Bản án số 21/2024/DS-ST ngày 26/08/2024 của TAND huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa về tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 21/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 21/2024/DS-ST ngày 26/08/2024 của TAND huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa về tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Vạn Ninh (TAND tỉnh Khánh Hòa)
Số hiệu: 21/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144, Điều 147; khoản 1 Điều 244; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 357, Điều 430, Điều 440, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, án phí, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. 1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Trương Thị Hoa Đ. Buộc bà Nguyễn Thị H phải trả cho bà Trương Thị H1 Đào số tiền mua bán trái cây còn nợ là 1.100.840.339đ (một tỷ một trăm triệu tám trăm bốn mươi nghìn ba trăm ba mươi chín đồng), trong đó nợ gốc là 1.028.560.000 đồng (một tỷ không trăm hai mươi tám triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng) và tiền lãi chậm trả tính đến ngày 26/8/2024 là 72.280.339đ (bảy mươi triệu hai trăm bảy mươi nghìn bảy trăm ba mươi chín đồng) Quy định
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN VẠN NINH
TỈNH KHÁNH HÒA
Bản án số: 21/2024/DS-ST
Ngày: 26/8/2024
V/v “Tranh chấp về hợp đồng
mua bán tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VẠN NINH, TỈNH KHÁNH HÒA
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Vi Nhật Hoàng
Các Hội thẩm nhân dân:Ông Hồ Quang Thành;
Ông Đỗ Ngọc Quý.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Mỹ Vui - Thư Tòa án nhân dân
huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa
tham gia phiên tòa: Ông Huỳnh Bá Sử - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh, tỉnh
Khánh Hòa xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 69/2024/TLST-DS
ngày 15 tháng 04 năm 2024 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”; theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2024/QĐXXST-DS ngày 13 tháng 8 năm
2024; giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trương Thị Hoa Đ - sinh năm: 1970;
Trú tại: Tổ dân phố số A, thị trấn V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Kim T sinh năm 1980;
Địa chỉ: Tổ dân phố số I, thị trấn V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa - người đại diện
theo uỷ quyền (theo giấy uỷ quyền lập ngày 14/05/2024 tại Văn phòng C, số C,
quyển số 05/2024 TP/CC-SCC/HĐGD).
(Ông T có mặt)
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H - sinh năm: 1968;
Trú tại: Tổ dân phố số I, thị trấn V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa.
(Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
* Trong đơn khởi kiện đề ngày 02/01/2024 (nộp Tòa án ngày 03 tháng 01
năm 2022); đơn bổ sung đơn khởi kiện đề ngày 10/6/2024 (nộp Toà án cùng ngày);
bản tự khai, các biên bản hòa giải tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn
Trương Thị Hoa Đ người đại diện hợp pháp của Đ ông Kim T trình
bày:
Giữa Trương Thị Hoa Đ Nguyễn Thị H quan hmua bán trái
cây với nhau từ nhiều năm, bà Đ bán trái cây cho bà Nguyễn Thị H. Từ m 2021
đến năm 2023, giữa hai người mua bán trái cây nhiều lần chốt nợ với nhau 05
lần, cụ thể:
- Ngày 30/12/2021 H nlại Đ số tiền 170.000.000đ (một trăm bảy
mươi triệu đồng).
- Ngày 29/12/2022, H nợ Đ số tiền 412.000.000đ (bốn trăm mười hai
triệu đồng).
- Ngày 04/03/2023, H nĐ số tiền 264.000.000đ (hai trăm sáu mươi
bốn triệu đồng).
- Ngày 02/5/2023, bà H nợ bà Đ số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng).
- Ngày 04/7/2023, H nợ Đ số tiền 82.560.000đ (tám mươi hai triệu
năm trăm sáu mươi nghìn đồng).
Tổng cộng số tiền H còn nợ Đ 1.028.560.000đ (một tỷ không trăm
hai mươi tám triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng).
H có làm hợp đồng mua bán trái cây ngày 23/8/2023 c nhận số nợ trên
hứa đến ngày 12/12/2023 sẽ trả cho Đ toàn bộ số tiền nợ. Tại hợp đồng
chữ ký xác nhận của bà Nguyễn Thị H.
Tuy nhiên đến thời hạn trả nợ, H không trả cho bà Đ, Đ đã nhiều lần
yêu cầu bà H thanh toán tiền nợ, nhưng bà H luôn né tránh, không muốn trả nợ cho
bà Đ.
Hiện tại, bà H còn nợ bà Đ số tiền gốc là 1.028.560.000đ (một tỷ không trăm
hai mươi tám triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng).
Nay, Trương Thị Hoa Đ yêu cầu Nguyễn Thị H trả số tiền gốc còn nợ
1.028.560.000 đồng (một tỷ không trăm hai mươi tám triệu m trăm sáu mươi
nghìn đồng). Ngoài ra, bà Đ còn yêu cầu bà Nguyễn Thị H phải trả số tiền lãi chậm
trả kể tngày 12/12/2023 đến ngày 26/8/2024 08 tháng 14 ngày với lãi suất
0,83%/ tháng (10%/năm), cụ thể:
+ Lãi của 08 tháng: (1.028.560.000 đồng x 0,83%/tháng x 08 tháng) =
68.296.384 đồng.
3
+ Lãi của 14 ngày: [(68.296.384 đồng: 8) : 30 ngày] x 14 ngày = 3.983.955
đồng.
Tổng cộng: 68.296.384 đồng + 3.983.955 đồng = 72.280.339đ (bảy mươi
triệu hai trăm bảy mươi nghìn bảy trăm ba mươi chín đồng).
Như vậy, tổng số tiền gốc lãi Trương Thị Hoa Đ yêu cầu Nguyễn
Thị H phải trả 1.100.840.339đ (một tỷ một trăm triệu tám trăm bốn mươi nghìn
ba trăm ba ơi chín đồng). Bà Đ yêu cầu bà H phải trả một lần toàn bộ số tiền nợ
trên.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 21 tháng 5 năm 2024 tại phiên toà hôm
nay, bị đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:
Bà và bà Trương Thị Hoa Đ có mối quan hệ mua bán trái cây với nhau. Mua
bán với nhau từ năm 2004. lấy trái cây của Đ để về bán lại ngoài chợ. Việc
mua bán 02 bên thanh toán như sau:
Cứ 03 tháng 01 lần chốt sổ thanh toán số tiền lấy trái cây. Đến năm 2021 (cụ
thể là ngày 30/12/2021) do buôn bán thua lỗ nên bà thiếu lại bà Đ số tiền
170.000.000 đồng, thống nhất đây là tiền gối đầu, bà không trả số tiền trên mà tiếp
tục lấy trái cây mua bán.
Đến năm 2022 (cụ thể ngày 29/12/2022), thiếu Đ số tiền
412.000.00(bốn trăm ời hai triệu đồng), nhớ trong tổng số tiền này
12.000.000 đồng tiền lãi.
Đến năm 2023 (cụ thể ngày 04/03/2023), thiếu Đ số tiền
264.000.000đ (hai trăm sáu mươi bốn triệu đồng).
Đến ngày 02/5/2023, bà thiếu Đ số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu
đồng).
Đến ngày 04/7/2023, thiếu Đ số tiền 82.560.000đ (tám mươi hai triệu
năm trăm sáu mươi nghìn đồng).
Tổng cộng số tiền H còn nợ Đ 1.028.560.000đ (một tỷ không trăm
hai ơi tám triệu m trăm sáu mươi nghìn đồng), gồm cả gốc lãi, không
xác định tiền lãi là bao nhiêu cũng như không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh.
Sau đó, bà bà Đ làm 01 (một) hợp đồng mua bán trái cây ngày
23/8/2023 xác nhận còn nbà Đ số tiền trên, tại hợp đồng không thể hiện
tiền lãi trong số tiền này cũng không thể hiện sẽ trả lãi đối với số tiền nợ thỏa
thuận đến ngày 12/12/2023, bà sẽ trả cho bà Đ toàn bộ số tiền nợ.
4
Đến thời hạn trả nợ, do mua bán trái cây thua lỗ bà không có khả năng trả nợ
cho Đ. thừa nhận, hiện còn nợ Đ số tiền nợ 1.028.560.000 đồng
(một tỷ không trăm hai mươi tám triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng).
Nay Trương Thị Hoa Đ yêu cầu bà phải trả số tiền gốc còn ndo mua
bán trái cây là 1.028.560.000đ (một tỷ không trăm hai mươi tám triệu năm trăm
sáu mươi nghìn đồng) tiền lãi tính đến ngày 26/8/2024 72.280.339đ (bảy
mươi triệu hai trăm bảy mươi nghìn bảy trăm ba mươi chín đồng); tổng cộng
1.100.840.33(một tỷ một trăm triệu tám trăm bốn mươi nghìn ba trăm ba mươi
chín đồng). Bà cũng đồng ý trả theo yêu cầu bà Đ về số tiền gốc và tiền lãi tính đến
ngày 26/8/2024 theo thời gian, mức lãi suất H yêu cầu nhưng hiện tại do khó
khăn nên xin trả theo đợt, cụ thể: sẽ trcho Đ số tiền 50.000.000đ (năm
mươi triệu đồng)/ năm đến khi trả hết nợ.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh phát biểu
ý kiến như sau:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ vụ án đến nay,
Thẩm phán đã thực hiện đúng nội dung quy định tại Điều 48 của Bộ luật Tố tụng
dân sự; Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định về phiên tòa thẩm; nguyên
đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 Điều 234 của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xgiải quyết vụ án theo hướng chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Trương Thị Hoa Đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hvụ án đã được xem xét tại
phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Trương Thị Hoa Đ yêu cầu bà Nguyễn Thị H phải
trả cho bà Đ số tiền còn nợ do mua bán trái cây; bị đơn bà Nguyễn Thị H có nơi cư
trú Tổ dân phố số I, thị trấn V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa. Căn cứ theo khoản 3
Điều 26, điểu a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân
sự tđây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà.
[2] Về nội dung:
[2.1] Tại phiên tòa, nguyên đơn Trương Thị Hoa Đ đề nghị Tòa án buộc
Nguyễn Thị H phải trả cho một lần toàn bộ số tiền nợ do mua bán trái cây là
1.100.840.339đ (một tỷ một trăm triệu tám trăm bốn mươi nghìn ba trăm ba mươi
chín đồng), trong đó nợ gốc 1.028.560.000 đồng (một tỷ không trăm hai mươi
5
tám triệu năm trăm sáu ơi nghìn đồng); tiền lãi chậm trả tính từ ngày
12/12/2023 đến ngày 26/8/2024 là 08 tháng 14 ngày với mức lãi suất 0,83%/ tháng
72.280.339đ (bảy mươi triệu hai trăm bảy mươi nghìn bảy trăm ba ơi chín
đồng) theo hợp đồng mua bán trái cây ngày 23/8/2023.
[2.2] Tại biên bản lấy lời khai ngày ngày 21 tháng 5 năm 2024, các biên bản
hoà giải tại phiên tòa hôm nay, bị đơn Nguyễn Thị H cũng thống nhất với
phần trình bày của bà Trương Thị Hoa Đ về việc mua bán giữa hai bên, số tiền còn
nợ nghĩa vụ trả nợ; H xác định hiện tại còn nợ bà Đ số tiền 1.028.560.000đ
(một t không trăm hai mươi tám triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng) do mua
bán trái cây và đây là khoản nợ riêng của bà, không liên quan đến chồng bà nên bà
chịu trách nhiệm trả cho bà Đ.
[2.3] Căn cứ vào Hợp đồng mua bán trái cây ngày 23/8/2023 do hai bên lập,
chữ xác nhận của Nguyễn Thị H bà Trương Thị Hoa Đ cung cấp cho
Tòa án căn cứ vào lời khai của các đương strong quá trình giải quyết vụ án.
đủ căn cứ kết luận: Việc mua bán trái cây giữa Trương Thị Hoa Đ
Nguyễn Thị H thật, các bên đã thỏa thuận xác lập hợp đồng mua bán tài sản
trên sở hoàn toàn tnguyện; bà Nguyễn Thị H còn nợ bà Trương Thị H1 Đào
số tiền mua bán trái cây 1.028.560.000đ (một tỷ không trăm hai mươi tám triệu
năm trăm sáu mươi nghìn đồng), hiện nay H vẫn chưa thanh toán còn nợ lại
bà Đ số tiền nêu trên.
[2.4] Việc bà H không thanh toán tiền cho bà Đ đã vi phạm quy định về hợp
đồng dân svmua bán tài sản; nghĩa vụ trả tiền được quy định tại Điều 440 của
Bộ luật Dân sự; đồng thời gây kkhăn cho Đ trong việc thu hồi tiền nợ, ảnh
hưởng quyền lợi của Đ nên Đ khởi kiện yêu cầu H trả tiền cho
căn cứ và đúng quy định của pháp luật. Bà Trương Thị Hoa Đ và bà Nguyễn Thị H
đều xác định khoản tiền nợ 1.028.560.000đ (một tỷ không trăm hai ơi tám triệu
năm trăm sáu mươi nghìn đồng) nợ riêng của mình H, Đ chỉ yêu cầu bà H
trả nợ mà không yêu cầu chồng bà H hoặc ai khác cùng trả nợ.
[2.5] Về tiền lãi chậm trã: Nguyên đơn Trương Thị Hoa Đ yêu cầu bị đơn
Nguyễn Thị H phải trả số tiền lãi chậm trả kể từ ngày 12/12/2023 đến ngày
26/8/2024 08 tháng 14 ngày với mức lãi suất 0,83%/ tháng (tức 10%/năm), cụ
thể:
+ Lãi của 08 tháng: (1.028.560.000 đồng x 0,83%/tháng x 08 tháng) =
68.296.384 đồng
+ Lãi của 14 ngày: [(68.296.384 đồng :8) : 30 ngày] x 14 ngày = 3.983.955
đồng
6
Tổng cộng: 68.296.384 đồng + 3.983.955 đồng = 72.280.33 (bảy mươi
triệu hai trăm bảy mươi nghìn bảy trăm ba mươi chín đồng).
HĐXX xét thấy, nguyên đơn yêu cầu tiền lãi chậm trả với khoảng thời gian
mức lãi suất như trên phù hợp với quy định tại các Điều 357, khoản 2 Điều
468 Bộ luật Dân sự năm 2015; đồng thời, bị đơn bà Nguyễn Thị H cũng đồng ý trả
tiền lãi chậm trả với khoảng thời gian mức lãi suất nguyên đơn yêu cầu nên
cần chấp nhận.
[2.6] Về yêu cầu của bị đơn: Bị đơn bà Nguyễn Thị H trình bày trong số tiền
nợ 1.028.560.000 đồng (một tỷ không trăm hai mươi tám triệu năm trăm sáu mươi
nghìn đồng) cộng thêm tiền lãi nhưng H không xác định số tiền lãi bao
nhiêu cũng như không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh việc này.
Đồng thời, H cũng xác định tại hợp đồng mua hợp đồng mua bán trái cây ngày
23/8/2023 không thhiện cộng tiền lãi vào trong số tiền này. Do đó không
cơ sở chấp nhận.
Nguyễn Thị H đồng ý trả cho nguyên đơn s tiền nợ do mua bán
1.100.840.33(một tỷ một trăm triệu tám trăm bốn mươi nghìn ba trăm ba mươi
chín đồng), trong đó nợ gốc 1.028.560.000 đồng (một tỷ không trăm hai mươi
tám triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng) và tiền lãi chậm trả tính từ ngày
12/12/2023 đến ngày 26/8/2024 là 08 tháng 14 ngày với mức lãi suất 0,83%/ tháng
72.280.339đ (bảy mươi triệu hai trăm bảy mươi nghìn bảy trăm ba ơi chín
đồng). Tuy nhiên, do hiện nay H đang gặp khó khăn nên xin trả thành tng đợt,
H đề nghị sẽ trả cho bà Đ số tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng)/ 01 (một)
năm cho đến khi trả hết số nợ. Tuy nhiên, yêu cầu này của H không được Đ
đồng ý nên không có căn cứ chấp nhận.
[2.7] Về việc người đại diện hợp pháp của nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi
kiện: Tại Đơn yêu cầu sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu bị
đơn phải trả tiền lãi chậm t theo mức lãi suất 1%/tháng (tức 20%/năm). Tuy
nhiên, tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Kim T thay
đổi yêu cầu đối với mức lãi suất, chỉ yêu cầu bị đơn trả khoản tiền lãi chậm trả theo
mức lãi suất 0,83%/tháng (tức 10%/năm). Việc thay đổi yêu cầu ông T hoàn
toàn tnguyện, không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu nên Hội đồng
xét xử căn cứ khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận yêu cầu này
của ông T.
[2.7] Từ những nhận định và phân ch trên, Hội đồng xét xxét thấy cần
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bđơn Nguyễn Thị H phải
trả một lần cho nguyên đơn Trương Thị Hoa Đ toàn bộ số tiền mua bán trái cây
còn nợ 1.100.840.339đ (một tỷ một trăm triệu tám trăm bốn mươi nghìn ba trăm
7
ba mươi chín đồng), trong đó nợ gốc là 1.028.560.000 đồng (một tỷ không trăm hai
mươi tám triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng); tiền lãi chậm trả tính từ ngày
12/12/2023 đến ngày 26/8/2024 72.280.339đ (bảy mươi triệu hai trăm bảy mươi
nghìn bảy trăm ba mươi chín đồng)
[3] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh đề nghị
Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu nguyên đơn căn cứ, đúng quy
định của pháp luật và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[4] Về án phí: Yêu cầu của Trương Thị Hoa Đ được chấp nhận nên Đ
không chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn lại cho bà Đ tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự thẩm theo quy định của pháp
luật, cụ thể:
36.000.000 đồng + [3% x (1.100.840.339 đồng – 800.000.000 đồng)] =
45.025.210 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 144, Điều 147; khoản 1 Điều 244; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 357, Điều 430, Điều 440, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm
2015;
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng
12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, án phí, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Trương Thị Hoa Đ.
Buộc Nguyễn Thị H phải trả cho Trương Thị H1 Đào số tiền mua bán
trái cây còn nợ 1.100.840.339đ (một tỷ một trăm triệu tám trăm bốn mươi nghìn
ba trăm ba mươi chín đồng), trong đó nợ gốc là 1.028.560.000 đồng (một tỷ không
trăm hai mươi tám triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng) tiền lãi chậm trả tính
đến ngày 26/8/2024 72.280.339đ (bảy mươi triệu hai trăm bảy mươi nghìn bảy
trăm ba mươi chín đồng)
Quy định: Kể từ ngày người được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án,
nếu người phải thi hành án không thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng người
phải thi hành án còn phải trả cho bên được thi hành án một khoản tiền lãi đối với
số tiền chậm thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự
2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
8
2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự thẩm
45.025.210đ (bốn mươi năm triệu không trăm hai mươi lăm nghìn hai trăm mười
đồng).
Hoàn trả lại cho Trương Thị H1 Đào số tiền tạm ứng án phí dân sự
thẩm đã nộp 19.400.000đ (mười chín triệu bốn trăm nghìn đồng) 1.285.000đ
(một triệu hai trăm m mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án
phí, lệ phí Tòa án số 0006922 ngày 04/4/2024 và số 0007049 ngày 20 tháng 6 năm
2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa.
3. Quyền kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn 15 (mười lăm) ngày kể t
ngày tuyên án thẩm để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc
thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi nh án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7,7a Điều 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Khánh Hòa;
- VKSND tỉnh Khánh Hòa;
- VKSND huyện Vạn Ninh;
- Chi cục THADS huyện Vạn Ninh
(Sau khi án có hiệu lực pháp luật);
- Các đương sự;
- Lưu AV;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Vi Nhật Hoàng
Tải về
Bản án số 21/2024/DS-ST Bản án số 21/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 21/2024/DS-ST Bản án số 21/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất