Bản án số 460/2024/DS-PT ngày 29/08/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 460/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 460/2024/DS-PT ngày 29/08/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bến Tre
Số hiệu: 460/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: “Tranh chấp hợp đồng trao đổi quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Phạm Minh S với bị đơn ông Lê Học T, bà Phạm Thị Thu H
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 460/2024/DS-PT
Ngày: 29/8/2024
Về việc tranh Chấp hợp
đồng trao đổi quyền sử dụng
đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT N
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CH NGHĨA VIỆT N
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Ông Nguyễn Chí Đức
Các Thẩm phán:
Ông Phạm Văn Ngọt
Ông Lê Minh Đạt
- Thư ký phiên tòa:Đào Nguyễn Yến Phương - Thẩm tra viên Toà án
nhân dân tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Minh Phượng – Kiểm sát viên.
Ngày 29/8/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre, xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 48/2024/TLPT-DS ngày 04 tháng 3 năm
2024 về việc Tranh Chấp hợp đồng trao đổi quyền sử dụng đất do Bản án dân
sự sơ thẩm số 06/2024/DS-ST ngày 25 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân
huyện B, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc
thẩm số 1024/2024/QĐXXPT-DS ngày 14 tháng 3 năm 2024 và Quyết định tạm
ngừng phiên toà số 1298/2024/QĐ-PT ngày 09/4/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phm Minh S, sinh năm 1970
Địa ch: p PT, xã P, huyn B, tnh Bến Tre
Người đại din theo y quyn của nguyên đơn: Ông Phm Quang Hi,
sinh năm 1980 (có mt)
(Theo hợp đồng y quyn ngày 18/5/2023)
Địa ch: p GK, PL, huyn B, tnh Bến Tre
- B đơn:
1. Ông Lê Hc T, sinh năm 1963
2. Bà Phm Th Thu H, sinh năm 1964
Cùng địa ch: p PT, xã P, huyn B, tnh Bến Tre.
Người đại din theo u quyn ca b đơn: Anh Nguyn Nht N, sinh năm
2
1992 (có mt)
Địa ch: s 427C4, khu ph 6, phường P, thành ph B, tnh Bến Tre.
(Theo hợp đồng y quyn ngày 08/4/2024)
Người bo v quyn li ích hp pháp cho b đơn: Luật sư Nguyn
Hu D Văn phòng luật sư Nguyễn Hu D thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bến Tre (có
mt)
- Ngưi kháng cáo: B đơn ông Lê Học T và bà Phm Th Thu H.
NI DUNG V ÁN:
Theo bản án sơ thẩm,
Theo đơn khởi kiện ngày 10/10/2022, đơn khởi kiện b sung ngày
15/12/2023, trong quá trình t tụng tại phiên tòa người đại diện theo y
quyền của nguyên đơn trình bày:
Trước đây ông Phạm Minh S đưc chnga mẹ rut cho một phần đất
din tích khoảng 1.800m
2
thuộc thửa số 1678 tờ bản đồ số 01 tolạc tại P,
loại đất trồng lúa.
Vào năm 1999 chngruột ông là bà Phạm Thị Thu H và anh rễ là ông Lê
Học T con bệnh, kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn, cần tiền lo cho con trị
bệnh, ăn học nên vợ chng ông T kêu bán thửa đất của ông T thửa 98 tờ bn
đồ số 10 tolạc tại P (hiện nay) để lấy tiền lo cho gia đình. Tuy nhiên, do
thửa đất số 98 tờ bản đồ số 10 nm vị tkhó bán nên vợ chng ông T tha
thuận với ông S là: vợ chng ông T lấy 1.800m
2
đất thửa 1678 tờ bản đồ số 01
để bán, đổi lại vợ chng ông T sẽ giao cho ông S 1.800m
2
đất thuộc một phần
thửa 98 tờ bản đồ số 10, toạ lạc tại P. Sau khi thống nhất việc trao đổi, ông S
đã tiến hành bán 1.800m
2
đất thuộc thửa 1678 tờ bản đồ số 01 đã giao tiền
cho vợ chng ông T. Đổi lại vợ chng ông T đã tiến hành giao toàn bộ din tích
đất thửa 98, tờ bản đồ số 10 cho ông S vào canh tác từ năm 1999 khoảng hơn
3000m
2
đến khi nhà nước thu hồi đất làm khu công nghiệp tái định cư thuộc một
phần thửa đất trên thì ông T tự vào chiếm lại toàn bộ thửa đất mà ông S đã canh
tác từ năm 1999 đến năm 2021.
Quá trình canh tác đất thửa 98, tờ bản đsố 10 với diện tích 3.087,7 m
2
thì ông S đã sử dụng từ năm 1999 cho đến khi nhà nước thu hồi đất làm khu tái
định khu công nghiệp P ông người trực tiếp trồng cây nhãn, cây dừa từ
năm 1999 sau khi thỏa thuận trao đổi đất được thực hiện xong, nên ông S đã
làm giấy tay đề ngày 20/01/1999 thể hiện nội dung trao đổi đất. Từ khi trao đổi
vào canh tác cho đến nay ông T chưa thực hiện việc S tên 1.800m
2
quyền sử
dụng đất cho ông S.
Năm 2021 nhà nước thu hồi một phần thửa 98, tờ bản đồ số 10 làm khu tái
định cư phục vụ khu công nghiệp P, trong đó thu hồi một phần thửa 98 tờ bản đồ
số 10 với diện tích 2.020m
2
, diện tích còn lại thửa 98 tờ bản đồ số 10
1.067,8m
2
. Do thửa đất số 98 tờ bản đồ số 10 do ông T đã kê khai theo hồ sơ đa
3
chính nên sau khi nhận tiền bồi thường quyền sử dụng đất và cây trồng ông T đã
không giao trả lại cho ông S chiếm gisố tiền đó luôn, mặc ông S đã
nhiều lần đòi ông T trlại nhưng ông T không trả, sau đó ông gửi đơn ra y
ban nhân dân xã P để mời giải quyết nhưng hai lần ông T đều không đến dự.
Nay ông S yêu cầu Toà án giải quyết như sau:
Buộc ông Học T Phạm Thị Thu H tiếp tục thực hiện hợp đồng
trao đổi quyền sử dụng đất theo như thoả thuận năm 1999 với diện tích đất đổi là
1.800m
2
. Tuy nhiên, diện tích đất này còn lại của thửa 98, tờ bản đồ số 10 to
lạc tại xã P sau khi bị nhà nước thu hồi chỉ còn lại là 1.067,8m
2
theo hoạ đồ hin
trạng sử dụng đất ngày 21/8/2023.
Trli cho ông S din tích đất là 732,2m
2
quyền sử dụng đất đã bị thu hồi
theo gthu hồi 378.000 đồng/m
2
, thành tiền 276.771.600 đồng (hai trăm
bảy mươi sáu triệu bảy trăm bảy mươi mốt ngàn sáu trăm đồng).
Trlại cho ông S giá trị các cây trồng đã bị thu hồi trên thửa đất 98 tờ bản
đồ số 10 theo giá thu hồi 78.510.000 đồng (bảy mươi tám triệu năm trăm
ời ngàn đồng).
Trlại cho ông S tiền hỗ trnghề nghiệp khi nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp đối với phần đất ông S b thu hồi 732,2m
2
với giá hỗ tr 87.885
đồng/m
2
, thành tiền 64.349.397 đồng (sáu mươi bốn triệu ba trăm bốn mươi
chín ngàn ba trăm chín bảy đồng).
Đối với kết quả đo đạc ngày 21/8/2023, kết quả định giá ngày 23/6/2023,
kết luận giám định số 2687/KL-KTHS ngày 11/5/2023 và kết luận giám định s
844/2023/KL-KTHS ngày 21/11/2023 ông S thống nhất không ý kiến
khác.
Đối với chi phí tố tụng, ông S đề nghị giải quyết theo quy định của pháp
luật.
Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là: Giấy tay mượn đất ngày
20/01/1999.
Tại biên bản hòa giải ngày 12/9/2023, 15/12/2023, bản tự khai ngày
24/02/2023 của ông Học T Phạm Thị Thu H, quá trình ttụng tại
phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của bị đơn anh Nguyễn Nhật N trình
bày:
Ông Lê Học T và bà Phạm Thị Thu H không đồng ý với yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, bởi không việc mượn đất như nguyên đơn trình bày. Giấy
mượn đất ngày 20/01/1999 do nguyên đơn xuất trình là giả mạo. Chữ ch
viết không phải là của ông T và bà H. Nguyên đơn cho rằng nguyên đơn sử dụng
đất t năm 1999 đến nay là không chứng cứ, bởi việc bồi thường bồi
thường cho ông T, không phải bồi thường cho ông S. Ông S không có chứng cứ
chứng minh quá trình sử dụng đất liên tục từ năm 1999 đến nay. Ngoài ra, ông S
cũng không xây nhà hay công trình trên đất. Tại Biên bản hoà giải tại Toà
4
án ngày 12/9/2023 thì chính người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn đã
xác định đất do ông T sử dụng từ năm 1999 cho đến ngày nay điều này
phía bị đơn không cần phải chứng minh.
Việc ông S trình bày đã giao tiền bán đất cho ông T để đổi một phần thửa
98 tờ bản đồ số 10 không căn cứ, bởi không chứng cứ giao tiền để đổi
đất, nguyên đơn trình bày giao tiền nhưng đi đòi đất là không có căn cứ. Nguyên
đơn cho rằng trao đổi đất cho ông T nhưng không nói thửa đất nào đã được
trao đổi với ông T để đổi lấy một phần thửa 98 tờ bản đồ số 10. Mặc khác ông S
không có chủ quyền để trao đổi đất với ông T.
Nguyên đơn cho rằng trao đổi đất nhưng không xuất trình hợp đồng
trao đổi đất theo quy định tại điều 455 Bộ luật Dân sự. Đề nghị nguyên đơn giao
nộp hợp đồng trao đổi đất nhưng nguyên đơn đã xác định tại buổi công khai
chứng cứ ngày 25/12/2023 cho đến tại thời điểm xét xử ngày 25/01/2024
cũng không xuất trình chứng cứ nguyên đơn đã giao đất, giao tiền đổi đất.
Hơn nữa, theo đề nghị Toà án cần làm những nội dung như Giấy mượn đất
ruộng ngày 20/01/1999 chưa làm do ai viết, nguyên đơn không cung cấp
được.
Giấy mượn đất ruộng có tên bà H nhưng lại không yêu cầu giám định chữ
viết của H trong khi lại yêu cầu tráchồng nhiệm liên đới của H? Trong khi
đó là tài sản chung của bà H và ông T.
Các mẫu chữ M11, M12, M13 chưa đủ sở kết luận, đặc biệt M12,
M13 do ông T ký trước mặt Công chứng viên và Thẩm phán nhưng lại không đủ
sở kết luận. Do đó, bị đơn xác định chứng cứ Giấy mượn đất ruộng ngày
20/01/1999 là không có giá trị pháp lý.
Đối với kết quả đo đạc ngày 21/8/2023, kết quả định giá ngày 23/6/2023
ông T H thống nhất không ý kiến. Riêng kết luận giám định số 2687/KL-
KTHS ngày 11/5/2023 và kết luận giám định số 844/2023/KL-KTHS ngày
21/11/2023 ông T không thống nhất bởi ông cho rằng ch viết ch
không phải của ông, đây là chng cứ giả mạo.
Đối với chi phí ttụng, vợ chồng ông T đề nghị giải quyết theo quy định
của pháp luật.
Sau khi hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện B đưa vụ án ra xét
xử với quyết định:
Áp dụng Điều 3, điểm b khoản 1 Điều 117, 119, 129, 500, 501, 502,
điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015; Án lsố 15/2017/AL ngày
14/12/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Án lệ số 04/2016/AL ngày
06/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Điều 101 Luật Đất đai năm
2013; Mục 54 của Nghị định số 01/2017 ngày 06/01/2017 Nghị định sửa đổi, bổ
sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai quy định (sửa
đổi, bổ sung khoản 1 Điều 82 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
5
15/5/2014); Điều 26, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản
lý và sử dụng án phí và lệ pTòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Minh
S đối với ông Lê Học T và bà Phạm Thị Thu H về việc yêu cầu Tòa án buộc ông
Học T Phạm Thị Thu H tiếp tục thực hiện hợp đồng trao đổi quyền sử
dụng đất theo giấy “Mượn đất ruộng ngày 20/01/1999”.
Công nhận giấy “Mượn đất ruộng ngày 20/01/1999”, được lập ngày
20/01/1999 giữa ông Phạm Minh S và ông Học T, bà Phạm Thị Thu H
hiệu lực pháp luật.
2. Buộc ông Học T bà Phạm Thị Thu H phải nghĩa vụ giao trả
cho ông Phạm Minh S quyền sử dụng đất thuộc các thửa 98-1, 98-2, 98-3 tờ bản
đồ số 10, toạ lạc tại xã P, huyện B diện tích 1.067,8m
2
. Thuộc các điểm
ABG’F’A theo họa đồ hiện trạng sử dụng đất ngày 21/8/2023.
Ông Phạm Minh S được quyền sử dụng hợp pháp đối với các thửa đất số
98-1, 98-2, 98-3 tờ bản đồ số 10, diện tích 1.067,8m
2
toạ lạc tại P, huyện B,
tỉnh Bến Tre theo họa đồ ngày 21/8/2023 kèm theo.
3. Ông Phạm Minh S nghĩa vụ liên hệ quan nhà nước thẩm
quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 98-1,
98-2, 98-3 tờ bản đồ số 10, diện tích 1.067,8m
2
toạ lạc tại P được thể hiện tại
các điểm ABG’F’A theo họa đồ ngày 21/8/2023.
4. Buộc ông Học T Phạm Thị Thu H phải nghĩa vụ liên đới
hoàn trả cho ông Phạm Minh S, tổng số tiền 419.630.997 đồng (bốn trăm
i chín triệu sáu trăm ba mươi ngàn chín trăm chín mươi bảy đồng). Bao
gồm các khoản như sau:
4.1. Buộc ông Lê Học T và bà Phạm Thị Thu H có nghĩa vụ liên đới hoàn
trả cho ông Phạm Minh S giá trị quyền sdụng đất tương ứng với din tích đất
732,2m
2
đã bị thu hồi theo giá thu hồi 378.000 đồng/m
2
, thành tiền là
276.771.600 đồng (hai trăm bảy mươi sáu triệu bảy trăm bảy mươi mốt ngàn sáu
trăm đồng).
4.2. Buộc ông Lê Học T và bà Phạm Thị Thu H có nghĩa vụ liên đới hoàn
trả cho ông Phạm Minh S giá trị các cây trồng đã bị thu hồi trên thửa đất 98 tờ
bản đồ số 10 theo giá thu hồi 78.510.000 đồng (bảy mươi tám triệu năm trăm
ời ngàn đồng).
4.3. Buộc ông Lê Học T và bà Phạm Thị Thu H có nghĩa vụ liên đới hoàn
trả cho ông Phạm Minh S tiền htrchuyển đổi nghề nghiệp khi nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp đối với phần đất ông S bị thu hồi 732,2m
2
với giá hỗ tr
87.885 đồng/m
2
, thành tiền 64.349.397 đồng (sáu mươi bốn triệu ba trăm bốn
mươi chín ngàn ba trăm chín bảy đồng).
6
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp quan
thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả
cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân snăm 2015, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.
5. Buộc ông Phạm Minh S nghĩa vụ hoàn trả lại cho ông Học T
Phạm Thị Thu H giá trị các cây trồng trên đất có diện tích 1.067,8m
2
gồm 32 cây
dừa, 33 bụi chuối tổng số tiền 5.483.000 đồng (năm triệu bốn trăm tám mươi
ba ngàn đồng).
Ông Phạm Minh S được sở hữu 32 cây dừa, 33 bụi chuối trên phần đất
tranh Chấp.
Ngoài ra, bn án còn tuyên v chi phí t tng, án phí dân s thẩm
quyn kháng cáo của các đương sự.
Ngày 05 tháng 02 năm 2024, ông Lê Hc T Phm Th Thu H kháng
cáo.
Theo đơn kháng o ca ông Hc T Phm Th Thu H ti
phiên tòa phúc thẩm người đại din theo y quyn ca ông T, H gia nguyên
ni dung kháng cáo toàn b bản án sơ thẩm. Lý do kháng cáo vì cho rng Tòa án
cấp thẩm xác định quan h tranh Chp ca v án “Tranh Chp hợp đồng
hoán đổi đất” là không đúng quy đnh ca pháp lut; Tòa án cấp sơ thẩm đưa ra
nhng nhận định v ni dung v án không khách quan, không phù hp vi
nhng tài liu chng c trong h vụ án. Đng thi, b đơn đã đơn yêu
cu Tòa án cp thm thu thp chng c ngày 04/12/2023 v 05 ni dung
trước khi đưa vụ án ra xét x và Tòa án cấp sơ thẩm đã ghi nhận nhng ni dung
này ti biên bn công khai chng c ngày 15/12/2023 thế nhưng Tòa án cấp
thm không làm 05 nội dung theo đơn yêu cầu thu thp chng c ca b đơn
mà vẫn đưa vụ án ra xét xử. Do đó, Tòa án cấp thẩm đã có những vi phạm, đề
ngh Tòa án cp phúc thm hy bản án sơ thm, chuyn h về a án cấp
thm gii quyết li theo th tc chung.
Ti phiên tòa phúc thm, người đại din theo y quyn ca nguyên đơn
ông Phm Minh S không đồng ý ni dung kháng cáo ca b đơn, yêu cu Tòa án
cp phúc thm gi nguyên bản án sơ thẩm.
Ngưi bo v quyn li ích hp pháp cho b đơn luật Nguyễn
Hu D trình bày: thửa đất 1678 nguồn gốc là của bà Trương Thị Bốn chứ không
phải của ông S, Bốn bán cho ông Việt địa phương xác nhận. Tức năm
2000 không còn đất để đổi hay cho ông T mượn, do đó tờ giấy mượn đất ruộng
năm 1999 không có giá trị pháp lý, mượn vài năm trả thì bao nhiêu năm
sao không thấy đòi lại đất, đất của mẹ ông S thì làm ông S quyền cho
7
mượn hoặc hoán đổi. Tòa án cấp thẩm cho rằng thỏa thuận miệng trao đổi
đất giữa ông S ông T nhưng không tài liệu nào trong hồ sơ thể hiện ông T
thừa nhận việc đổi đất. Đồng thời, Tòa án cấp thẩm áp dụng Án lệ số
15/2017 trong vụ án này không phù hợp án lệ này được áp dụng trong
trường hợp đổi đất trước năm 1993 (trước ngày Luật Đất đai năm 1993 hiệu
lực pháp luật), trong khi sự việc giữa các bên xảy ra từ năm 1999 (tức thời điểm
này Luật Đất đai năm 1993 đang hiệu lực pháp luật) thì phải áp dụng Luật
Đất đai năm 1993 chứ không thể áp dụng án lệ. Tòa án cấp sơ thẩm đã có những
vi phm nên đề ngh Tòa án cp phúc thm hy bản án sơ thẩm, chuyn h sơ v
Tòa án cấp sơ thẩm gii quyết li theo th tc chung.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phát biểu: Về t tụng:
Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự; những người tham gia tố tụng đã thực hiện quyền nghĩa vụ tố
tụng của họ theo quy định của pháp luật. Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử
căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Ttụng dân sự, không Chấp nhận kháng cáo
của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cu các tài liu chng c trong h v án được thm
tra tại phiên tòa; căn c vào kết qu tranh tng; xét kháng cáo ca ông Lê Hc T
và bà Phm Th Thu H và đề ngh của đại din Vin kim sát nhân dân tnh Bến
Tre; Hội đồng xét x nhận định:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Ông Hc T Phm Th Thu H kháng cáo thực
hiện các thủ tục kháng cáo hợp lệ, trong thời hạn luật định nên được xem xét
giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
Nguyên đơn ông Phạm Minh S cho rằng vào năm 1999 do cần tiền để lo
cho con ăn học điều trị bệnh nên ông Học T đồng ý trao đổi 1.800m
2
quyền sử dụng đất thuộc một phần thửa 98 tờ bản đồ số 10 toạ lạc tại P (hiện
nay) để đổi lấy 1.800m
2
quyền sử dụng đất thuộc thửa 1678 tờ bản đồ số 01 toạ
lạc tại P sẽ được ông S, Bốn bán để lấy tiền giao cho ông T lo cho con bị
bnh đổi lại ông T giao phần đất thuộc thửa 98 tờ bản đồ số 10 toạ lạc tại
P cho ông S canh tác quản lý, sử dụng. Đối với bị đơn ông Lê Học T và bà Phạm
Thị Thu H cho rằng không việc trao đổi đất như ông S trình bày. Giấy mượn
đất ruộng do nguyên đơn giao nộp là giả mạo.
Xét chứng cứ “Giấy mượn đất ruộng ngày 20/01/1999 do nguyên đơn
cung cấp nội dung như sau: “Tôi tên Học T Phạm Thị Thu H 1963 -
1964. Hiện ngụ ấp 1, P- B- Bến Tre, vợ chồng tôi mượn Phạm Minh S,
sinh năm……., số diện tích 1.800m
2
một ngàn tám trăm mét đất ruộng vào
ngày 20-1-1999. Khoảng vài năm vợ chồng tôi trả lại diện tích nói trên bằng đất
ruộng”, tại mục người mượn chữ chữ viết của Học T. Tại Kết luận
8
giám định số 2687/KL-KHHS ngày 11/5/2023 của Bộ Công an-Tại Viện khoa
học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh Kết luận giám định số 844/KL-
KHHS ngày 21/11/2023 của Phòng k thuật hình sự - Công an Tỉnh Bến Tre
(BL 252) đã kết luận ch ký, chữ viết họ tên “Lê Học Ttrên nhiều tài liệu
mẫu so sánh do cùng một người viết, ký ra. Tuy nhiên, nội dung “Giấy mượn đất
ruộng” ngày 20/01/1999 chỉ thể hiện ông T H mượn ông S 1.800m
2
đất
ruộng vào ngày 20-1-1999, hứa khoảng vài năm sẽ trả lại diện tích nói trên bằng
đất ruộng mà không thể hiện rõ là mượn phần đất nào, thuộc thửa số mấy, tờ bản
đồ số mấy, toạ lạc tại đâu, cũng không có nội dung nào thể hiện về việc trao đổi
đất giữa các bên. Phía ông T bà H không thừa nhận việc trao đổi đất, phía
ông S không cung cấp được chứng cứ nào khác chứng minh giữa ông ông T
H thực hiện việc trao đổi phần đất tranh Chấp hiện tại nên không có cơ sở
để xác định vào thời điểm năm 1999 việc trao đổi đất ruộng xãy ra giữa ông
Phạm Minh S ông Học T, Phạm Thị Thu H đối với thửa đất số 98, tờ
bản đồ số 10, toạ lạc xã P, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Ông Phạm Minh S trình bày ông mTrương Thị Bốn đã thực
hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 1678, tờ bản đồ số 01 cho ông
Phan Văn Việt vào năm 2000 đgiao tiền cho ông Học T, diện tích chuyển
nhượng khoảng 1.869m
2
. Tuy nhiên, ông T không thừa nhận sự việc trên
ông S không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc giao tiền cho ông T
nên lời trình bày của ông S là không có cơ sở để xem xét.
Toà án cấp thẩm căn cứ vào lời khai của ông S, những người làm
chứngquy trình chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà Chi nhánh Văn phòng
đăng đất đai huyện B cung cấp thể hiện vào thời điểm năm 1999-2000 ông S
chuyển nhượng phần đất thửa 1678 diện tích 1.869m
2
cho ông Phan Văn Việt
để xác định việc trao đổi thửa đất 1678 của ông S với một phần thửa 98 của
ông T là chưa đủ chứng cứ thuyết phục.
Ngoài ra, cấp thẩm còn áp dụng Án lsố 15/2017 trong vụ việc này để
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không phù hợp bởi lẽ: bản chất
của Án lệ số 15/2017 hai bên tự nguyện đổi đất với nhau, sau khi đổi đất hai
bên đã đăng ký kê khai, được ghi nhận vào sổ địa chính đối với diện tích đất đổi
trực tiếp canh tác, sử dụng ổn định; việc đổi đất phải trước năm 1993 (trước
ngày Luật Đất đai có hiệu lực pháp luật). Còn trong trường hợp này, sự việc xảy
ra từ năm 1999 (tức thời điểm này Luật Đất đai năm 1993 đang có hiệu lực pháp
luật), thực tế không việc nhận đất canh tác giữa các bên cũng không
việc đăng ký kê khai như án lệ nhận định. Do đó không có cơ sở để vận dụng án
lệ này để Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Vì vậy, việc Toà án cấp sơ thẩm Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn không căn cứ, làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của bị
đơn, kháng cáo của bị đơn là có cơ sở để Chấp nhận.
9
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng cần sửa bản án
thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[3] Lời đề ngh của người bo v quyn và li ích hp pháp ca b đơn v
vic yêu cu Toà án cp phúc thm hu án đ xét x thẩm li không phù
hp. Hội đồng xét x xét thy không cn thiết hu án sơ thẩm, ch cn sửa án sơ
thẩm như đã nhận định trên.
[4] Quan điểm của đại din Vin kim sát nhân dân tnh Bến Tre là không
phù hp vi nhận định ca Hội đồng xét x nên không đưc Chp nhn.
[5] V chi phí t tng:
Do yêu cu khi kin của nguyên đơn không được Chp nhn nên nguyên
đơn phải chu toàn b chi phí t tng. Tuy nhiên, do b đơn tự nguyn chu
4.400.000 đồng chi phí yêu cầu giám định lại nên nguyên đơn phi chu chi phí
t tụng là 8.072.000 đồng.
[6] V án phí dân s sơ thẩm:
Do yêu cu khi kin của nguyên đơn v vic yêu cu tiếp tc thc hin
hợp đồng trao đổi quyn s dụng đất không được Chp nhận nên nguyên đơn
phi chu án phí dân s sơ thẩm không có giá ngchng là 300.000 đồng.
Do yêu cu khi kin của nguyên đơn về vic yêu cu b đơn trả giá trị
quyền sử dụng đất tương ng với diện tích đất 732,2m
2
đã bị thu hồi với số tin
là 276.771.600 đồng; trả giá trị các cây trồng đã bị thu hồi trên thửa đất số 98, tờ
bản đồ số 10, toạ lạc tại P, huyện B, tỉnh Bến Tre với số tiền 78.510.000
đồng; trả tiền hỗ tr chuyển đổi nghề nghiệp khi nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp đối với phần đất ông S bị thu hồi 732,2m
2
số tiền 64.349.397 đng
không được Chấp nhận nên nguyên đơn phi chịu án phí dân sự thẩm giá
ngchng là:
20.000.000 đồng + (4% x 19.630.997 đồng) = 20.785.239 đồng
[7] V án phí dân s phúc thm: Do kháng cáo đưc Chp nhn nên ông
T, bà H không phi chu án phí phúc thm.
Vì các l trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Chấp nhận kháng cáo của ông Học T và bà Phạm Thị Thu H. Sửa Bản
án dân ssơ thẩm số 06/2024/DS-ST ngày 25 tháng 01 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện B, tỉnh Bến Tre.
Áp dụng các Điều 500, 501, 502 Bộ luật Dân sự 2015; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản sử dụng án phí lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
10
1. Không Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm
Minh S đối với bị đơn ông Lê Học T và bà Phạm Thị Thu H về việc:
- Yêu cầu ông Học T Phạm Thị Thu H tiếp tục thực hiện hợp
đồng trao đổi quyền sử dụng đất theo “Giấy mượn đất ruộng” ngày 20/01/1999.
Phần đất qua đo đạc thực tế thuộc các thửa 98-1, 98-2, 98-3 tờ bản đồ số 10,
diện tích 1.067,8m
2
toạ lạc tại xã P, huyện B, tỉnh Bến Tre;
- Yêu cầu ông Lê Học T bà Phạm Thị Thu H trả cho ông Phạm Minh S
giá trị quyền sử dụng đất tương ứng với diện tích đất 732,2m
2
đã bị thu hồi với
số tiền 276.771.600 đồng (hai trăm bảy mươi sáu triệu, bảy trăm bảy mươi
mốt ngàn, sáu trăm đồng);
- Yêu cầu ông Lê Học T bà Phạm Thị Thu H trả cho ông Phạm Minh S
giá trị các cây trồng đã bthu hồi trên thửa đất số 98, tờ bản đồ số 10, toạ lạc tại
P, huyện B, tỉnh Bến Tre với số tin 78.510.000 đồng (bảy mươi tám triệu,
năm trăm mười ngàn đồng);
- Yêu cầu ông Lê Học T bà Phạm Thị Thu H trả cho ông Phạm Minh S
tiền hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp đối với
phần đất ông S bị thu hồi 732,2m
2
số tiền 64.349.397 đồng (sáu mươi bốn
triệu, ba trăm bốn mươi chín ngàn, ba trăm chín bảy đồng).
2. Về chi phí tố tụng:
Ông Phạm Minh S phải chịu số tiền chi phí tố tụng 8.072.000 đồng
(tám triệu, không trăm bảy mươi hai ngàn đồng) và đã nộp xong.
Bị đơn ông Học T Phạm Thị Thu H tự nguyện chịu chi phí yêu cầu
giám định lại số tiền 4.400.000 đồng (bốn triệu bốn trăm ngàn đồng) đã nộp
xong.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Phạm Minh S phải chịu án phí dân s thẩm không giá
ngạchồng 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ vào số
tiền tạm ứng án phí mà ông đã nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên
lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002091 ngày 01/02/2023 của Chi cục Thi hành
án dân sự huyện B.
Ông Phạm Minh S phải chịu án phí dân sự thẩm giá ngạchồng
20.785.239 đồng (hai mươi triệu, bảy trăm tám mươi lăm ngàn, hai trăm ba
mươi chín đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông đã
nộp 15.840.200 đồng (mười lăm triệu, tám trăm bốn mươi ngàn, hai trăm đồng)
theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí s0003298 ngày 24/01/2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện B. Ông S còn phải nộp tiếp số tiền án phí là 4.945.039
đồng (bốn triệu, chín trăm bốn mươi lăm nghìn, không trăm ba mươi chín đồng).
4. Ván phí dân sự phúc thẩm: Ông Học T Phạm Thị Thu H
không phải chịu án phí phúc thẩm. Chi cục Thi hành án dân sự huyện B hoàn lại
cho ông Học T số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn
11
đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003331 ngày 07/02/2024; hoàn
lại cho bà Phạm Thị Thu H số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm
ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án psố 0003332 ngày 07/02/2024.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a
Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện B;
- Chi cục THADS huyện B;
- Các đương sự;
- Phòng KTNV&THAHS tỉnh Bến Tre;
- Chánh án TAND tỉnh Bến Tre;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Chí Đức
Tải về
Bản án số 460/2024/DS-PT Bản án số 460/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 460/2024/DS-PT Bản án số 460/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất