ thẩm đại diện nguyên đơn trình bày:
Nguyên đơn Văn phòng T chủ sở hữu đối với quyền sử dụng đất
công trình xây dựng tọa lạc tại: Thửa đất số: 5, tờ bản đồ số: 14, địa chỉ: 210
NTTh, Phường QE, Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh; diện tích 44,1 m
2
; theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất số BP 443909, số vào số cấp GCN CT 33250, do Sở Tài nguyên
Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/03/2014.
Ngày 15/04/2015, Văn phòng T Công ty trách nhiệm hữu hạn khí -
Thương mại - Dịch vhàng hải P (gọi tắt Công ty P) kết Hợp đồng số
1083-HĐ/VPTU (gọi tắt Hợp đồng 1083) về việc cho thuê mặt bằng nhà, đất
tại địa chỉ số 210 NTTh, Phường QE, Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo
Hợp đồng, Văn phòng T là Bên cho thuê và Công ty P là Bên thuê; thời gian cho
thuê 5 năm, từ ngày 01/04/2015 đến ngày 01/04/2020; giá cho thuê (đã bao
gồm thuế giá trị giá tăng) 10.000.000 đồng/tháng, Công ty bđơn đặt cọc cho
nguyên đơn số tiền 30.000.000 đồng (tương đương 03 tháng tiền thuê mặt
bằng), stiền đặt cọc này nguyên đơn đồng ý trừ vào tiền nợ thuê mặt bằng bị
đơn còn thiếu. Sau khi hết hạn hợp đồng, Văn phòng T đã nhiều lần đề nghị
Công ty P thanh toán công nbàn giao mặt bằng, tuy nhiên Công ty P không
thực hiện bàn giao mặt bằng thuê đã hết hạn và cũng không thanh toán tiền thuê
từ ngày 01/03/2020. Do đó, Công ty P nghĩa vụ phải trả tiền thuê cho Văn
phòng T trong thời gian chậm thực hiện bàn giao. sở cho việc áp dụng g
thuê trong thời gian chậm bàn giao 16.577.638 đồng/tháng từ ngày 01/4/2020
đến ngày 17/8/2023. Trước khi hết thời hạn thuê theo hợp đồng Văn phòng T đã
thông báo cho Công ty P gcho thuê trong thời gian chậm bàn giao được thực
hiện theo kết quả thẩm định giá của quan chức năng. Sau đó, qua các Công
văn số 15232-CV/VPTU ngày 17/4/2020, Công văn số 15452-CV/VPTU ngày
04/5/2020, Công văn số 16252-CV/VPTU ngày 10/7/2020, Công văn số 1160-
CV/VPTU ngày 22/01/2021, Công văn số 4133-CV/VPTU ngày 16/12/2021
Văn phòng T gửi đến Công ty P cũng nêu ý kiến này. Phía Công ty P sau khi
nhận được các thông báo trên đã không ý kiến về giá thuê hoặc ý kiến
sẽ trả lại mặt bằng nếu áp dụng giá mới, chỉ yêu cầu được gia hạn thời gian
3
thuê dù Văn phòng T không thể chấp nhận. Thực tế, ngày 15/8/2023 căn cứ theo
Biên bản làm việc giữa hai bên thì Công ty P mới đề nghị xem xét lại giá, nhưng
đề nghị này sau khi đã sử dụng mặt bằng hơn 03 năm là không hợp lý. Do đó,
Công ty P nghĩa vụ thanh toán giá thuê 16.557.638 đồng/tháng, theo kết
quả thẩm định giá tại Chứng tthẩm định giá số 0736.01/09.20/SGN/EXIMA
ngày 16/09/2020.
Tại phiên tòa thẩm Văn phòng T yêu cầu Tòa án nhân dân Quận 4
tuyên xử:
1. Chấm dứt hợp đồng thuê nhà, đất số 1083-HĐ/VPTU ngày 15/04/2015
do đã hết thời hạn thuê theo khoản 4.2 Điều 4 ngày 01/3/2020.
2. Buộc Công ty P bàn giao nguyên trạng tài sản nhà, đất tại địa chỉ số 210
NTTh, Phường QE, Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh cho Văn phòng T. Tại
phiên a hôm nay nguyên đơn xin rút lại yêu cầu này m theo chứng cứ là
biên bản bàn giao mặt bằng ngày 21/8/2023, ngày thực tế bàn giao ngày
17/8/2023.
3. Buộc Công ty P phải thanh toán tiền nợ thuê mặt bằng và tiền lãi chậm
trả tính đến ngày 30/5/2024, cụ thể như sau:
- Tiền thuê mặt bằng còn nợ theo Hợp đồng số 1083-HĐ/VPTU ngày
15/4/2015 từ ngày 01/02/2020 đến ngày 31/3/2020 (theo giá 10.000.000
đồng/tháng) là 10.800.000 đồng.
- Tiền thuê mặt bằng phát sinh do Công ty P không bàn giao mặt bằng
thuê từ ngày 01/4/2020 đến ngày 17/8/2023 tương ứng số tháng 40,5 tháng,
giá thuê 16.557.638 đồng/tháng = 670.584.339 đồng. Tổng cộng được tính toán
cấn trừ như sau: 10.800.000 đồng tiền nợ thuê mặt bằng trong hợp đồng +
670.584.633 đồng tiền nthuê mặt bằng phát sinh - 30.000.000 đồng tiền đặt
cọc = 651.384.633 đồng.
Số tiền lãi chậm trả tạm tính từ tháng 05/2020 đến 30/5/2024:
155.619.705 đồng (theo bảng tính lãi kèm theo) tổng cộng 807.004.044 đồng.
Căn cứ tính lãi:
- Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự 2015.
- Căn cứ khoản 3.2 Điều 3 của Hợp đồng 1083, Văn phòng T Công ty
P đã thỏa thuận “trong trường hợp Bên B không thanh toán đầy đủ tiền thuê mặt
bằng nhà đất đúng thời gian theo quy định nêu trên, thì ngoài số tiền thuê trên,
Bên B còn trả thêm tiền phạt chậm trả với lãi suất quá hạn do Ngân hàng Nhà
nước quy định vào cùng thời điểm trên tổng số tiền phải thanh toán cho Bên A.
- Đề nghị áp dụng mức lãi suất phát sinh do chậm trả tiền 10%/năm
theo quy định tại khoản 1 khoản 2 Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân
sự 2015. Việc bị đơn nại do không người của nguyên đơn đến nhận bàn
giao trong thời gian chậm bàn giao là hoàn toàn không có chứng cứ gì, ngày bàn
giao mặt bằng thực tế là ngày 17/8/2023. Thực tế nguyên đơn gửi rất nhiều công
văn cho bị đơn, phía bị đơn không ý kiến hay thông báo muốn bàn giao
lại mặt bằng.
4
Bị đơn Công ty TNHH cơ khí – thương mại –dịch vụ hàng hải P trình bày:
Ngày 17/4/2020, Văn phòng T Công văn số 15232-CV/VPTU về thông
báo thời gian thu hồi mặt bằng cho thuê đối với Công ty P, Công ty P đã trao đổi
với Văn phòng T vào ngày 26/4/2020 trình bày Công ty đã thuê mặt bằng sử
dụng làm trụ sở Công ty 20 năm, trong quá trình thuê mặt bằng Công ty luôn
chấp hành quy định trong việc thuê mặt bằng, đồng thời thường xuyên sửa chữa,
bảo quản mặt bằng. Nguyện vọng của Công ty là mong muốn được tiếp tục thuê
mặt bằng này để hoạt động, đồng thời mong Văn phòng T xem xét h trợ cho
Công ty phần chi phí sửa chữa mặt bằng 189.200.000 đồng.
Ngày 04/05/2020, Văn phòng T gởi công văn phúc đáp đề nghị Công
ty P tiến hành di dời các trang thiết bị bàn giao mặt bằng ngày 11/05/2020,
nhưng ngày 11/5/2020 không có người của Văn phòng T nhận bàn giao.
Ngày 10/07/2020, Văn phòng T gửi công văn 16252/CV/VPTU đ
nghị Công ty P thanh hợp đồng trước ngày 03/08/2020 không điều kiện
kèm theo. Công ty chnhưng vẫn không thấy bên Văn phòng T trả lời về việc
thanh lý hợp đồng.
- Căn cứ vào nội dung buổi làm việc ngày 28/12/2021 tại 210 NTT,
Phường QE, Quận R, giữa Văn phòng T, Công ty T Công ty P, nội dung đề
nghị thu hồi mặt bằng các bên kết luận trong biên bản: Kể từ ngày 28 tháng
12 năm 2021, Công ty T được ủy quyền tiếp nhận mặt bằng nhà, đất cho thuê
tại địa chỉ số 210 NTT, Phường QE, Quận R hiện do Công ty P thuê; Hợp đồng
thuê số 1083-HĐ/VPTU ngày 15 tháng 4 năm 2015, để thay mặt Văn phòng T
tiếp tục xử lý các vấn đề nêu tại mục 5,6 nêu trên.
Công ty P thuê căn nhà số 210 NTT, Phường QE, Quận R làm trụ sở văn
phòng đã 20 năm, các mối quan hệ khách hàng sửa chữa khí quen biết qua
nhiều năm, nếu phải đi nơi khác Công ty gặp rất nhiều khó khăn nên Công ty
kính mong được lãnh đạo Văn phòng T xem xét trong tình hình đại dịch Covid-
19.
Ngày 20/4/2022, Công ty T công văn số 195/CV/IT về việc bàn giao
mặt bằng nhà đất thuê nhưng vẫn không có người nhận bàn giao.
Ngày 25/5/2022, Công ty T có công văn số 354/TM-TT nội dung họp liên
quan đến mặt bằng nhà số 210 NTT, Phường QE, Quận R nhưng vẫn không
người nhận bàn giao nhà đất.
Ngày 14/9/2022, Văn phòng T gởi công văn 456/GM/VPTU nội dung
họp vào ngày 19/09/2022, tham gia buổi làm việc liên quan đến hợp đồng thuê
mặt bằng nhà 210 NTT, Phường QE, Quận R sau đó vẫn chưa người nhận
bàn giao.
Ngày 09/08/2023, Văn phòng T gửi công văn 560/GM/VPTU nội
dung ngày 15/08/2023 họp liên quan đến mặt bằng nhà số 210 NTT, Phường 13
Quận 4, biên bản cuộc họp các bên liên quan. Ngày 17/08/2023, đã biên
bản bàn giao, tiếp nhận mặt bằng nhà, đất tại địa chỉ 210 NTT, Phường QE,
Quận R giữa ng ty T và Công ty P.
5
* Tại phiên tòa sơ thẩm Công ty P có ý kiến như sau:
1. Bị đơn đồng ý Chấm dứt hợp đồng thuê nhà, đất số 1083-HĐ/VPTU
ngày 15/04/2015 do đã hết thời hạn thuê theo khoản 4.2 Điều 4 ngày 01/3/2020.
2. Bị đơn đồng ý thanh toán tiền thuê mặt bằng còn nợ theo Hợp đồng cho
thuê mặt bằng nhà, đất tại địa chỉ 210 Đường NTT, Phường QE, Quận R số
1083-HĐ/VPTU ngày 15/4/2015 tngày 01/02/2020 đến ngày 31/3/2020 (theo
giá 10.000.000 đồng/tháng) 10.800.000 đồng. Đồng thời, Công ty đồng ý cấn
trừ số tiền đặt cọc 30.000.000 đồng vào tiền thuê mặt bằng còn nợ nguyên đơn.
3. Đồng ý thanh toán tiền thuê mặt bằng phát sinh khi hết hạn hợp đồng từ
ngày 01/4/2020 đến ngày 17/8/2023 (ngày bàn giao mặt bằng thực tế) tương ứng
số tháng là 40,5 tháng theo giá thuê 10.000.000/tháng như giá thỏa thuận tại hợp
đồng thuê mặt bằng số 1083.
Bị đơn ý kiến xin Văn phòng T xem xét miễn cho Công ty bị đơn tiền
thuê mặt bằng nhà, đất của khoảng thời gian từ tháng 05/2019 đến tháng
05/2021.
4. Tiền lãi chậm trả b đơn cũng không đồng ý thanh toán Công ty
nhiều lần chuẩn bị sẵn mặt bằng để bàn giao nhưng phía Thành ủy và Công ty T
không đến nhận. Từ khi yêu cầu bàn giao mặt bằng, phía bị đơn chỉ còn để
vài vật dụng bàn ghế, 02 bảo vệ ở lại để giữ tài sản đến ngày bàn giao chính thức
là 17/8/2023. Từ năm 2020 đến nay dịch covid Công ty không hoạt động tại mặt
bằng 210 NTT. Tuy nhiên, đến nay Công ty chưa làm thủ tục để xin thay đổi trụ
sở. Phía bị đơn không được nguyên đơn thông báo giá thuê mới hai bên cũng
không tiến hành hợp đồng thỏa thuận giá mới nên bđơn không đồng ý áp
dụng giá thuê mới là 16.557.638 đồng/tháng.
Bị đơn xác định toàn bộ ý kiến trên chỉ ý kiến của phía bị đơn, không
phải yêu cầu phản tố và bị đơn cũng không đóng tạm ứng án phí yêu cầu phản
tố.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH MTV Đầu
Xây dựng T có người đại diện theo ủy quyền trình bày như sau:
Ngày 17/9/2021, Văn phòng T ban hành Quyết định số 355-QĐ/VPTU về
ủy quyền cho Công ty T thực hiện một số giao dịch dân sự liên quan đến quản
lý, khai thác cho thuê tài sản nhà, đất có mục đích sản xuất kinh doanh của Đảng
bộ thành phố, trong đó địa chỉ nhà, đất tại số 210 NTTh, Phường QE, Quận
R, Thành phố Hồ Chí Minh. Thực hiện nội dung ủy quyền nêu trên, Công ty T
đã nhiều lần liên hệ, yêu cầu Công ty P giao trả mặt bằng nhà, đất cho Công ty T
tiếp nhận, quản lý theo chủ trương của cấp có thẩm quyền. Tuy nhiên, Công ty P
không chủ động giao trả mặt bằng cho Công ty T và luôn đề nghị sẽ trao đổi với
Văn phòng T để xem xét, mong muốn được tiếp tục thuê mặt bằng.
Ngày 20/4/2022, Công ty T gửi Công văn số 195/CV-TT đến Công ty P.
Theo đó đề nghị Công ty P sớm di dời tài sản, các trang thiết bị và tiến hành bàn
giao mặt bằng nhà, đất cho Công ty T trước ngày 16/5/2022.
Ngày 09/6/2022, Công ty T mời Công ty P đến trụ sở văn phòng Công ty
6
T để yêu cầu bàn giao mặt bằng trao đổi một số vấn đề liên quan đến Hợp
đồng thuê mặt bằng nhà, đất số 210 NTT theo Thư mời số 354/TM-TT ngày
25/5/2022. Tại buổi m việc, Công ty P ý kiến như sau: Về công nợ Công
ty P sẽ làm việc với Văn phòng T. Sau khi làm việc với Văn phòng T sẽ chốt
thời gian bàn giao mặt bằng cho Công ty T”.
Ngày 15/8/2023, các bên có buổi làm việc trực tiếp tại trụ sở Văn phòng T
để giải quyết các vấn đề liên quan đến Hợp đồng thuê mặt bằng đã giao kết.
Qua buổi làm việc, Công ty P đồng ý bàn giao mặt bằng trống cho Công ty T
vào lúc 10 giờ ngày 17/8/2023, đồng thời đề nghị Văn phòng T xem xét lại phần
công nợ.
Ngày 17/8/2023, Công ty T chính thức tiếp nhận bàn giao mặt bằng nhà,
đất tại địa chỉ số 210 NTTh, Phường QE, Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh từ
Công ty P. Riêng đối với nghĩa vụ thanh toán tiền thuê tiền lãi chậm thanh
toán, Công ty P vẫn chưa thực hiện. Công ty T ý kiến đề nghị chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn.
Tại Bản án thẩm số 14/2024/KDTM-ST ngày 03 tháng 6 năm 2024 của
Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Văn phòng T Thành phố
Hồ Chí Minh.
1.1. Ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc chấm dứt Hợp đồng
thuê nhà số 1083-HĐ/VPTU ngày 15/04/2015.
1.2. Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn Công ty TNHH khí Thương
mại Dịch vụ hàng hải P trả cho nguyên đơn Văn phòng T Thành phố Hồ Chí
Minh số tiền thuê mặt bằng nhà, đất từ ngày 01/02/2020 đến ngày 31/3/2020 số
tiền là 10.800.000 đồng.
Buộc Công ty TNHH Cơ khí Thương mại – Dịch vụ hàng hải P trách
nhiệm trả cho Văn phòng T Thành phố Hồ Chí Minh số tiền nthuê mặt bằng
phát sinh từ ngày 01/4/2020 đến ngày 17/8/2023 gồm: 16.557.638 đồng x 40.5
tháng = 670.584.339 đồng và tiền lãi chậm thanh toán tính từ ngày 01/4/2020
đến ngày 30/5/2024 là 155.619.705 đồng.
Cụ thể như sau: 10.800.000 đồng + 670.584. 339 đồng - 30.000.000 đồng
tiền đặt cọc = 651.384.339 đồng, lãi chậm thanh toán tính đến ngày 30/5/2024
số tiền là 155.619.705 đồng. Tổng cộng số tiền Công ty TNHH Cơ khí –
Thương mại Dịch vhàng hải P phải thanh toán là 807.004.044 đồng. Theo
Hợp đồng số 1083-HĐ/VPTU ngày 15/4/2015.
Về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vtrả tiền: Trường hợp bên
nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng
với thời gian chậm trả theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại
thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.
1.3. Đình chỉ yêu cầu buộc Công ty P bàn giao nguyên trạng tài sản nhà,
đất tại địa chỉ số 210 NTT, Phường QE, Quận R, Tp. Hồ Chí Minh cho Văn
phòng T Thành phố Hồ Chí Minh.
7
Ngoài ra bản án còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí, quyền kháng cáo
nghĩa vụ thi hành án của đương sự.
Ngày 21/6/2024, Công ty P nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án thẩm
với lý do quyết định của bản án sơ thẩm là không chính xác, không đúng sự thật,
không phù hợp thực tế khách quan diễn ra ra quá trình giải quyết giữa hai bên
gây thiệt thòi quyền lợi chính đáng, hợp pháp của Công ty P, đề nghị Tòa án cấp
phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.
* Tại phiên tòa Phúc thẩm:
Người đại diện hợp pháp của bị đơn - Công ty P trình bày: Công ty P đề
nghị cấp phúc thẩm xem xét lại phần quyết định của bản án thẩm đã giải
quyết chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả tiền thuê nhà
trong thời gian từ ngày 01/4/2020 đến ngày 17/8/2023 và tiền lãi do chậm thanh
toán là không hợp lý bởi những lý do như sau:
- Nguyên đơn yêu cầu trả lại mặt bằng nhưng không giải quyết chi phí sửa
chữa cho bị đơn;
- Thời điểm hết hạn hợp đồng thời điểm đang có dịch covid nên bị đơn
khó khăn trong việc tìm chỗ mới cũng như di dời;
- Bị đơn để nghị gia hạn hợp đồng nhưng nguyên đơn không ý kiến
trả lời đồng ý hay không;
- Bị đơn đã đề nghị bàn giao mặt bằng nhiều lần nhưng nguyên đơn
không cử người đến nhận.
Người bảo vquyền lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: Sau khi hết
hạn hợp đồng bị đơn nhiều lần đề nghị giao trả mặt bằng nhưng nguyên đơn
người liên quan không đến nhận. Mặc nguyên đơn gửi văn bản đề nghị bị
đơn trả mặt bằng nhưng nguyên đơn đã không hành động quyết liệt để buộc
bị đơn phải giao mặt bằng. Nguyên đơn chỉ gửi văn bản yêu cầu bị đơn trả mặt
bằng nhưng không chứng minh được việc đã đến nhận mặt bằng nhưng bị đơn
không bàn giao do vậy bị đơn không có lỗi trong việc chậm giao tra mặt bằng.
- Khi hợp đồng thuê hết hạn, nguyên đơn bị đơn không một sự thỏa
thuận nào về việc gia hạn hợp đồng hay giao kết hợp đồng mới, do vậy giữa
nguyên đơn bị đơn phát sinh giao dịch về hợp đồng thuê trong thời gian từ
ngày 01/4/2020 đến ngày 17/8/2023, nên bị đơn không phát sinh nghĩa vụ trả
tiền thuê chịu tiền lãi do chậm thanh toán tiền thuê. Án thẩm chấp nhận
giá thuê do nguyên đơn t áp đặt 16.600.000 đồng theo giá thị trường
không xem xét việc mặt bằng có giá thuê tăng là nhờ bị đơn đã bỏ tiền ra cải tạo
nên mới có giá đó là chưa xem xét quyền lợi hợp pháp của bị đơn.
- Năm 2020 trong giai đoạn xảy ra dịch covid sự kiện bất khả kháng
theo quy định của pháp luật do vậy bị đơn cũng không phải chịu trách nhiệm
dân sự về việc trả tiền thuê nhà cho hợp đồng hay không hợp đồng
thuê.
- Đồng thời bản án thẩm còn nhiều thiếu sót như không đưa Thành
ủy Thành phố Hồ Chí Minh là chủ sở hữu tài sản vào tham gia tố tụng.
8
Từ những sở trên đề nghị cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án thẩm
bác yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn thanh toán tiền thuê nhà tiền lãi trong
thời gian sau khi hết hạn hợp đồng thuê hoặc hủy án do vi phạm tố tụng.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn - Văn phòng T trình bày:
Những nội dung kháng cáo của Công ty P không phù hợp với quy định của
pháp luật, bản án thẩm đã giải quyết đúng pháp luật nên đề nghị không chấp
nhận kháng cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người đại diện hợp pháp của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan -
Công ty TNHH MTV Đầu Xây dựng T trình bày: Đồng ý với ý kiến trình
bày của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự của những người tiến hành tố tụng,
những người tham gia tố tụng phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như
sau:
Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử các
đương sđã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự vphiên
tòa phúc thẩm.
Về nội dung: Xét đơn kháng cáo còn trong thời hạn kháng cáo, hình
thức đúng quy định. Kháng cáo của Công ty P là không có cơ sở nên đề nghị bác
toàn bộ kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ, ý kiến trình bày của người kháng
cáo, lời tnh bày của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ý kiến
phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Cấp sơ thẩm thgiải quyết vụ án đúng theo thẩm quyền, xác định
quan htranh chấp cách tham gia tố tụng của các đương sự trong vụ án
đúng theo quy định của Pháp luật Tố tụng.
[2] Đơn kháng cáo của Công ty P bị đơn còn trong thời hạn kháng cáo,
có hình thức và nội dung đúng quy định nên được chấp nhận.
[3] Xét kháng cáo của Công ty P:
[4] Xét kháng cáo về thiếu người tham gia tố tụng: Bị đơn cho rằng cần
phải triệu tập Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh vào tham gia tố tụng với do
Thành uỷ là chủ sở hữu tài sản thuê là không cần thiết, tranh chấp phát sinh giữa
nguyên đơn và bị đơn phát sinh từ việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mỗi
bên được quy định trong hợp đồng thuê đã giữa các bên, Thành uỷ Thành
phố Hồ Chí Minh không phải một bên chủ thể trong hợp đồng thuê và cũng
không phát sinh quyền và nghĩa vụ từ việc giải quyết tranh chấp trong vụ án này.
Do vậy, nội dung kháng cáo này của bđơn không sở nên không được
chấp nhận.
[5] Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ tại hồ sơ lời trình bày của các
bên, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định những tình tiết sự kiện không phải chứng
9
minh theo quy định của Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự, như sau: Hợp đồng số
1083-HĐ/VPTU (gọi tắt Hợp đồng 1083) ngày 15/4/2015 về việc nguyên đơn
cho bị đơn thuê mặt bằng nhà, đất địa chỉ số 210 NTTh, Phường QE, Quận R,
Thành phố Hồ Chí Minh; thời gian cho thuê 5 năm, từ ngày 01/04/2015 đến
ngày 01/04/2020. Hợp đồng thể hiện ý chí tự nguyện giao kết của các bên,
hình thức và nội dung không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
hội nên phát sinh hiệu lực. Hợp đồng này đã hết thời hạn thực hiện từ ngày
01/04/2020 đồng thời giữa các bên không có thỏa thuận gia hạn hay giao kết hợp
đồng mới.
[6] Đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn trả tiền thuê mặt bằng
nhà, đất còn nợ trong thời hạn hợp đồng từ ngày 01/02/2020 đến ngày
31/3/2020 với số tiền 10.800.000 đồng: Tại phiên tòa thẩm bị đơn đã xác
nhận đồng ý thanh toán số tiền này nên Hội đồng xét xử thẩm ghi nhận là
phù hợp. Bị đơn không kháng cáo nội dung này do đó cần ginguyên phần
quyết định này của bản án sơ thẩm.
[7] Đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn tiếp tục trả tiền thuê mặt
bằng nhà, đất tiền lãi chậm trả sau khi hết hạn hợp đồng từ ngày 01/4/2020
đến ngày 30/5/2024:
[8] Theo nguyên đơn trình bày sau khi hết hạn hợp đồng từ ngày
01/4/2020 mặc dù nguyên đơn đã gửi nhiều văn bản yêu cầu trả mặt bằng nhưng
b đơn vẫn tiếp tục sử dụng mặt bằng thuê từ ngày 01/4/2020 đến ngày
17/8/2023 thì mới giao trả nhà, nên bị đơn phải trả tiền thuê tính từ ngày
01/4/2020 đến ngày 17/8/2023 tương ứng số tháng là 40,5 tháng, với giá thuê đã
được nguyên đơn thông báo 16.557.638 đồng/tháng, nên tổng số tiền phải trả
670.584.339 đồng. Nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh các Công
văn số 15232-CV/VPTU ngày 17/4/2020, số 16252-CV/VPTU ngày 10/7/2020
đã gửi cho bđơn phù hợp với quy định về nghĩa vụ chứng minh của người
khởi kiện được quy định tại khoản 1 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[9] Phía bị đơn xác nhận đến ngày 17/8/2023 mới chính thức bàn giao tài
sản thuê cho nguyên đơn, nhưng không đồng ý trả tiền thuê từ ngày 01/4/2020
đến ngày 17/8/2023 với do nguyên đơn không đến để nhận bàn giao, phía bị
đơn đã không trực tiếp sử dụng mặt bằng để hoạt động kinh doanh, chỉ để vài
vật dụng như bàn, ghế cử 02 bảo vệ trông coi tài sản, nhưng bị đơn không
xuất trình tài liệu chứng cứ nào để chứng minh cho lời trình bày này lại
yêu cầu nguyên đơn phải chứng minh về việc đã đến nhận nhưng bị đơn không
giao là vi phạm quy định về nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại khoản 2
Điều 91 của Bộ luật Tố tụng n sự, như sau: Đương sự phản đối yêu cầu của
đương sự khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản phải thu thập, cung
cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối
đó”. Đồng thời do bị đơn nêu ra cũng không phù hợp với quy định của
pháp luật về nghĩa vụ trả lại tài sản thuê khi hết hạn hợp đồng thuê, cụ thể theo
quy định tại khoản 4 Điều 482 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Khi bên thuê
chậm trả tài sản thuê thì bên cho thuê quyền yêu cầu bên thuê trả lại tài sản
thuê, trả tiền thuê trong thời gian chậm trả phải bồi thường thiệt hại; bên
10
thuê phải trả tiền phạt vi phạm do chậm trả tài sản thuê, nếu thỏa thuận.
Chứng cứ trong hồ thể hiện bị đơn đã nhiều lần nhận Công văn của nguyên
đơn yêu cầu bị đơn bàn giao trả tài sản thuê, nhưng bị đơn không giao trả
không do chính đáng. Thực tế bị đơn vẫn chưa giao trả tài sản thuê đến
ngày 17/8/2023 nên bđơn phải chịu trách nhiệm về việc chậm giao trả tài sản
thuê theo quy định nêu trên. Bản án cấp sơ thẩm đã nhận định và chấp nhận yêu
cầu của nguyên đơn đòi bị đơn phải trả tiền thuê từ ngày 01/4/2020 đến ngày
17/8/2023 phù hợp quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm bị đơn kháng
cáo nội dung này nhưng cũng không cung cấp được tài liệu chứng cứ để chứng
minh nên không có cơ sở Hội đồng xét xử xem xét.
[10] Về số tiền nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả 670.584.339 đồng:
Bị đơn kháng cáo không đồng ý trả với do chưa sthống nhất vgiá thuê
mà nguyên đơn đưa ra 16.600.000 đồng/tháng và chưa xem xét áp dụng miễn
giảm giá thuê do ảnh hưởng của dịch covid là sự kiện bất khả kháng.
[11] Xét thấy, khi sắp hết hạn hợp đồng nguyên đơn đã các Công văn
s15232-CV/VPTU ngày 17/4/2020, số 16252-CV/VPTU ngày 10/7/2020 để
thông báo yêu cầu bị đơn phải giao trả mặt bằng sau khi hết hạn hợp đồng thuê,
trong đó nội dung sẽ áp dụng giá cho thuê trong thời gian bị đơn chậm bàn
giao được thực hiện theo kết quả thẩm định giá của quan chức năng. Sau đó,
tại Công văn số 1160-CV/VPTU ngày 22/01/2021 nguyên đơn đã thông báo cho
bị đơn về giá thuê áp dụng trong thời gian chậm giao mặt bằng bắt đầu từ ngày
01/4/2020 sẽ 16.600.000 đồng/một tháng. Bđơn đã nhận được các văn bản
này nhưng không ý kiến phản đối về giá thuê phải trả, đồng thời vẫn tiếp tục
quản mặt bằng thuê cho đến ngày 17/8/2023. Nvậy, tại thời điểm nhận
thông báo bị đơn không phản đối giá thuê, vẫn tiếp tục sdụng mặt bằng trong
1 thời gian dài 40,5 tháng nhiều lần đề nghị nguyên đơn gia hạn hợp đồng
nên sở xác định bị đơn đã chấp nhận với giá thuê mới do nguyên đơn đưa
ra giữa các bên đã hình thành 1 thỏa thuận về giá thuê trong thời gian chậm
giao trả mặt bằng 16.600.000 đồng/tháng. Sau khi nguyên đơn khởi kiện,
trong quá trình tố tụng tại Tòa án bị đơn nêu ý kiến không đồng ý giá thuê mới
không căn cứ để xem xét. Bản án cấp thẩm đã chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn buộc bị đơn phải trả số tiền 670.584.339 đồng phù hợp. Tại cấp
phúc thẩm bị đơn kháng cáo nội dung này nhưng cũng không cung cấp được tài
liệu chứng cứ để chứng minh nên không sở đHội đồng xét xử xem
xét.
[12] Về yêu cầu áp dụng sự kiện bất khả kháng để loại trừ nghĩa vụ của
bị đơn: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 161 Bộ luật Dân sự 2015 thì “Sự kiện
bất khả kháng” được hiểu sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể
lường trước được không thể khắc phục được mặc đã áp dụng mọi biện
pháp cần thiết khả năng cho phép. Như vậy, theo quy định này, một sự kiện
được xem sự kiện bất khả kháng nếu đủ 03 yếu tố: (i) khách quan, (ii) không
thể lường trước, (iii) không thể khắc phục. B đơn cho rằng covid 19 sự
kiện khách quan và không lường trước, tuy nhiên bị đơn không lý giải hợp lý và
chứng minh phù hợp về việc đã làm mọi biện pháp nhưng không thực hiện được
việc giao trả tài sản thuê cho nguyên đơn trong khoảng thời gian chậm giao trả
11
từ ngày 01/4/2020 đến ngày 17/8/2023. Do đó, bị đơn nêu do sự kiện dịch
covid để yêu cầu miễn trừ nghĩa vụ trong toàn bộ thời gian từ ngày 01/4/2020
đến 17/8/2023 là không có căn cứ để xem xét. Do vậy kháng cáo này của bị đơn
không được chấp nhận.
[13] Về yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tiền lãi chậm trả trên
số tiền thuê mặt bằng còn nợ tính từ tháng 05/2020 đến ngày 30/5/2024 theo
mức lãi suất 10%/năm, với số tiền cụ thể 155.619.705 đồng. Nhận thấy, Điều
306 Luật thương mại quy định Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh
toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ các chi phí hợp khác
thì bên bị vi phạm hợp đồng quyền yêu cầu trả lãi trên số tiền chậm trả đó
theo mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán
tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp
luật quy định khác”, nên yêu cầu này của nguyên đơn căn cứ pháp luật.
Bản án cấp sơ thẩm đã căn cứ mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại
thời điểm xét xử sơ thẩm 13,5%/năm để chấp nhận mức lãi suất do nguyên
đơn yêu cầu 10%/năm với số tiền 155.619.705 đồng phù hợp. Tại cấp phúc
thẩm bị đơn kháng cáo nội dung này nhưng cũng không nêu được căn cứ phù
hợp cung cấp chứng cứ để chứng minh nên không sở đHội đồng xét
xử xem xét.
[14] Như vy, toàn b kháng cáo ca phía b đơn đã nêu tại cp phúc
thm là không có căn cứ nên không đưc Hội đồng xét x chp nhn. Bản án sơ
thm đã căn cứ yêu cu khi kin li trình bày của nguyên đơn, b đơn cùng
vi các tài liu chng c ti h để chp nhn yêu cu khi kin ca phía
nguyên đơn buc b đơn phải thanh toán “số tiền nợ thuê mặt bằng phát sinh từ
ngày 01/4/2020 đến ngày 17/8/2023 gồm: 16.557.638 đồng x 40.5 tháng =
670.584.339 đồng tiền lãi chậm thanh toán tính tngày 01/4/2020 đến ngày
30/5/2024 155.619.705 đồngphù hp. Phía b đơn không kháng cáo v s
liu tính toán ca tin gc tin lãi như bản án thẩm đã tuyên, do vậy Hi
đồng xét x gi nguyên phn quyết định này ca bản án thẩm. Đề nghị của
đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét
xử nên chấp nhận. Nhng phn ca bản án thm không kháng cáo được
gi nguyên.
[15] Về án phí: Do bản án thẩm được giữ nguyên nên người kháng cáo
phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng
dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: khoản 1 Điều 148, Điều 271, Điều 273, Điều 296, khoản 1
Điều 308 Bộ luật T tụng dân sự; khoản 1 Điều 29 Ngh quyết s
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca Ủy ban Thường v Quc hi quy
định v mc thu, min, gim, thu, np, qun s dng án phí l phí Tòa
án.
Tuyên xử:
12
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ng ty TNHH Cơ khí
Thương mại – Dịch vụ hàng hải P. Giữ nguyên bản án sơ thẩm:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Văn phòng T Thành phố
Hồ Chí Minh.
1.1. Ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc chấm dứt Hợp đồng
thuê nhà số 1083-HĐ/VPTU ngày 15/04/2015.
1.2. Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn Công ty TNHH khí Thương
mại Dịch vụ hàng hải P trả cho nguyên đơn Văn phòng T Thành phố Hồ Chí
Minh số tiền thuê mặt bằng nhà, đất từ ngày 01/02/2020 đến ngày 31/3/2020 số
tiền là 10.800.000 đồng.
Buộc Công ty TNHH Cơ khí Thương mại – Dịch vụ hàng hải P trách
nhiệm trả cho Văn phòng T Thành phố Hồ Chí Minh số tiền nợ thuê mặt bằng
phát sinh tngày 01/4/2020 đến ngày 17/8/2023 gồm: 16.557.638 đồng x 40.5
tháng = 670.584.339 đồng tiền lãi chậm thanh toán tính từ ngày 01/4/2020
đến ngày 30/5/2024 là 155.619.705 đồng.
Cụ thể như sau: 10.800.000 đồng + 670.584. 339 đồng - 30.000.000 đồng
tiền đặt cọc = 651.384.339 đồng, lãi chậm thanh toán tính đến ngày 30/5/2024
số tiền là 155.619.705 đồng. Tổng cộng số tiền Công ty TNHH Cơ khí –
Thương mại Dịch vụ hàng hải P phải thanh toán là 807.004.044 đồng. Theo
Hợp đồng số 1083-HĐ/VPTU ngày 15/4/2015.
Về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền: Trường hợp bên
nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng
với thời gian chậm trả theo mc lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại
thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.
1.3. Đình chỉ yêu cầu buộc Công ty TNHH khí Thương mại Dịch
vụ hàng hải P bàn giao nguyên trạng tài sản nhà, đất tại địa chỉ số 210 NTTh,
Phường QE, Quận R, Thành phố Hồ Chí Minh cho Văn phòng T Thành phố Hồ
Chí Minh.
2. Về án phí sơ thẩm:
Công ty TNHH khí Thương mại Dịch vụ hàng hải P phải nộp án
phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 36.210.121 đồng.
Hoàn trả cho Văn phòng T Thành phố Hồ Chí Minh số tiền tạm ứng án
phí mà nguyên đơn đã nộp 3.000.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí,
lệ phí Tòa án s0017946 ngày 13/6/2023; số tiền tạm ứng án phí 16.410.000
đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0017945 ngày 13/6/2023
3.000.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0017947
ngày 13/6/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 4.
3. Án phí phúc thm: Công ty TNHH khí Thương mại Dịch vụ
hàng hải P phải chịu số tiền là 2.000.000 đồng, được cấn trừ vào số tiền tạm ứng
án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0034489 ngày 25/6/ 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 4, Thành phố
Hồ Chí Minh.
13
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự tngười được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TAND Tối cao;
- TAND Cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND Cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND TP.HCM;
- TAND Quận 4;
- Cục THADS TP.HCM
- Chi cục THADS Quận 4;
- Các đương sự;
- Lưu: VP, hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Ngô Thanh Nhàn
Tải về
Bản án số 231/2024/KDTM-PT Bản án số 231/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 231/2024/KDTM-PT Bản án số 231/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất