Bản án số 07/2024/KDTM-PT ngày 12/09/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thuê, cho thuê, thuê mua

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 07/2024/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 07/2024/KDTM-PT ngày 12/09/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thuê, cho thuê, thuê mua
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thuê, cho thuê, thuê mua
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 07/2024/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/09/2024
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: tranh chấp hợp đồng thuê nhà xưởng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 07/2024/KDTM-PT
Ngày 07-3-2024
V/v tranh chấp hợp đồng thuê
nhà xưởng
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Huỳnh Văn Luật.
Các Thẩm phán thành viên: Ông Phan Trí Dũng;
Bà Trần Thị Thắm.
- Thư phiên tòa: Ông Phan Hoàng Khang Thư Ta án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Ông Trần Văn Bé – Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Ta án nhân dân tỉnh Bình Dương xét
xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh, thương mại thụ lý số 48/2023/TLPT-
KDTM ngày 06/11/2023 về việc “tranh chấp hợp đồng thuê nhà xưởng”.
Do Bản án kinh doanh thương mại thẩm số 09/2023/KDTM-ST ngày
24/7/2023 của Ta án nhân dân thị B, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2024/QĐXXPT-KDTM ngày 02 tháng
01 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Hộ kinh doanh L; địa chỉ: số E B, tổ B, ấp A, A, thị xã B,
tỉnh Bình Dương. Người đại diện theo pháp luật: Ông Lý Thanh T (có mặt).
- Bị đơn: Công ty TNHH Một thành viên S; địa chtrụ sở: F, tổ H, ấp F, xã
V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần
Văn T1 (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Huỳnh Hoàng N, sinh năm 1982 (có yêu cầu vắng mặt);
2. Bà Đinh Huỳnh N1, sinh năm 1988 (có yêu cầu vắng mặt);
Cùng địa chỉ thường trú: ấp G, xã T, huyện B, tỉnh Long An. Cùng địa chỉ
tạm trú: khu phố F, thị trấn D, huyện D, tnh Bình Dương.
3. Ông Trần Văn T1, sinh năm 1969 ; địa chỉ : Số E, khu dân cư D khu phố
B, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương. (có mặt).
2
Người kháng cáo: Nguyên đơn Hộ kinh doanh Thanh T bị đơn Công
ty TNHH Một thành viên S.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án người
đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Lý Thanh T trình bày:
Ông Lý Thanh T đại diện cho Hộ kinh doanh L (bên A) và Công ty TNHH
MTV S (bên B) kết Hợp đồng mua bán vào ngày 01/11/2017. Nội dung hợp
đồng quy định rõ tại Điều 1 là Hộ kinh doanh Thanh T (bên A) cung cấp cho
Công ty S sản phẩm mùn cưa CD, dăm gỗ băm, đảm bảo với chất lượng xuất khẩu
độ ẩm dưới 18% để sản xuất viên nén. Các thỏa thuận đều được ghi trong Điều 1
của Hợp đồng, đó :
- Đơn giá 1.530.000 đồng/tấn thời điểm hiện tại căn cứ vào gcả thị
trường từng thời điểm (ví dụ: tại thời điểm viên nén 2.200.000 đồng/tấn thì g
nguyên liệu là 1.530.000 đồng/tấn).
- Đơn đặt hàng 30 đến 50 tấn/ngày, 1.000 đến 1.500 tấn/tháng.
- Tiền mặt bằng là 15.000.000 đồng/tháng.
- Sau khi hợp đồng bên B sẽ chuyển bên A số tiền 600.000.000 đồng
(sáu trăm triệu đồng) để bên A lắp trạm điện mua nguyên liệu cho bên B sản
xuất viên nén.
- Số tiền trên được trừ vào tiền mua hàng là 50.000.000 đồng/tháng khi nào
hết thì thôi.
- Địa điểm đặt máy tại xưởng của bên A.
- Số lượng là 03 máy viên nén.
Theo Điều 2 của Hợp đồng thì tiền thuê nhà xưởng được thanh toán vào ngày
05 tây hàng tháng.
Nhà xưởng này tọa lạc tại ấp A, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương.
Sản xuất được 01 tháng thì ông T1 giám đốc của Công ty S kêu mặt bằng
chật hẹp nên muốn thuê thêm 01 phần nhà xưởng. Do đó ông T ông T1 mới
tiến hành thỏa thuận ông T1 giám đốc thuê thêm 01 phần nhà xưởng giá
8.000.000 đồng. Việc thỏa thuận thuê này chỉ bằng lời nói không ký kết hợp đồng
hay văn bản gì. Giá thuê là 23.000.000 đồng/01 tháng kể từ ngày 01/11/2017.
Đến đầu tháng 9/2018 (ngày không nhớ rõ) thì ông T1 đại diện cho Công ty
S không nhận nguyên vật liệu (mùn cưa CD, dăm bào…) do ông T cung cấp. Ông
T được ông T1 cho biết không sản xuất nữa mà bán máy móc, thiết bị cho vợ
chồng ông Huỳnh Hoàng N, Đinh Huỳnh N1. Tuy nhiên giữa ông TCông
ty S không làm văn bản thỏa thuận chấm dứt hợp tác làm ăn hoặc chấm dứt hợp
đồng mua bán ngày 01/11/2017 vì ông T nghĩ ng ty S không nhận nguyên liệu
của ông T là do lỗi của Công ty S. Tiền thuê nxưởng thì ng ty S vẫn phải trả
3
cho ông T ông T đã nhận 600.000.000 đồng của Công ty S để trừ vào tiền
nguyên liệu và tiền nhà xưởng.
Đến ngày 26/9/2018 ông T1 cho vợ chồng ông N, bà N1 thuê lại nhà xưởng
đã thcủa ông T nhưng không báo cũng có sự đồng ý của ông T. Ông T1 cho
vợ chồng ông N1, bà N thuê nhà xưởng giá 23.000.000 đồng/tháng thể hiện tại
Đơn tố cáo ngày 24/10/2019 của ông T1 gửi Công an A, thị B. Đồng thời
việc cho thuê này thể hiện bằng việc ông N chồng bà N1 chuyển khoản từ tài
khoản của ông N cho tài khoản của ông T1 vào ngày 11/3/2019 số tiền 23.000.000
đồng chuyển khoản ngày 18/3/2019 số tiền 27.000.000 đồng ghi tiền
thanh toán mặt bằng.
Ông T nghĩ là ông T1 thuê mặt bằng nhà xưởng của T nên có thể ông T1 hợp
tác với người khác hoặc cho người khác thuê lại nên ông T cũng không có ý kiến
gì. Đồng thời do ông T1 đã ứng cho ông T 600.000.000 đồng làm bình điện, số
tiền làm bình điện vẫn cn nên ông T không đi tiền thuê mặt bằng của ông T1
mà nghĩ anh em làm chung thì số tiền làm bình điện cn thừa tông T sẽ trừ vào
tiền thuê nhà xưởng (mặt bằng) hàng tháng của ông T1.
Đến ngày 01/10/2019 ông T thông báo cho vợ chồng ông N, N1 đến
ngày 01/11/2019 là hết hạn hợp đồng thuê nhà xưởng giữa ông T với Công ty S,
ông T sẽ lấy lại nhà xưởng. Do đó vợ chồng ông N, N1 đã đem máy móc ra
khỏi nhà xưởng và trả lại mặt bằng nhà xưởng cho ông T.
Đến tháng 11/2019 Công ty S đã khởi kiện H kinh doanh Thanh T về việc
tranh chấp Hợp đồng kinh tế ngày 01/11/2017 và được Ta án nhân dân thị xã B
thụ bằng vụ án số 35/2019/TLST-KDTM. Trong quá trình Ta án giải quyết vụ
án thì ông T yêu cầu phản tố yêu cầu Công ty S phải trả tiền thuê mặt bằng,
nhà xưởng cho ông T nhưng sau đó ông T đã rút đơn phản tố. Ta án đã tiến hành
xét xử bằng Bản án số 08/2020/KDTM-ST ngày 28/10/2020. Bản án này do Ta
án cố ý giao bản án chậm trễ dẫn đến ông T kháng cáo quá hạn bị bác kháng
cáo quá hạn.
Ông T1 không trả tiền thuê nhà xưởng cho ông T.
Về các giấy xác nhận do ông T1 cung cấp, thì ông T có ý kiến như sau :
Về giấy ghi ngày 18/8/2018 : Giấy này tự ông T1 viết, ông T không ký tên
nên ông T không có trách nhiệm về giấy này và ông T cũng chưa nhận một đồng
nào của ông T1.
Về giấy ghi ngày 24/6/2018 : Giấy này ông T không viết, ông T ký tên
nhưng ký xác nhận nội dung là ông T cung cấp cho bên B (tức Công ty S) 38.230
kg dăm gỗ xay x giá 01 kg 1.700 đồng = 64.991.000 đồng tiền 50.000.000
đồng bên B ứng trước cho ông T (bên B ứng trước cho ông T 600.000.000 đồng
để ông T lắp bình điện 3 pha trừ dần vào tiền ông T cung ứng nguyên liệu
dăm bào xay cho bên B) = 14.991.000 đồng. Chữ viết đã thanh toán tiền xưởng
không phải của ông T của ông T1. Ông T1 tự viết thanh toán tiền xưởng,
4
không ghi thanh toán bao nhiêu nên với giấy này ông T không chấp nhận
Công ty S đã thanh toán tiền xưởng.
Về giấy ngày 26/4/2018 : Giấy này ông T không viết do ông T1 viết,
ông T tên nhưng xác nhận nội dung ông T cung cấp cho bên B (tức
Công ty S) 62.400 kg dăm gỗ xay x giá 01 kg là 1.700 đồng = 106.080.000 đồng.
Nội dung tiền xưởng 5 tháng x 15tr = 75tr – 65tr = 10tr = 116.080.000 đồng là do
ông T1 tự viết vào. Ông T chưa nhận tiền xưởng do Công ty S thanh toán.
Về giấy ngày 25/8/2018 : Giấy này ông T không viết do ông T1 viết,
ông T tên nhưng xác nhận nội dung ông T cung cấp cho bên B (tức
Công ty S) 133.640 kg dăm gỗ xay 59.250 kg trọng lượng xe chở cn lại
74.390 kg x 1.600 đồng/01 kg = 119.240.000 đồng. Dng chữ viết tiền nhà xưởng
04 tháng x 15tr = 60tr = 179.024.000 đồng là ông T1 tự ghi thêm vào. Nhìn vào
mắt thường cũng nhận thấy là ông T1 tự ghi thêm vào. Ông T chưa nhận tiền thuê
nhà xưởng do Công ty S thanh toán.
Thời gian thuê mặt bằng, nhà xưởng 24 tháng nhưng ông T trừ cho Công
ty S tháng đầu tiên nên chỉ tính 23 tháng.
Do đó ông T đơn kiện khởi kiện Công ty TNHH MTV S với yêu cầu sau :
Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên S trả cho H kinh doanh
Thanh T do ông Thanh T đại diện số tiền thuê nhà xưởng từ ngày
01/11/2017 đến ngày 01/11/2019 23 tháng x 23.000.000 đồng/tháng =
529.000.000 đồng cộng với lãi suất chậm trả 1%/tháng tạm tính từ ngày
01/11/2019 đến ngày Ta án xét xử ngày 24/7/2023 44 tháng 24 ngày =
236.992.000 đồng.
Bị đơn Công ty TNHH Một thành viên S do ông Trần Văn T1 đại diện hợp
pháp, đồng thời ông T1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có ý kiến trình
bày trong quá trình giải quyết v án và ti phiên tòa trình bày:
Ông Lý Thanh T đại diện cho Hộ kinh doanh L (bên A) và Công ty TNHH
MTV S (bên B) kết Hợp đồng mua bán vào ngày 01/11/2017. Nội dung hợp
đồng quy định rõ tại Điều 1 là Hộ kinh doanh Thanh T (bên A) cung cấp cho
Công ty S sản phẩm mùn cưa CD, dăm gỗ băm, đảm bảo với chất lượng xuất khẩu
độ ẩm dưới 18% để sản xuất viên nén. Các thỏa thuận đều được ghi trong Điều 1
của Hợp đồng, đó :
- Đơn giá 1.530.000 đồng/tấn thời điểm hiện tại n cứ vào giá cả thị
trường từng thời điểm (ví dụ: tại thời điểm viên nén 2.200.000 đồng/tấn thì g
nguyên liệu là 1.530.000 đồng/tấn).
- Đơn đặt hàng 30 đến 50 tấn/ngày, 1.000 đến 1.500 tấn/tháng.
- Tiền mặt bằng là 15.000.000 đồng/tháng.
- Sau khi ký hợp đồng bên B sẽ chuyển bên A số tiền là 600.000.000 đồng
(sáu trăm triệu đồng) để bên A lắp trạm điện mua nguyên liệu cho bên B sản
xuất viên nén.
5
- Số tiền trên được trừ vào tiền mua hàng là 50.000.000 đồng/tháng khi nào
hết thì thôi.
- Địa điểm đặt máy tại xưởng của bên A
- Số lượng là 03 máy viên nén.
Theo Điều 2 của Hợp đồng thì tiền thuê nhà xưởng được thanh toán vào
ngày 05 tây hàng tháng.
Tuy trong hợp đồng ghi tiền thuê mặt bằng nhưng thực tế không phải
thuê là sự hợp tác làm ăn, bên B tức Công ty S hỗ trợ tiền nhà xưởng cho bên A
chứ không phải là tiền thuê.
Nhà xưởng này tọa lạc tại ấp A, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương.
Theo thỏa thuận bằng lời nói không được ghi vào trong hợp đồng kinh tế
thì bên B không hỗ trợ tiền nhà xưởng cho bên A tháng 11/2017 mới đặt máy
móc sản xuất chưa ổn định. Đến tháng thứ 2 tức tháng 12/2017 mới bắt đầu tính
tiền hỗ trợ nhà xưởng.
Trong thời gian từ khi hợp đồng đến ngày 30/8/2018 bên B đã thanh
toán tiền hỗ trợ nhà xưởng mỗi tháng là 15.000.000 đồng cho bên A và bên A đã
nhận đầy đủ và các giấy nhận tiền ngày 26/4/2018 là 75.000.000 đồng. Theo
giấy ngày 26/4/2018 thì bên B phải thanh toán cho bên A tiền hàng 106.080.000
đồng cộng tiền hỗ trợ nhà xưởng là 75.000.000 đồng (tháng 12/2017 và các tháng
01, 02, 03, 04/2018) tổng là 181.080.000 đồng trừ đi s tiền 65.000.000 đồng nên
A (ông T) đã nhận cn lại 116.080.000 đồng. Ông T đã nhận đầy đủ số
tiền này.
Theo giấy ngày 25/8/2018 thì bên B phải thanh toán cho bên A tiền hàng là
119.024.000 đồng cộng tiền hỗ trợ nhà xưởng là 60.000.000 đồng (tháng 5, 6, 7,
8/2018), tổng là 179.024.000 đồng. Ông T đã ký và nhận đầy đủ số tiền này.
Tổng số tiền hỗ trợ nhà xưởng bên A đã nhận của bên B 135.000.000
đồng gồm 09 tháng từ tháng 12/2017 đến hết tháng 8/2018.
Tại Điều 3 của Hợp đồng ghi rõ: Nếu bên A không giao hàng đúng theo số
lượng và chất lượng như đã mà bên B không sản xuất ra được viên nén thì bên
A phải chịu mọi chi phí trong ngày như tiền nhân công, mặt bằng cho bên B.
Do bên A đã không giao đủ hàng cho bên B theo hợp đồng nên ngày
18/8/2018 bên B đã ngừng sản xuất và ngừng hợp tác với nhau, nên bên B không
trách nhiệm phải hỗ trợ tiền nhà xưởng cho bên A nữa hợp đồng ngày
01/11/2017 giữa các bên cũng chấm dứt.
Tháng 11/2019 bên B đã khởi kiện bên A về việc tranh chấp Hợp đồng kinh
tế ngày 01/11/2017 được Ta án nhân dân thị B thụ bằng vụ án số
35/2019/TLST-KDTM ngày 10/12/2019 được xét xử Bản án số
08/2020/KDTM-ST ngày 28/10/2020. Bản án này đã ghi rất bên A thừa nhận
không giao đủ hàng cho bên B trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên A bên
có lỗi và Ta án nhân dân thị B đã tuyên buộc bên A phải trả cho bên B số tiền
6
583.138.241 đồng (gồm tiền gốc 482.500.000 đồng và 100.638.241 đồng tiền lãi
chậm thanh toán). Bản án này đã có hiệu lực pháp luật.
Về tiền hỗ trợ nhà xưởng 23.000.000 đồng/tháng không đúng, bên B chưa
bao giờ thỏa thuận hay giấy tờ với bên A về việc hỗ trợ nhà xưởng
23.000.000 đồng/tháng.
Do kết thúc làm ăn vào tháng 8/2018 giữa bên Abên B đã bất đồng
về việc bên A cung ứng nguyên vật liệu nên hai bên không thể làm thỏa thuận
chấm dứt hợp đồng ký ngày 01/11/2017.
Ngày 26/9/2018 ông T1 với cách nhân đã bán các máy móc thiết bị
để tại xưởng của bên A: gồm 02 máy nén, 02 xe nâng, 01 máy phun công cho bà
Đinh Huỳnh N1 với giá là 680.000.000 đồng. Việc mua bán này có làm giấy mua
bán hai bên có ký tên. Ông T biết rõ việc ông T1 bán các máy móc thiết bị cho
N1 và không có ý kiến gì. N1 có đề nghị được chạy thử máy móc từ 01 đến 02
tháng nên ông T1 đã để máy móc, thiết bị tại nhà xưởng của ông T cho bà N1 sử
dụng thử. Ông T1 với tư cách cá nhân chưa bao giờ cho vợ chồng ông N thuê lại
nhà xưởng của ông T.
Do N1 không chịu trả đtiền mua máy móc cho ông T1 nên đến ngày
01/11/2019 hết hạn hợp đồng thì ông T1 đã đến nhà xưởng của ông T và chở hết
máy móc đi.
Tại Đơn tố cáo ngày 24/10/2019 của ông T1 với cách nhân gửi cho
Công an A, thị B tông T1 tố cáo N1 mua máy móc, thiết bị của ông
T1 không trả tiền nhưng cố ý đem tài sản đi. Theo đơn tố cáo này thì ông T1 nói
rõ là cho ông T1 giao lại máy móc thiết bị cho N1 thuê chkhông có nội dung
là ông T1 cho bà N1 thuê lại xưởng của ông T.
Về lần chuyển khoản ngày 11/3/2019 số tiền 23.000.000 đồng và chuyển
khoản ngày 18/3/2019 số tiền 27.000.000 đồng từ tài khoản của ông N chồng bà
N1 đến tài khoản của ông T1 ghi chú là thanh toán tiền mặt bằng là không đúng.
Vì giữa ông T1N1 vợ ông N có thỏa thuận mua bán máy móc, thiết bị nên
thể ông N chuyển khoản trả tiền máy không phải tiền thuê mặt bằng 01
tháng thì không thể trả 02 lần tiền thuê mặt bằng lúc thì 23.000.000 đồng, lúc thì
27.000.000 đồng.
Từ ngày 01/9/2018, do bên A vi phạm hợp đồng trong việc cung ứng
nguyên vật liệu cho bên B Bản án kinh doanh thương lại số 08/2020/KDTM-
ST ngày 28/10/2020 của Ta án nhân dân thị xã B cũng đã nêu rõ lỗi của bên A.
Do đó từ tháng 9/2018 đến ngày hết hạn hợp đồng 01/11/2019 bên B không
phải hỗ trợ tiền nhà xưởng cho bên A nữa. Bên B được toàn quyền để các thiết bị
máy móc tại nhà xưởng này cũng như được quyền sdụng nxưởng này từ ngày
01/9/2018 đến ngày 01/11/2019 không nghĩa vụ phải h trợ tiền nhà xưởng
mỗi tháng 15.000.000 đồng cho bên A.
Do đó, yêu cầu khởi kiện của bên A là không có căn cứ, bị đơn không chấp
nhận, đề nghị Ta án bác yêu cầu của nguyên đơn.
7
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Hoàng N Đinh
Huỳnh N1 có ý kiến trình bày trong quá trình giải quyết vụ án:
Do từng có quan hệ quen biết nên ngày 26/9/2018 vợ chồng ông N, bà N1
thỏa thuận mua lại của ông Trần Văn T1 02 máy nén, 02 xe nâng, 01 máy
phun công để sản xuất viên nén chất đốt. Ngày 26/9/2018 vợ chồng ông N đến
tại nơi đặt máy móc tại nhà xưởng ông T1 của ông Thanh T tại A, thị
xã B để xem máy móc và có làm giấy viết tay mua bán máy móc nhưng giấy mua
bán đó hiện ông T1 giữ, vợ chồng ông N không giữ. Khi thỏa thuận mua bán với
ông T1 thì cả hai vợ chồng ông N đều đứng ra thỏa thuận nhưng do ông N học
thấp, chữ nghĩa không rành nên trong giấy mua bán N1 đứng tên người mua.
Giá mua máy c của ông T1 680.000.000 đồng, vợ chồng ông N đã trả cho
ông T1 248.000.000 đồng. Khi vợ chồng ông N và ông T1 thỏa thuận mua bán
máy móc, thiết bị thì ông T không biết. Vợ chồng ông N ông T1 cũng không
gặp ông T để bàn bạc lại việc thuê mặt bằng (nhà xưởng) của ông T. Ông T1 nói
với vợ chồng ông N không phải thỏa thuận thuê mặt bằng (nhà xưởng) với
ông T cứ việc để máy móc, thiết bị tiếp tục làm tại nhà xưởng của ông T
mỗi tháng trả tiền mặt bằng cho ông T1 23.000.000 đồng. Đến ngày 01/10/2018
vợ chồng ông N tiến hành sản suất tại nhà xưởng của ông T và hàng tháng đều trả
cho ông T1 23.000.000 đồng và đã trả được 12 tháng gồm tháng 10, 11, 12/2018
tháng 01, 02, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9/2019. Đến đầu tháng 10/2019 ông Thông b
đến ngày 01/11/2019 là hết hạn hợp đồng thuê mặt bằng (nhà xưởng) giữa ông T
ông T1, ông T sẽ lấy lại mặt bằng (nhà xưởng) nên vợ chồng ông N đã dời máy
móc, thiết bị lên D thì ông T1 đã gửi đơn tố cáo vợ chồng ông N đến Công an xã
A, thị xã B. Công an xã A, thị xã B mời làm việc nên vợ chồng ông N đã đem
máy móc, thiết bị trả lại cho ông T1 ông T1 cn nợ lại vợ chồng ông N
248.000.000 đồng. Vợ chồng ông N đã khởi kiện ông T1 để đi lại số tiền này.
Việc kiện này do Thẩm phán Nguyễn Văn T2 của TAND thị B giải quyết. Tiền
thuê mặt bằng (nhà xưởng) thì vợ chồng ông N trả cho ông T1.
Nay ông T Công ty S khởi kiện tranh chấp thuê nhà xưởng với nhau
không liên quan đến vợ chồng ông N, vợ chồng ông N không ý kiến hay yêu
cầu gì.
Ông N và bà N1 có yêu cầu Ta án giải quyết vụ án vắng mặt.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại thẩm số 09/2023/KDTM-ST ngày
24/7/2023 của Ta án nhân dân thị B, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hộ Kinh doanh
Lý Thanh T đối với bị đơn Công ty TNHH Một thành viên S về việc: Tranh chấp
hợp đồng thuê mặt bằng, nhà xưởng.
Buộc Công ty TNHH Một thành viên S có nghĩa vụ thanh toán cho H Kinh
doanh Thanh Thông số tiền thuê mặt bằng, nhà xưởng 150.000.000 đồng
tiền lãi chậm thanh toán tính đến ngày 24/7/2023 56.000.000 đồng. Tổng số
tiền là 206.000.000 đồng (hai trăm lẻ sáu triệu đồng).
8
Kể từ ngày án hiệu lực thi hành người được thi hành án có đơn yêu cầu
thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thanh toán hoặc thanh toán không
đầy đủ thì hàng tháng cn phải chịu khoản tiền lãi bằng mức lãi suất quy định tại
Điều 357 khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân snăm 2015, tương ứng với số
tiền và thời gian chậm thi hành án.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hộ Kinh doanh
Thanh T đối với bị đơn Công ty TNHH Một thành viên S về việc yêu cầu bị đơn
phải thanh toán tiền thuê mặt bằng, nhà xưởng tiền lãi chậm thanh toán
559.992.000 (năm trăm m mươi chín triệu, chín trăm chín mươi hai nghìn)
đồng.
Ngoài ra bản án cn quyết định về án phí, tuyên về nghĩa vụ chậm trả và
quyền kháng cáo của các bên đương sự.
Ngày 08 tháng 8 năm 2023, nguyên đơn kháng cáo yêu cầu Ta án cấp phúc
thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm buộc bị đơn phải trả thêm tiền gốc và tiền lãi
với tổng số tiền 559.992.000 đồng.
Ngày 28 tháng 7 năm 2023, bị đơn kháng cáo yêu cầu Ta án cấp phúc thẩm
sửa một phần bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Ta án cấp thẩm đã buộc bị đơn trả 206.000.000 đồng (hai trăm lẻ sáu
triệu đồng).
Tại phiên ta phúc thẩm, nguyên đơn và bị đơn giữ nguyên nội dung kháng
cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương:
- V th tc t tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên ta, những
người tiến hành tố tụng tham gia ttụng đã chấp hành đúng quy định của pháp
luật tố tụng dân sự. Ta án nhân dân tỉnh Bình Dương thụ đơn kiện là đúng
thẩm quyền.
- Về nội dung vụ án: Nguyên đơn, bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp
được thêm tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc kháng cáo. Ta án cấp sơ thẩm
đã giải quyết vụ án căn cứ theo các tài liệu, chứng cứ trong vu án đúng theo
quy đnh của pháp luật. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của nguyên
đơn bị đơn. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng
xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến Kiểm sát viên;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ngày 08 tháng 8 năm 2023, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông
Thanh T kháng cáo một phần Bản án kinh doanh, thương mại thẩm người
đại diện hợp pháp của bị đơn ông Trần Văn T1 kháng cáo một phần Bản án kinh
doanh, thương mại thẩm: Hình thức đơn thời hạn gửi đơn đúng theo quy
định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
9
[2] Về Hợp đồng hai bên đã kết: Theo Hợp đồng mua bán ngày
01/11/2017 được kết giữa nguyên đơn Hộ kinh doanh Lý Thanh T (gọi tắt
Thanh T) và bị đơn Công ty TNHH Một thành viên S (gọi tắt ng ty S) thể
hiện Công ty S thuê mặt bằng (nhà xưởng) của Thanh T. Mặt bằng (nhà
xưởng) tọa lạc tại ấp A, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Giá thuê là 15.000.000
đồng/01 tháng, nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm, không trái đạo
đức xã hội và tuân thủ đúng quy định tại Điều 116, 119, 430 của Bộ luật Dân sự;
các Điều 24, 25 của Luật Thương mại nên phát sinh hiệu lực.
[3] Xét kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn:
[3.1] Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn cho rằng giá thuê mặt bằng
(nhà xưởng) tăng thêm 8.000.000 đồng thành 23.000.000 đồng/01 tháng bắt đầu
từ tháng 12/2017 do hai bên thỏa thuận bị đơn thuê thêm 01 phần diện tích
nhà xưởng.
Xét thấy: Tại Điều 1 Hợp đồng mua bán ngày 01/11/2017 được ký kết giữa
nguyên đơn bị đơn thể hiện nội dung “Tiền mặt bằng 15 triệu/tháng”.
Nguyên đơn cho rằng giá thuê mặt bằng (nhà xưởng) tăng thêm 8.000.000 đồng
do bị đơn thuê thêm một phần diện tích, tuy nhiên, trong quá trình giải quyết
vụ án cấp thẩm tại cấp phúc thẩm nguyên đơn không cung cấp được chứng
cứ cũng không chứng minh được gthuê nhà xưởng tăng lên 23.000.000
đồng/01 tháng và bị đơn cũng không chấp nhận giá thuê này. Do vậy, Ta án cấp
thẩm xác định giá thuê mặt bằng (nhà xưởng) 15.000.000 đồng/01 tháng
có cơ sở chấp nhận.
[3.2] Đối với yêu cầu của nguyên đơn: Buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số
tiền thuê nhà xưởng từ ngày 01/11/2017 đến ngày 01/11/2019 23 tháng, do
nguyên đơn, bị đơn đều thống nhất tháng đầu tiên tức tháng 11/2017 bị đơn không
phải trả tiền thuê mặt bằng (nhà xưởng) cho nguyên đơn.
Người đại diện hợp pháp cho bị đơn cho rằng đã thanh toán tiền mặt bằng
(nhà xưởng) cho nguyên đơn 09 tháng (tháng 12/2017 và tháng 01, 02, 3, 4, 5, 6,
7, 8/2018) thể hiện tại giấy thanh toán ngày 26/4/2018 giấy thanh toán ngày
25/8/2018. Đến tháng 8/2019 phía nguyên đơn đã không cung cấp nguyên vật liệu
cho bị đơn sản suất dẫn đến bị đơn phải ngừng sản xuất và hai bên đã chấm dứt
việc mua bán theo Hợp đồng mua bán đã ký kết.
Xét thấy:
Thứ nhất, tại Điều 3 của Hợp đồng về trách nhiệm của hai bên trong Hợp
đồng mua bán ngày 01/11/2017 quy định đối với Bên A: Nếu bên A (Hộ kinh
doanh L) không giao hàng đúng theo số lượng và chất lượng như đã kýbên B
(Công ty TNHH MTV S) sản xuất không ra được viên nén thì bên A phải chịu
mọi chi phí trong ngày như tiền nhân công, mặt bằng cho bên B.
Thứ hai, theo Bản án kinh doanh thương mại số 08/2020/KDTM-ST ngày
28/10/2020 của Ta án nhân dân thị xã B đã giải quyết việc tranh chấp hợp đồng
mua bán, yêu cầu bồi thường tiền thuê nhà xưởng và tiền nhân công giữa nguyên
10
đơn Công ty TNHH Một thành viên S bị đơn Hộ kinh doanh Lý Thanh T. Bản
án này đã có hiệu lực pháp luật vào ngày 18/01/2021. Bản án này đã đình chỉ xét
xử đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty S đối với bị đơn H kinh
doanh Lý Thanh T về tranh chấp tiền thuê nhà xưởng 300.000.000 đồng. Bản án
cũng đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn hộ kinh doanh Thanh T đối với Công
ty TNHH Một thành viên S về tranh chấp tiền thuê mặt bằng nhà xưởng
90.000.000 đồng. Ngày 12/11/2021 nguyên đơn Hộ kinh doanh Thanh T
đơn khởi kiện bị đơn Công ty TNHH Một thành viên S1 Q tranh chấp tiền thuê
mặt bằng (nhà xưởng) theo Hợp đồng mua bán ngày 01/11/2017.
Tại Bản án kinh doanh thương mại số 08/2020/KDTM-ST ngày 28/10/2020
thể hiện Công ty TNHH Một thành viên S1 suất Tuyết Q thừa nhận H kinh doanh
Thanh T chỉ giao hàng đến hết ngày 26/9/2018 không tiếp tục giao hàng
nên đến ngày 27/9/2018 Công ty S đã không cn sản suất. Hộ kinh doanh
Thanh T cũng thừa nhận không giao đủ hàng cho Công ty S trong quá trình thực
hiện hợp đồng, đây tình tiết không phải chứng minh theo Điều 92 Bộ luật Tố
tụng dân sự.
Như vậy, từ tháng 10/2018 đến ngày 01/11/2019 Công ty S đã không cn sản
suất do lỗi của H kinh doanh Lý Thanh T không cung cấp hàng hóa cho Công ty
S. Do vậy, tiền thuê mặt bằng (nhà xưởng) Công ty S không phải thanh toán cho
nguyên đơn trong thời gian này.
Do đó, Ta án cấp sơ thẩm xác định thời gian phía bị đơn Công ty S phải trả
tiền thuê mặt bằng nhà xưởng cho nguyên đơn H kinh doanh Thanh T chỉ
10 tháng gồm tháng 12 năm 2017 và tháng 01, 02, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 năm 2018 là
có cơ sở chấp nhận.
Xét, giấy thanh toán ngày 25/8/2018 phía Công ty S cung cấp dấu hiệu
ghi thêm hàng chữ “Tiền nhà xưởng 04 tháng 4x15
tr
= 60
tr
= 179.024.000
đ
vào
giấy thanh toán và tại giấy thanh toán ngày 26/4/2018 do bị đơn Công ty S cung
cấp thì hàng ch “tiền xưởng 5 tháng = 5 x 15
tr
= 75
tr
65
tr
= 10
tr
=
116.080.000đ” trong giấy dấu hiệu ghi thêm vào giấy thanh toán. Ngoài ra,
Kết luận giám định số 2788/KL-KTHS ngày 31/5/2023 của Phân viện Khoa học
hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh cũng không xác định được 02 hàng chghi
trên giấy thanh toán ngày 25/8/2018 giấy thanh toán ngày 26/4/2018 có được
viết cùng thời điểm hay không. Tuy nhiên, ông T1 đại diện cho Công ty S thừa
nhận chữ viết là của ông, ông T chỉ ký tên và ông T không thừa nhận có nhận số
tiền cho thuê nhà xưởng 135.000.000 đồng này bên phía bị đơn Công ty S, trong
quá trình giải quyết vụ án tại cấp thẩm phúc thẩm cũng không cung cấp
được chứng cứ chứng minh đã trả cho nguyên đơn 135.000.000 đồng tiền thuê
nhà xưởng.
Do đó, Ta án cấp thẩm buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn
tiền thuê nhà xưởng gồm tháng 12 năm 2017 tháng 01, 02, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9
năm 2018 tổng cộng là 10 tháng x 15.000.000 đồng/tháng = 150.000.000 đồng là
có cơ sở chấp nhận.
11
[3.3] Về mức lãi chậm trả: Nguyên đơn yêu cầu lãi suất chậm trả
1%/tháng tạm tính từ ngày 01/11/2019 đến ngày 24/7/2023. Xét thấy, tại Hợp
đồng mua bán giữa nguyên đơn, bị đơn không thỏa thuận lãi suất chậm trả,
Ta án cấp thẩm xác định bị đơn phải chịu tiền lãi đối với số tiền chậm trả từ
ngày 01/11/2019 đến ngày 24/7/2023 là 44 tháng 24 ngày với lãi suất là 10%/01
năm là 56.000.000 đồng theo quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự là
không đúng vì đây là tranh chấp hợp đồng thuê nhà xưởng, việc xác định tiền lãi
phải căn cứ theo Luật Thương mại năm 2005 để giải quyết vụ án.
Theo Điu 306 Lut Thương mại năm 2005 quy định: “Trường hp bên vi phm
hợp đồng chm thanh toán tin hàng hay chm thanh toán thù lao dch v và các
chi phí hp lý khác thì bên b vi phm hợp đồng có quyn yêu cu tr tin lãi trên
s tin chm tr đó theo lãi suất n quá hn trung bình trên th trường ti thi
điểm thanh toán tươngng vi thi gian chm tr, tr trường hp có tha thun
khác hoc pháp luật có quy định khác”.
Căn cứ vào mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường của 03 ngân
hàng thương mại (Ngân hàng TMCP S2; Ngân hàng TMCP Đ; Ngân hàng TMCP
N2) thì mức lãi suất trung bình 13.5%/năm, tương đương 1,13%/tháng, việc
nguyên đơn yêu cầu 01%/tháng phù hợp với quy định của pháp luật. vậy,
việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lãi suất với mức lãi 01%/tháng tự nguyện
và thấp hơn quy định pháp luật nên có căn cứ chấp nhận.
Do đó, tiền lãi chậm thanh toán mà bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn
tính từ ngày 01/11/2019 đến ngày 24/7/2023 44 tháng 24 ngày với lãi suất
01%/tháng là 67.200.000 đồng
[4] Từ những cơ sở nhận đnh nêu trên, có căn cứ chấp nhận một phần yêu
cầu kháng cáo của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là chưa phù hợp.
Về án phí kinh doanh, thương mại phúc thẩm: Nguyên đơn không phải chịu,
bị đơn phải chịu theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ các Điều 68, Điều 92, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 148, Điều
272, Điều 273 khoản 2 Điều 308 Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015;
- Các Điều 351, 357, 468, 472, 481 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 306 Luật Thương mại năm 2005;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
sử dụng án phí và lệ phí Ta án.
1. Không chp nhn kháng cáo ca b đơn Công ty TNHH Mt thành viên
S.
12
2. Chp nhn mt phn kháng cáo của nguyên đơn H Kinh doanh
Thanh T.
3. Sa Bản án kinh doanh, thương mại thẩm s 09/2023/KDTM-ST ngày
24/7/2023 ca Tòa án nhân dân th xã B, tỉnh Bình Dương như sau:
3.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hộ Kinh doanh
Lý Thanh T đối với bị đơn Công ty TNHH Một thành viên S về việc: Tranh chấp
hợp đồng thuê mặt bằng, nhà xưởng.
Buộc Công ty TNHH Một thành viên S nghĩa vụ thanh toán cho H Kinh
doanh Thanh Thông số tiền thuê mặt bằng, nhà xưởng 150.000.000 đồng
tiền lãi chậm thanh toán tính đến ngày 24/7/2023 là 67.200.000 đồng. Tổng số
tiền là 217.200.000 đồng (hai trăm mười bảy triệu hai trăm nghìn đồng).
Kể từ người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải
thi hành án chưa thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ thì ng tháng cn phải
chịu khoản tiền lãi bằng mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468
của Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành
án.
3.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hộ Kinh doanh
Thanh T đối với bị đơn Công ty TNHH Một thành viên S về việc yêu cầu bị
đơn phải thanh toán tiền thuê mặt bằng, nhà xưởng và tiền lãi chậm thanh toán là
548.792.000 đồng.
3.3. Về án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm:
Bị đơn Công ty TNHH Một thành viên S phải chịu 10.860.000 đồng (mười
triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng).
Hộ kinh doanh Thanh T phải chịu 25.951.680 đồng (Hai mươi lăm triệu,
chín trăm năm mươi mốt nghìn, sáu trăm tám mươi đồng) được trừ stiền tạm
ứng án phí 15.013.400 đồng đã nộp theo các Biên lai thu tiền số
AA/2021/0004424 ngày 18/11/2021 số AA/2021/0004527 ngày 09/12/2021 tại
Chi cục Thi hành án dân sự thị xã B, tỉnh Bình Dương. Hộ kinh doanh Lý Thanh
T cn phải nộp thêm 10.938.280 đồng (Mười triệu chín trăm ba mươi tám nghìn
hai trăm tám mươi đồng).
4. Án phí kinh doanh, thương mại phúc thm:
Nguyên đơn Hộ Kinh doanh Thanh T không phi chu, Chi cc Thi hành
án dân s th B hoàn tr li cho H Kinh doanh Thanh Thông s tin
2.000.000 đng tin tm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu s AA/2021/0012139
ngày 16/8/2023 ca Chi cc Thi hành án dân s th xã B, tỉnh Bình Dương.
B đơn Công ty TNHH Mt thành viên S phi chịu 2.000.000 đng (hai
triệu đồng), khu tr tin tm ứng án phí đã np theo Biên lai thu s
AA/2021/0012081 ngày 01/8/2023 ca Chi cc Thi hành án dân s th xã B, tnh
Bình Dương.
13
Theo quy định tại Điều 2 Lut Thi hành án dân s thì người được thi hành
án dân sự, người phi thi hành án dân s có quyn tha thun thi hành án, quyn
yêu cu thi hành án, t nguyn thi hành án hoc b ng chế thi hành án theo quy
định tại các Điu 6, 7A và 9 Lut Thi hành án dân s, thi hiu thi hành án được
thc hiện theo quy định tại Điều 30 Lut Thi hành án dân s.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi Cục THADS thị B, tỉnh Bình
Dương;
- Ta án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình
Dương;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, Ta KT, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Văn Luật
Tải về
Bản án số 07/2024/KDTM-PT Bản án số 07/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 07/2024/KDTM-PT Bản án số 07/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất