Bản án số 13/2024/DS-ST ngày 04/09/2024 của TAND huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 13/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 13/2024/DS-ST ngày 04/09/2024 của TAND huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Lộc Bình (TAND tỉnh Lạng Sơn)
Số hiệu: 13/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Buộc bị đơn bà Chu Thị Q phải có nghĩa vụ thanh toán cho ông Chu Văn T với tổng số tiền nợ là 1.017.378.044 đồng (một tỷ không trăm mười bẩy triệu ba trăm bẩy mươi tám nghìn không trăm bốn mươi bốn đồng). Trong đó
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LỘC BÌNH
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 13/2024/DS-ST
Ngày 04-9-2024
V/v Tranh chấp hợp đồng
mua bán tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Nguyễn Thúy Huyền.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Hoàng Văn Vận và bà Vi Thị Hoà.
T phiên toà: Nguyễn Nhật Trang - T Toà án nhân dân
huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, tham
gia phiên toà: Ông Hoàng Chí Dũng - Kiểm sát viên.
Ngày 04 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lộc Bình,
tỉnh Lạng Sơn xét xử thẩm ng khai vụ án dân sự thụ số 29/2024/TLST-
DS ngày 13/5/2024 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”, theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 13/2024/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 7 năm 2024;
Quyết định hoãn phiên toà s: 13/2024/QĐST-DS ngày 20 tháng 8 năm 2024
Quyết định hoãn phiên toà s: 16/2024/QĐST-DS ngày 28 tháng 8 năm 2024,
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Chu Văn T, sinh năm 1990; cư t tại: Số nhà A, khu
phố B, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Bị đơn: Bà Chu Th Q, sinh năm 1962; trú ti: Khu phố B, thị trấn
N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Ngưi có quyền li nghĩa v liên quan:
1. Ông Hoàng Văn T, sinh năm 1983; có mt.
2. Ông Hoàng Văn N, sinh năm 1986; vắng mặt.
Đều cư trú tại: Khu phố B, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
3. Bà Hoàng Th T, sinh năm 1991; nơi cư trú: Khu A, th trn L, huyn
L, tnh Lng Sơn; vng mặt.
4. Bà Đinh ThHồng T, sinh năm 1987; nơi cư trú: Khu B, th trn N,
huyện L, tnh Lng Sơn; vng mặt.
5. Bà Nông Th O, sinh năm 1999; nơi trú: Số nhà A, khu phố B, thị
2
trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Ngưi làm chứng: Ông Png Văn T; nơi cư trú: Khu phB, thtrn
N, huyện L, tnh Lng Sơn; vng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 28/3/2024, đơn khởi kiện b sung ngày
10/5/2024, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Chu Văn
T trình bày như sau:
Ông với bà Chu Thị Q tnguyện làm ăn buôn bán với nhau tnăm 2015,
ông người trực tiếp lấy lợn hơi vđể giao bán cho bà Chu Thị Q. Giá ln hơi
do hai bên thoả thuận theo từng ngày. Khi ông lấy lợn về ông có thuê người làm
đhàng ngày đi giao lợn cho bà Chu Thị Q những người mua lợn khác, đến
cuối ngày ông là người tổng hợp ghi ra sổ, cuối tháng hai bên tổng hợp, đối
chiếu chốt sổ với nhau.
Đến năm 2019 v ông là Nông Thị O hàng ngày thay ông ghi s sách
đến cuối tháng (vông có trách nhiệm chốt sổ với bà Chu Thị Q), s tiền trả nợ,
nlại đều được ghi đầy đtrong s sách. Trong ssách các ngày, tháng đều th
hiện ghi ngày âm, không phải ngày, tháng dương lịch.
Đến ngày 07/6/2020 chai đã chốt sổ, bà Chu Thị Q còn nợ lại ông
177.900.000 đồng, Chu Thị Q có ghi ngày 07/6/2020 âm Bác T (gọi theo n
con trai c) còn nợ 177.900 (tức là một trăm bẩy mươi bẩy triệu chín trăm
nghìn đồng). Đây toàn bộ số tiền nợ gốc, khi này ông không tính lãi suất cho
Chu Thị Q.
Từ ngày 08/6/2020 đến ngày 21/11/2021 hai bên không giao lợn cho nhau
nữa (do bà Chu Thị Q nợ nhiều tiền chưa trả được).
Năm 2021: Bắt đầu từ ngày 22/11/2021 ông tiếp tục cung cấp lợn hơi cho
Chu Thị Q đến ngày 29/12/2021 vchồng ông đã xuống nhà Chu Thị
Q chốt sổ, số tiền Chu Thị Q còn nợ lại 154.000.000 đồng (một trăm mươi
tư triệu đồng là số tiền nợ gốc, không tính lãi suất). Số tiền nợ gốc của năm 2020
177.900.000 đồng vẫn để nguyên không cộng vào năm 2021.
Năm 2022: Bắt đầu từ ngày 06/01/2022 ông tiếp tc giao lợn hơi cho
Chu Thị Q và đến ngày 24/7/2022 thì không giao lợn cho Chu Thị Q nữa (do
nnhiều không trả được). Đến ngày 29/7/2022 đã chốt svà Chu Thị Q
còn nợ lại của năm 2021: 154.000.000 đồng cộng với số tiền nợ của năm 2022,
tổng n 457.850.000 đồng (chưa bao gồm tiền nợ của năm 2020). Đến ngày
30/12/2022 tvợ ông cộng toàn bộ số tiền nt năm 2020 đến năm 2022 t
tổng số tiềnChu Thị Q còn nợ ông là: 457.850.000 đồng + 177.900.000 đồng
= 635.750.000 đồng.
Từ ngày 25/7/2022 âm lịch đến ngày 31/3/2023 do bà Chu Thị Q nợ nhiều
tiền không trả được nên ông không cung cấp lợn cho nữa nhưng số nợ cũ bà
Chu Thị Q vẫn kng trả được.
Năm 2023: Từ ngày 01/4/2023 đến ngày 11/11/2023 ông tiếp tục giao lợn
3
cho Chu Thị Q (thời điểm này số nợ gốc Chu Thị Q ng không trả cho
ông được đồng nào). Trong đó: N mới cộng từ ngày 01/4/2023 đến ngày
27/5/2023 vông và bà Chu Thị Q đã chốt sổ nlà 52.100.000 đồng.
Từ ngày 27, 28/5/2023 đến 11/11/2023 ông người cầm sổ để ghi chép
theo dõi việc nợ, trả nợ của Chu Thị Q. Từ ngày 27, 28/5/2023 đến ngày
01/6/2023 Chu Thị Q lấy lợn, đến ngày 02/6/2023 Q trả tiền nợ một phần
ngày 03/6/2023 hai bên chốt sổ số tiền n tiền mới 4.600.000 đồng +
52.100.000 đồng = 56.700.000 đồng.
Sau đó Chu Thị Q tiếp tục lấy lợn đến ngày 20/6/2023 ông với
Chu Thị Q đã chốt sổ với nhau: Nợ tiền lợn mới 138.590.000 đồng - tiền tr
120.500.000 đồng = 18.090.000 đồng + 56.700.000 đồng (nợ cũ) + 635.750.000
đồng (nợ đã tổng hợp trong năm 2022) = 710.540.000 đồng (bẩy trăm mười
triệu năm trăm bốn mươi nghìn đồng). Tại thời điểm này cũng chưa tính tiền lãi
suất vi bà Chu Thị Q.
Từ ngày chốt sổ 20/6/2023 đến ngày 17/7/2023 (âm lịch) ông với Chu
Thị Q đã thống nhất Chu Thị Q phải trả cho ông số tiền lãi tháng 8 ơng
lịch10.000.000 đồng/tháng/tổng stiền nợ gốc là 710.540.000 đồng.
Từ ngày 23/6/2023 Chu Thị Q tiếp tục lấy lợn và đến ngày 01/8/2023
thì hai bên chốt sổ: Snợ mới 309.288.000 đồng - 321.000.000 đng (bà Chu
Thị Q trả) = thừa 11.712.000 đồng (nhưng trong s ông tính nhầm thừa
12.500.000 đồng có lợi cho bà Chu Thị Q nên ông vẫn giữ nguyên số tiền này để
tr cho bà Chu Thị Q và để khớp với sổ nợ). Tổng số nợ cũ: 710.540.000 -
12.500.000 đồng = 698.000.000 đồng.
Từ ngày 01/8/2023 đến ngày 30/8/2023 Chu Thị Q tiếp tục lấy lợn hơi
đến ngày 30/8/2023 hai bên chốt sổ: Số nmới 63.254.000 đồng + nợ cũ:
698.000.000 đồng = 761.254.000 đồng + lãi tháng 7 âm lãi tháng 8 âm của
năm 2023 20.000.000 đồng = 781.254.000 đồng. Bà Chu Thị Q ghi:”Trả
lãi chốt sổ 781.254 triệu”.
Từ ngày 01/9/2023 đến ngày 03/12/2023 Chu Thị Q tiếp tục lấy lợn và
chốt sổ ngày 03/12/2023: Nmới + ntổng 998.456.000 đồng (trong đó
nợ cũ là 781.254.000 đồng).
T ngày 03/12/2023 âm lịch đến ngày 30/12/2023 âm lịch, hai bên đã
chốt sổ: nợ cũ 998.456.000 đồng - mi 13.200.000 đồng = 985.256.000 đồng, lãi
tháng 12/2023 âm lịch là 10.000.000 đồng. Bà Chu Thị Q ghi cộng lãi 10 triệu
là 995.256.000 đồng.
Việc tính lãi suất do bà Chu Thị Q nông stiền quá lớn và ông cũng
phải đi vay ợn đm ăn nên bắt đầu từ tháng 6/2023 âm lịch cả hai mới tho
thuận tính lãi sut với bà Chu Thị Q 10.000.000 đồng/tháng mới chỉ tính
được 04 lần trong năm 2023 (trong đó đã 01 lần ông ghi trùng thời điểm nên
s tiền lãi 10.000.000 đồng ông nhất trí tr vào s tiền ngốc: 995.256.000
đồng - 10.000.000 đồng, nay nợ gốc còn li là 985.256.000 đồng).
4
Tthời điểm chốt số tiền nợ với nhau vào ngày 30/12/2023 âm lịch thì c
hai không làm ăn với nhau nữa, ông đã nhiều lần điện thoại, đến nhà đòi tiền bà
Chu Thị Q nhưng bà Chu Thị Q khất lần không trả. Đến ngày 26/3/2024 dương
lịch bà Chu Thị Q đã viết cho ông một Giấy nhận nợ tiền lợn, trong giấy có
ghi:”….ngày 09/02/2023lấy lợn tnăm 2015 đến năm 2024 có nlại cháu T
stiền 995.256 triệu đồng (chín trăm chín mươi năm triệu hai trăm năm sáu
nghìn đồng), nay tôi viết giấy này xin khất n lại cháu Chu Văn T tôi xin nhận
với số nợ như trên tôi bán được đất (nhà) tôi tnguyện lên nhà cháu T tho
thuận với snnhư trên. Tôi hoàn toàn tỉnh táo không có sép buộc cũng như
không dùng chất kích thích nàongày 26/3/2023…”. Giấy này do chính tay bà
Chu Thị Q t nguyện viết, ký, không ai ép buộc, s chứng kiến của ông
trưởng khu ph1 ông Phùng Văn T. Do thời điểm đó ông không kiểm tra ngày
âm, ngày dương nên không biết Chu Thị Q viết nhầm ngày âm. Khi Chu
Thị Q viết giấy nhận nhận nlà viết giấy này trong cùng một buổi tối
ngày 26/3/2024 dương lịch. Phần cuối chỗ chviết có ghi Phùng Văn T 01
dòng ghi ngày 17/3/2024(chữ, ngày tháng năm này do ông tviết ra nhưng
ông đã viết nhầm tháng 02 thành tháng 03 âm lịch).
Do Chu Thị Q không trđược nợ, đến ngày 28/3/2024 ông đã làm đơn
khởi kiện gửi Toà án nhân dân huyện Lộc Bình xem xét giải quyết thì đến ngày
18/4/2024 dương lịch, Chu Thị Q đã đưa cho ông 01 Giấy chuyển nhượng
nhà và 02 GCNQSDĐ của gia đình bà Chu Thị Q cho ông mục đích cũng
muốn chuyển nhượng 01 mảnh đất để trừ ncho ông nhưng sau đó Chu Thị
Q không thực hiện được.
Tại đơn khởi kiện ông có yêu cầu bà Chu Thị Q phải trả cho ông stiền
nợ gốc là 995.256.000 đồng và tiền lãi suất 10%/năm kề từ ngày 09/02/2024 đến
ngày 09/05/2024, lãi tạm tính 1.020.137.400 đồng. Đến nay ông yêu cầu bà
Chu Thị Q phải trcho ông s tiền nợ gốc là: 985.256.000 đồng và lãi suất
10%/năm ông chyêu cầu tính lãi bắt đầu tngày 10/5/2024 (là ngày ông nộp
Đơn khởi kiện bổ sung) cho đến ngày xét x 04/9/2024.
Các nội dung mà ông yêu cầu tại Thông báo thụ lý ván tại mục 2 và 3 có
ghi: Bà Chu Thị Q không trả được nợ, yêu cầu Toà án tuyên buộc bà Chu Thị Q
phải sử dụng các tài sản của mình (bao gồm các tài sản được cho tặng, thừa
kế) để trả nợ cho ông Chu Văn Tiến. Trường hợp bà Chu Thị Q không trả,
ông Chu Văn Tcó quyền đề nghị quan Thi hành án dân sự thẩm quyền
phát mại tài sản hoặc nhận tài sản đề cấn trừ nợ theo quy định của pháp luật và
Trường hợp phát mại các tài sản của bà Chu Thị Q nhưng không đủ để trả khoản
nợ trên, đề nghị Toà án tiếp tục tuyên Chu Thị Q tiếp tục nghĩa vụ trả nợ
cho đến khi thanh toán xong mọi khoản nợ, ông tự nguyện rút yêu cầu, không đ
nghị Toà án xem xét giải quyết.
Đối với 02 Giấy chứng nhận quyền sdụng đất ông chnhận với bà Chu
Thị Q, các bên không làm thtục cầm cố, thế chấp gì. Chlà giđlàm tin nên
ông tự nguyện trả lại cho bà Chu Thị Q khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Tại bản khai, lời khai tiếp theo và tại phiên toà bị đơn bà Chu Thị Q trình
5
bày: Giấy nhận ntiền lợn, số tiền 995.256.000 đồng, chviết, chký do t
nguyện viết, ký vào trong giấy này. Bà thừa nhận có sự việc làm ăn với Chu Văn
T tnăm 2015 đến năm 2023, có ntiền mua ln của Chu Văn T. Phần đầu
giấy nhận nợ có ghi ngày 09/02/2024; phần cuối ghi ngày 26/3/2024 theo bà
hiểu đó một ngày âm, một ngày dương (giấy này được viết trong cùng một
ngày) nhưng do không đý ngày nên có ghi sai. Bà thừa nhận các chữ viết trong
sổ ghi ncó ghi cho cháu Chu Văn T. Bà không yêu cầu trưng cầu giám định
chký, chviết trong sghi tiền nvà Giấy nhận nợ tiền lợn. Tại phiên toà, bà
Chu Thị Q trình bày: Đối với khoảng thời gian làm ăn từ năm 2025 đến tháng 8
năm 2023 âm lịch bà đều nhất trí không có ý kiến gì trình bày nhưng tại thời
điểm tháng 9/2023 âm lịch thì Chu Văn T chốt sổ lấy lợn với bà không ràng,
những ngày bà không được lấy lợn nhưng vẫn ghi khống vào s 04 ngày
trong tháng 9/2023, stiền là 52.977.000 đồng, 03 ngày trong tháng 10/2023 là
45.193.000 đồng và 03 ngày trong tháng 11/2023 là 40.193.000 đồng. Ngoài ra
bà có tr tiền cho ông Chu Văn T nhưng ông Chu Văn T không ghi vào sổ,
không trnợ cho bà, stiền bà trcho Nông Thị O: Tr03 lần vào năm 2017
với tổng số tiền tr là 40.000.000; tr 03 lần trong năm 2020, s tiền là
30.000.000 đồng và tr 01 lần trong tháng 8 năm 2023 (không nh ngày)
60.000.000 đồng. Tổng stiền bà đã trcho Chu Văn T nhưng không ghi sổ,
không trnợ là 130.000.000 đồng. Về số tiền lãi Chu Văn T tính lãi suất cho bà
một tháng 10.000.000 đồng là quá cao. Bà làm ăn với Chu Văn T nhưng do bà
không đtâm đến số tiền nợ, stiền trả nợ nên vchồng Chu Văn T đã ghi
khống lên và như vậy số tiền nợ, tiền lãi đã đội lên với snlà 995.256.000
đồng. Bà với Chu Văn T chhai người làm ăn với nhau bà không có căn cứ gì đ
chứng minh vsố tiền vchồng Chu Văn T ghi vượt trội hơn so với số tiền
n thc tế.
Đối với ý kiến của ông Chu Văn T vnội dung: Bà Chu Thị Q không trả
được nợ, yêu cầu Toà án tuyên buộc Chu Thị Q phải sử dụng các tài sản của
mình (bao gồm các tài sản được cho tặng, thừa kế…) để trả nợ cho ông Chu Văn
T. Trường hợp Chu Thị Q không trả, ông Chu Văn T quyền đnghị
quan Thi nh án dân sự thẩm quyền phát mại tài sản hoặc nhận tài sản đề
cấn trừ nợ theo quy định của pháp luật và Trường hợp phát mại các tài sản của
Chu Thị Q nhưng không đủ để trả khoản n tn, đnghị Toà án tiếp tục
tuyên bà Chu Thị Q tiếp tục có nghĩa vụ trả nợ cho đến khi thanh toán xong mọi
khoản nợ thì ông Chu Văn T đã rút yêu cầu bà không có ý kiến gì.
V 02 giấy chứng nhận quyền sdụng đất đưa cho Chu Văn T chđ
làm tin là bán đưc đất sẽ trả ncho Chu Văn T, nhưng do không bán được
nhà, đất nên bà chưa trđược tiền n cho Chu Văn T. Chu Văn T tnguyện tr
cho bà khi bản án có hiệu lực pháp luật bà không có ý kiến gì.
Những nời có quyn lợi nghĩa vụ liên quan:
Ông Hoàng Văn T, ông Hoàng Văn N, bà Hoàng Thị T và bà Đinh Thị
Hồng T cho biết: Việc bà Chu Thị Q làm ăn với ông Chu Văn T như thế nào các
ông, không nắm được và cũng không tham gia. Các ông bà không liên
6
quan đến vic làm ăn của mẹ và không có ý kiến gì, đề nghToà án xem xét giải
quyết theo quy định của pháp luật. Việc bà Chu Thị Q đưa 02 Giấy chứng nhận
quyền sdụng đất mang tên hông Hoàng Văn T1 và hông Hoàng Văn T cho
ông Chu Văn T không có văn bản thế chấp, cầm cố, các ông đề nghToà án
xem xét giải quyết cho đúng quy định của pháp luật. ChĐinh Thị Hồng T đã có
đơn xin giải quyết, xét xvắng mặt.
Bà Nông Thị O cho biết: Năm 2015 chồng bà là Chu Văn T đã làm ăn vi
bà Chu Thị Q. Đến năm 2019 bà đã cầm sổ sách và nhận trách nhiệm cộng, chốt
svới bà Chu Thị Q hàng tháng. Mỗi khi ln vbà đều ghi vào stheo dõi
chụp ảnh hoặc gửi tin nhắn báo mã cân lợn cho bà Chu Thị Q, hàng tháng bà
cộng, tr chốt svới bà Chu Thị Q, quá trình chốt schai đã cộng và khp
svới nhau và bà Chu Thị Q có được ghi stiền còn nlại, làm scho đến
hết ngày 26/5/2023 thì bà giao lại ssách cho chồng là Chu Văn T tiếp tục theo
dõi. Chồng bà bắt đầu làm sổ từ ngày 28/5/2023 và cũng ghi rõ số lợn hàng ngày
giao cho bà Chu Thị Q cũng thường xuyên cộng chốt svới bà Chu Thị Q.
Đến ngày 30/12/2023 chồng bà bà Chu Thị Q đã chốt sổ với nhau, tổng s
tiền nợ là 995.256.000 đồng, đến ngày 26/3/2024 dương lịch hai bên làm
Giấy nhận nợ tiền lợn và schứng kiến của ông trưởng khu ph1 cùng
vào giấy này. Đến nay bà nhất trí với yêu cầu của ông Chu Văn T đã trình bày,
bà không bổ sung gì thêm.
Người làm chứng: Ông Phùng Văn T cho biết: Ông là trưởng khu phB
thtrấn N, ông không quan hhọ hàng gì với nguyên đơn và bđơn, cũng
không mâu thuẫn gì với họ. Vthời gian ngày, tháng ông không nhnhưng
sau tết năm 2024 ông có được bà Ngô ThX (là mđẻ của ông Chu Văn T)
gọi ông sang nhà nói chuyện, khi ông đến nơi khoảng 19 gi30 phút, ông có
thấy bà Ngô ThX, Chu Thị Q (gọi theo tên con trai c T) Chu Văn
T. Khi này ông thấy bà Chu Thị Q đã viết xong Giấy nhận nợ tiền lợn, ông đến
thì thấy bà Chu Thị Q, anh Chu Văn T cùng vào Giấy nhận nnày, ông thấy
bà Chu Thị Q hoàn toàn tnguyện, không bép buộc gì. Ông có được ký o
chỗ người làm chứng và có biết nội dung sự việc là hai bên nhận nợ tiền lợn vi
nhau. Phần cuối của Giấy nhận nghi ngày 17/3/2024 thì chviết này không
phải là do ông viết ra, ông không biết ai viết. Việc bà Chu Thị Q ghi ngày
09/02/2024 (đầu trang) và cuối trang ghi ngày 26/3/2024 thì khi đó ông cũng
không kiểm tra lại ngày tháng âm, ơng nên cũng không yêu cầu sửa thông
tin ngày tháng. Ông khẳng định việc viết giấy, ký nhận của mọi người trong
cùng một buổi tối. Khi ông được ký vào Giấy này thì đã chký của bà Chu
Thị Q và anh Chu Văn T, ký xong ông có việc ông về trước, các bên còn ngồi lại
nói chuyện với nhau và h vkhi nào ông không nắm được. Trong buổi nói
chuyện ông không nghe bà Chu Thị Q hay anh Chu Văn T nói gì về lãi suất. Hai
bên chthống nhất thoả thuận số tiền ntheo Giấy nhận nnày. Ngoài ra ông
không được chứng kiến nội dung khác. Do bận công việc ông tchối tham
gia tố tụng, đề nghToà án xem xét giải quyết vắng mặt.
Toà án đã tiến hành mphiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hoà giải nhưng các bên không thothuận được với nhau v
7
việc giải quyết ván.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn, b đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều gi
nguyên ý kiến đã trình bày nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn phát
biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật Ttụng giải quyết vụ án cụ thể như
sau: Thành phần tham gia xét xử tại phiên tòa đúng với thành phần Hội đồng xét
xử được ghi trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thẩm phán đã chấp nh
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân strong quá trình giải quyết vụ án như
xác định đúng thẩm quyền, đúng cách các đương sự, đúng quan hệ pháp luật.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa đã thực hiện nhiệm vụ quyền
hạn của mình đúng quy định của Bộ luật Ttụng dân sự. Tkhi thụ vụ án
ng như tại phiên tòa nguyên đơn, b đơn đã thực hiện đầy đủ quyền nghĩa
vụ ttụng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chưa thực hiện đầy đủ các
quyền nghĩa vttụng, vắng mặt tại phiên họp, phiên toà, người làm chứng đã
có bản khai, có ý kiến giải quyết vắng mặt theo quy định tại các Điều 70, 71, 73,
77, 78 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dụng vụ án: Căn cứ các Điều 116, 117, 280, 350, 357, 430, 440,
468 của Bộ luật Dân s năm 2015. Thấy: Tài liệu chứng c đều thể hiện nguyên
đơn, b đơn đã quá trình làm ăn buôn bán hàng hoá với nhau, đến ngày
30/12/2023 âm lịch hai bên đã chốt s tiền nợ và ngày 26/3/2024 ơng lịch thì
bđơn bà Chu Thị Q đã viết cho nguyên đơn 01 Giấy nhận nợ tiền lợn, giấy th
hiện bà Chu Thị Q còn nông Chu Văn T số tiền là 995.256.000 đồng, được tr
đi số tiền lãi 10.000.000 đồng (do ghi trùng lãi tháng 7 âm với i tháng 8 dương
lịch năm 2023), nay sngốc còn lại 985.256.000 đồng. Vlãi suất nguyên
đơn yêu cầu là phù hợp với quy định của pháp luật và được tính lãi từ 10/5/2024
đến ngày xét x04/9/2024 là 119 ngày x 10%/năm. Do đó đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Chu Văn T, buộc bđơn bà
Chu Thị Q phải thanh toán snợ gốc, lãi suất cho ông Chu Văn T với tổng s
tiền là 1.017.378.044 đồng. Đối với nội dung ông Chu Văn T đã rút đề ngh
Toà án đình chỉ giải quyết theo quy định. Về 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất do bà Chu Thị Q đưa cho ông Chu Văn T không làm hợp đồng cầm cố, thế
chấp, ông Chu Văn T tự nguyện trả lại cho bà Chu Thị Q nên đề nghị Toà án ghi
nhận. V án phí giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Hoàng
Văn N, bà Hoàng Thị T đã được triệu tập hợp lđến phiên toà lần thứ hai nhưng
đều vắng mặt không do. Nời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đinh
Thị Hồng T đã có đơn xin giải quyết, xét xvắng mặt. Nời làm chứng ông
Phùng Văn T đã lời khai, có ý kiến tchối tham gia tố tụng và xin được giải
quyết vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của các đương snêu trên không ảnh
hưởng đến việc giải quyết vụ án, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều
8
228, khoản 2 Điều 229 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành
xét xử vắng mặt các đương sự trên theo quy định của pháp luật.
[2] Về xác định quan htranh chấp thẩm quyền giải quyết: Yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn đề nghị Toà án xem xét buộc bđơn bà Chu Thị Q
phải thanh toán stiền ngốc theo Giấy nhận nợ tiền lợn tiền lãi suất theo
quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp phải giải
quyết là Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản. Bà Chu Thị Q, trú tại: Khu
phố B, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn nơi bị đơn t. Căn cứ khoản 3
Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng
dân sự, xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện
Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
[3] Bà Chu Thị Q có chồng là Hoàng Văn T1 (đã chết). Ông, bà sinh được
03 người con là: Hoàng Văn T, Hoàng Văn N và Hoàng Thị T. Hoàng Văn T có
vlà Đinh Thị Hồng T, có 02 người con, con lớn sinh năm 2010 và con nh
sinh năm 2014. Ông Chu Văn T có vợ là Nông Thị O.
[4] Đối với các ni dung: Nguyên đơn, bđơn đều thừa nhận có việc làm
ăn với nhau (ông Chu Văn T đi bắt lợn hơi vbán cho bà Chu Thị Q, mục đích
ởng lợi tchênh lệch giá bán) và t năm 2015 đến năm 2023 hai bên đã giao
dịch làm ăn với nhau, hàng tháng cộng sổ sách, chốt, đối chiếu stiền tr
nstiền còn n lại với nhau. Đến ngày 30/12/2023 âm lịch hai bên đã chốt
s và bà Chu Thị Q đã ntiền lợn hơi của ông Chu Văn T với tổng stiền
995.256.000 đồng (chín trăm chín mươi lăm triệu hai trăm năm ơi sáu nghìn
đồng. Đến ngày 26/3/2024 ơng lịch Chu Thị Q đã viết Giấy nhận nợ tiền
lợn cho ông Chu Văn T với tng stiền n gốc là 995.256.000 đồng, s
chứng kiến của ông Phùng Văn T trưởng khu phB th trấn N, huyện L, tỉnh
Lạng Sơn. Ngày 18/4/2024 ơng lịch bà Chu Thị Q đã giao cho ông Chu Văn
T 02 bản gốc Giấy chứng chứng nhận quyền sử dụng đất (thửa đất số 86, diện
tích 103,4m
2
thuộc tờ bản đđịa chính sthị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn
đứng tên hông Hoàng Văn T1 thửa đất số 124, diện tích 86,2m
2
, tbản đ
s30 xã Đ, huyện L, tỉnh Lạng n đứng tên hông Hoàng Văn T bà Đinh Thị
Hồng T mục đích chđể làm tin) và 01 Giấy chuyển nhượng nhà chký
của bà Chu Thị Q, nời làm chứng ông Phùng Văn T ký. Các đương sự đã
thừa nhận nội dung trên nên không phải chứng minh.
[5] t yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu bđơn phải trả số tiền
nợ gốc 995.256.000 đồng, Hội đồng xét xử thấy: Số tiền nnày đã được hai bên
chốt snợ vào ngày 30/12/2023 âm lịch. Được thể hiện tại bút lục 99 364
ghi: chốt sổ/ n998.456 - mi = 985.256/ 30/12/2023/ cộng lãi ời triệu/
995.256 triệu đồng. Trong đó, thhiện chcng lãi ời triệu chviết
của bà Chu Thị Q. Quá trình giải quyết ván phía nguyên đơn đã cung cấp cho
Toà án bản gốc Giấy nhận nợ tiền lợn. Tại Giấy nhận nợ cũng như lời khai
của bà Chu Thị Q đều thừa nhận ntiền lợn của ông Chu Văn Tiến, là
người tnguyện viết Giấy này, không bép buộc, chviết, chký trong Giấy
nhận ntiền lợn đều do bà viết ra, có người làm chứng là ông Phùng Văn T
9
trưởng khu phB đã chứng kiến. Sau thời đim chốt nợ ngày 30/12/2023 âm
lịch ông Chu Văn T đã nhiều lần điện thoại cũng như đến nhà đòi n bà Chu Thị
Q nhưng bà Chu Thị Q kht lần không tr. Sau khi hai bên viết Giấy nhận n
tiền lợn vào ngày 26/3/2024 ơng lịch, ông tiếp tục đòi nợ bà Chu Thị Q nhưng
không được, đến ngày 28/3/2024 ơng lịch ông đã làm đơn khởi kiện bà Chu
Thị Q ra Toà án. Khi biết tin ông Chu Văn T khởi kiện thì ngày 18/4/2024 bà
Chu Thị Q đã đưa 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình 01
Giấy chuyển nhượng nhà cho ông Chu Văn T, nhưng sau đó hai bên cũng
không thực hiện được việc chuyển nhượng nhà, đất. Sau thời điểm Toà án thụ lý
gii quyết ván, ngày 30/5/2024 Toà án đã triệu tập các đương sđtham gia
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, tại
phiên họp các đương sđều có mặt nhưng các đương sđã đề nghị Toà án hoãn
phiên họp đ các bên v t trao đổi, thống nhất tho thuận với nhau nhưng
không tthoả thuận được. Đến ngày 05/7/2024, Toà án đã mphiên họp và tại
phiên họp các bên đã thừa nhận có sự việc mua bán lợn hơi, nợ tiền và số tiền n
gốc là 995.256.000 đồng, trong sghi nbà Chu Thị Q đã ghi cộng lãi ời
triệu. Như vậy thấy, trên thực tế cả hai có việc làm ăn buôn bán với nhau từ năm
2015 đến năm 2023, có việc chốt sổ, ghi s tiền trả n, ghi stiền n lại và thực
tế đã chứng minh bằng Giấy nhận nợ tiền lợn đề ngày 26/3/2024. Do đó, ông
Chu Văn T khởi kiện yêu cầu bà Chu Thị Q phải thanh toán stiền nợ gốc có
căn cứ.
[6] Tuy nhiên, đối với stiền nợ gốc 995.256.000 đồng thì Toà án đã tiến
hành kiểm tra theo sngốc cũng như bản phô các khoản n trong hsơ
ván thì thấy: Tại bút lục số 116 và bút lục 333 ghi: 1/9 ơng, 17/7 âm tr
10 triệu tiền lãi tháng 8 dương lịch. Tại bút lục s128 và bút lục 345 ghi:
30/8 âm, chốt sổ nợ lại 63.254, n698.000 = 761.254, tr10 lãi 7, tr10
lãi tháng 8 tng nlà 781.254 triệu. Phía nguyên đơn thừa nhận có việc tính
lãi suất cho bà Chu Thị Q nhưng chtính ttháng 6 năm 2023 âm lịch đến tháng
12/2023 âm lịch và được tính lãi 04 lần. Nhưng kiểm tra trong sncó ghi lãi
tháng 8 dương lịch” với lãi tháng 7 âm lịch” trùng nhau vmặt thời gian,
đối với việc trùng này ông Chu Văn T cho biết: Do không đý k vtháng âm,
dương nên ông đã ghi nhầm tháng, đến nay ông Chu Văn T có ý kiến số tiền lãi
của tháng 7 âm là 10.000.000 đồng sđược trừ vào stiền nợ gốc 995.256.000
đồng và snợ gốc đến nay nguyên đơn yêu cầu bđơn phải trả là 985.256.000
đồng (chín trăm tám mươi lăm triệu hai trăm năm mươi sáu nghìn đồng). Xét
đối với ý kiến của ông Chu Văn T đưa ra là không trái với quy định của pháp
luật, đảm bảo lợi cho bđơn nên đưc Hội đồng xét xử chấp nhận. Do đó, bà
Chu Thị Q phảinghĩa vụ thanh toán s tiền nợ gốc là 985.256.000 đồng (chín
trăm tám mươi lăm triệu hai trăm năm mươi sáu nghìn đồng) cho ông Chu Văn
T.
[7] Xét đối với yêu cầu tính lãi suất của nguyên đơn ông Chu Văn T, yêu
cầu bà Chu Thị Q phải tr lãi suất 10%/năm, thời điểm tính lãi suất tngày
10/5/2024 (ngày viết đơn khởi kiện bổ sung) cho đến ngày xét x sơ thẩm
04/9/2024. Hội đồng xét xthấy: Đối với Giấy nhận ntuy không ghi lãi suất
10
nguyên đơn ông Chu Văn T chyêu cầu lãi suất sau thời điểm ghi giấy nhận
n tiền lợn. Căn ctheo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân snăm 2015 quy định
thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1
Điều này tại thời điểm trả nợ là 10%/năm. Do đó, stiền gốc 985.256.000
đồng x 10%/năm x (lãi suất tính tngày 10/5/2024 đến ngày xét x 04/9/2024)
là 119 ngày : 365 ngày = 32.122.044 đồng (ba mươi hai triệu một trăm hai mươi
hai nghìn không trăm bốn mươi bốn nghìn đồng). Xét đối với yêu cầu của ông
Chu Văn T vbuộc bà Chu Thị Q phải chịu khoản tiền lãi tn sngốc chưa
trlà phù hợp với quy định của Bộ luật Dân s được Hội đồng xét xchấp
nhận. Do đó, bđơn bà Chu Thị Q phải có trách nhiệm trstiền lãi nêu trên
cho ông Chu Văn T.
[8] Đối với ý kiến của bđơn bà Chu Thị Q cho rằng: Tại thời điểm làm
ăn buôn bán với nhau, do không trđược số tiền nợ gốc, Chu Văn T đã tính
thêm stiền lãi 10.000.000 đồng/tháng vào trong s nợ gốc chưa trả tại thời
điểm chốt nợ là chưa đúng. Hội đồng xét xử thấy: Kiểm tra các tài liệu chứng c
do nguyên đơn đã nộp cho Toà án thấy: Tại bút lục số 116, bút lục 333 có ghi:
1/9 ơng, 17/7 âm tr 10 triệu tiền lãi tháng 8 dương lịch. Tại bút lục s
128, bút lục 345 ghi: 30/8 âm, chốt sổ nợ lại 63.254, n 698.000 =
761.254, tr10 lãi 7, tr10 lãi tháng 8 tng nlà 781.254 triệu. Tại bút lục
99 bút lục 364 ghi:cht sổ, n 998.456 - mới 13.200 = 985.256,
30/12/2023, cộng lãi ời triệu là: 995.256 triệu đồng.Kiểm tra trong sổ gốc
ghi nthì thấy: Toàn bsố tiền ghi lãi 10.000.000 đồng đều được ghi tính lãi t
tháng 6 năm 2023 âm lịch đến tháng 12/2023 âm lịch 04 lần với tổng stiền
lãi 40.000.000 đồng (ngoài ra trong ssách gốc không thấy ghi số tiền lãi của
thời điểm nào nữa), khi chốt sổ tại thời điểm này cụ thể như sau: Bút lục 116 và
333: Lãi 10.000.000 đồng/tổng số tiền nợ gốc 710.540.000 đồng = 16,88%/năm
(lãi của tháng 8 dương lịch). Bút lục 128 và 345: Ghi ngày 30/8/2023 âm lịch,
trlãi tháng 7/2023 (âm lịch) là 10.000.000 đồng/698.000.000 đồng ngốc (s
tiền lãi này đã trùng với lãi của tháng 8 dương lịch nên được tr vào stiền n
gốc của bà Chu ThQ), trlãi tháng 8/2023 (âm lịch) là 10.000.000 đồng/ tổng
s tiền n gốc 761.254.000 đồng = 15,76%/năm. Bút lục 99 364: Ngày
30/12/2023 lãi 10.000.000 đồng/tổng s tiền nợ gốc 985.256.000 đồng =
12,17%/năm (lãi của tháng 12). Như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 468
của Bộ luật Dân s nêu:”…lãi suất theo thoả thuận không được vượt quá
20%/năm của khoản tiền vay…”, theo đó đối với khoản vay nợ tại thời điểm ghi
lãi thì lãi sut không vượt quá 20%/năm nên lãi suất này là phù hợp với quy định
của pháp luật, đưc chấp nhận. Hơn nữa, phía bđơn bà Chu Thị Q cho rằng
việc tính lãi không đảm bảo nhưng bà không đưa ra được tài liệu chng cgì đ
chứng minh cho yêu cầu của mình, nếu cho rằng tính lãi không đúng thì trước
thời điểm viết Giấy nhận nợ tiền lợn ngày 26/3/2024 thì hai bên đã phải đối
chiếu lại các khoản nợ, trnợ, lãi suất cho khớp khi đã đối chiếu khớp vi
nhau thì mới có việc viết Giấy nhận nợ tiền lợn này. Khoản tiền lãi này nếu hàng
tháng tính lãi đthì phải được tính t tháng 6/2023 đến tháng 12/2023 là 06
tháng, nhưng s sách chthể hiện tính lãi 04 tháng (trong đó 01 tháng tiền
11
lãi 10.000.000 đồng đã được trtiền lãi vào tin ngốc) nên chthấy các bên
đượcnh lãi suất 03 tháng.
[9] Việc bà Chu Thị Q cho rằng ông Chu Văn T chốt slấy lợn với bà
không ràng, những ngày không được lấy lợn nhưng vẫn ghi khống vào
s với tổng số tiền ghi khống là 138.835.000 đồng. Bà đã trả tiền cho Chu Văn T
nhưng Chu Văn T không ghi vào sổ, không trừ nợ cho bà với tổng số tiền không
ghi trnợ là 130.000.000 đồng. Đối với các yêu cầu của Chu Thị Q đưa ra
nhưng bà không cung cấp được tài liệu, chứng cđchứng minh cho yêu cầu
của mình. Hơn nữa, cho rằng nếu có việc ghi khng số cân lợn hơi, số tiền trả nợ
không chính xác, chưa ràng thì tại sao bà Chu Thị Q vẫn chốt sstiền n
với ông Chu Văn T vào ngày 30/12/2023 âm lịch nếu cho rằng không chính
xác, không ràng tại sao có việc bà Chu Thị Q lại viết Giấy nhận ntiền lợn
vào ngày 26/3/2024 ơng lịch cho ông Chu Văn T, thm trí trong giấy này còn
nêu rõ bà Chu Thị Q viết giấy hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, lời khai
của người làm chứng ông Phùng Văn T cũng thể hiện bà Chu Thị Q viết giấy t
nguyện, không bai ép buộc. Do đó đối với ý kiến của bà Chu Thị Q đưa ra là
không có căn cứ, không được Hội đồng xét x xem xét chấp nhận.
[10] Như vậy, tổng stiền nợ gốc và nlãi buộc bà Chu Thị Q phải tr
cho ông Chu Văn T là: 985.256.000 đồng + 32.122.044 đồng = 1.017.378.044
đồng (một tỷ không trăm ời bẩy triệu ba trăm bẩy mươi tám nghìn không
trăm bốn mươi bốn đồng). Trường hợp bà Chu Thị Q chậm trstiền nêu trên
còn phải chịu lãi suất theo quy định của pháp luật.
[11] Ông Chu Văn T đã rút các nội dung: Bà Chu Thị Q không trả được
nợ, yêu cầu Tán tuyên buộc Chu Thị Q phải sử dụng các tài sản của mình
(bao gồm các tài sản được cho tặng, thừa kế) để trả nợ cho ông Chu Văn T.
Trường hợp Chu Thị Q không trả, ông Chu Văn T quyền đnghị quan
Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mại tài sản hoặc nhận tài sản đcấn trừ
nợ theo quy định của pháp luật và Trường hợp phát mại các tài sản của Chu
Thị Q nhưng không đđể trả khoản nợ trên, đề nghị Toà án tiếp tục tuyên
Chu Thị Q tiếp tục nghĩa vụ trả nợ cho đến khi thanh toán xong mọi khoản
nợ. Xét thấy việc rút các yêu cầu trên hoàn toàn tnguyện, Hội đồng xét x
căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật Ttụng dân sđình chgiải quyết các nội
dung trên.
[12] Đối với 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là: Tha đất số 86,
diện tích 103,4m
2
, tờ bản đ địa chính số 2đ, th trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn
đã được UBND huyện Lộc Bình cấp cho h ông Hoàng Văn T1, ngày
10/9/2021, vào scấp GCNQSDĐ số 00023 QSDĐ/QĐ-UBND và Thửa đất s
124, diện tích 86,2m
2
, tbản đđịa chính s30, xã Đ, huyện L, tỉnh Lạng Sơn
đã được UBND huyện L cấp cho hông Hoàng Văn T bà Đinh Thị Hồng T
ngày 11/12/2013, svào scấp GCNL: CH04828 thấy: Quá trình giải quyết v
án các bên đương sđều thừa nhận bđơn bà Chu Thị Q đưa 02 Giấy chứng
nhận này cho ông Chu Văn T ch để làm tin, các bên không làm văn bản cầm cố,
hay thế chấp tài sản này nên không có cơ sđể xem xét, giải quyết đối với 02
12
GCNQSDĐ này, ông Chu Văn T đã tnguyện hoàn trả lại cho bà Chu Thị Q 02
GCNQSDĐ nêu trên sau khi bản án hiệu lực pháp luật phù hợp với quy
định của pháp luật được Hội đồng xét xghi nhận.
[13] Đối với việc bà Chu Thị Q có đơn đề nghgửi Toà án, Viện kiểm sát
Công an huyện Lộc Bình để làm hành vi Cưỡng đoạt tài sản của ông Chu
Văn T xảy ra vào ngày 07/5/2024 và đề nghị Toà án tạm đình chgiải quyết v
án dân s thì ông Chu Văn T đã nộp cho Toà án 01 bản phô tô Biên bản hoà giải
đề ngày 07/5/2024 (biên bản này không có tên ông Chu Văn T). Tại phiên toà bà
Chu Thị Q cho biết nộp đơn đến Công an huyện Lộc Bình yêu cầu xem
xét hành vi của ông Chu Văn T nhưng bà không cung cấp được tài liệu, chứng
cđể chứng minh việc Công an huyện Lộc Bình đã tiếp nhận giải quyết vviệc
đó thế nào và căn cứ khởi tông Chu Văn T vtội Cưỡng đoạt tài sản hay
không. Vphía ông Chu Văn T cho biết, sau thời điểm ông với bà Chu Thị Q
chốt sổ n(30/12/2023 âm lịch) đến nay ông không làm ăn gì với bà Chu Thị Q
nữa chcó mông bà X tiếp tục làm ăn và được bán lợn hơi cho bà Chu
Thị Q. Bà Chu Thị Q cho biết, sau thời điểm ghi giấy nhận nbà vn được lấy
của gia đình nhà ông Chu Văn T (lợn của ai bà không biết) nhưng không được
trtiền mua lợn cho vchồng ông Chu Văn T. Hội đồng xét xthấy: Việc làm
ăn giữa bà Chu Thị Q với ông Chu Văn T đã được chốt sổ sách và đã viết Giấy
nhận nợ tiền lợn vào ngày 30/12/2023 âm lch với nhau, tđó trđi cả hai đã
không làm ăn với nhau. Đến nay, ông Chu Văn T khởi kiện yêu cầu giải quyết
buộc bà Chu Thị Q phải trả nợ theo Giấy nhận nợ. Đây là ván dân sự riêng biệt
Toà án chxem xét trong phạm vi yêu cầu khởi kiện của đương s. Trường
hợp Công an huyện Lộc Bình tiến hành điều tra, xác minh, thu thập chứng c
nếu có căn cứ để khởi tông Chu Văn T v tội Cưỡng đoạt tài sản thì sđược
xem xét giải quyết bằng một ván hình skhác không liên quan đến việc
giải quyết ván dân snày. Do đó, đối ý kiến của bà Chu Thị Q đề ngh Tạm
đình chỉ giải quyết ván dân sự này là không có cơ sở chấp nhận.
[14] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của ông Chu Văn T được chấp nhận
nên bà Chu Thị Q phải chịu án phí theo giá ngạch theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, bà Chu Thị Q thuộc tờng hợp người cao tuổi, đã có đơn xin miễn
nộp tiền án phí. Hi đồng xét xchấp nhận cho bà Chu Thị Q được miễn nộp
tiền án phí dân ssơ thẩm theo giá ngạch. Hoàn trlại số tiền tạm ứng án phí
21.302.000 đồng (hai mươi mốt triệu ba trăm linh hai nghìn đồng) cho ông Chu
Văn T đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí s0002315 ngày 13/5/2024 tại
Chi cục Thi hành án Dân shuyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn theo quy định tại
khoản 1 Điều 147 B luật T tụng dân s; điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14;
Điều 15 Ngh quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của y ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[15] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa đưa ra căn cứ,
phù hợp với các quy định của pháp luật được Hội đồng xét xử chấp nhận.
13
[16] Ngun đơn, bị đơn, người có quyn lợi nghĩa vụ liên quan có quyền
kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 116, 117, 280, 350, 357, 430, 440, 468 của Bộ luật Dân
s năm 2015.
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 2
Điều 229, khon 2 Điều 244, Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015.
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, Điều 15 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,
tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Chu Văn T.
Buộc bđơn bà Chu Thị Q phải nghĩa vụ thanh toán cho ông Chu Văn
T với tổng số tiền n1.017.378.044 đồng (một tỷ không trăm ời by triệu
ba trăm bẩy mươi tám nghìn không trăm bốn mươi bốn đồng). Trong đó: Tiền
nợ gốc 985.256.000 đồng (chín trăm tám mươi lăm triệu hai trăm năm mươi
sáu nghìn đồng), tiền nợ lãi 32.122.044 đồng (ba mươi hai triệu một trăm hai
ơi hai nghìn không trăm bốn mươi bốn đồng).
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp quan
thi hành án có quyền ch động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả
cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.
2. Đình chỉ giải quyết yêu cầu của nguyên đơn ông Chu Văn T vyêu cầu
bà Chu ThQ không trả được nợ, yêu cầu Toà án tuyên buộc bà Chu Thị Q phải
sử dụng các tài sản của mình (bao gồm các tài sản được cho tặng, thừa kế…) để
trả nợ cho ông Chu Văn T. Trường hợp bà Chu Thị Q không trả, ông Chu Văn T
quyền đề nghị quan Thi hành án dân sự thẩm quyền phát mại tài sản
hoặc nhận tài sản đề cấn trừ nợ theo quy định của pháp luật và Trường hợp phát
mại các tài sản của Chu Thị Q nhưng không đủ để trả khoản nợ trên, đề nghị
Toà án tiếp tục tuyênChu Thị Q tiếp tục có nghĩa vụ trả nợ cho đến khi thanh
toán xong mọi khoản nợ, do ông Chu Văn T đã rút yêu cầu.
3. Ghi nhận sự tnguyện của ông Chu Văn T vviệc khi bản án hiệu
lực pháp luật thi hành sẽ thực hiện việc trả lại cho bà Chu Thị Q: 02 Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là: Thửa đất s86, diện tích 103,4m
2
, tbản đ địa
chính số 2đ, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn đã được UBND huyện L cấp cho
14
hông Hoàng Văn T1, ngày 10/9/2021, vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00023
QSDĐ/QĐ-UBND và Thửa đất s124, diện tích 86,2m
2
, tbản đđịa chính s
30, xã Đ, huyện L, tỉnh Lạng Sơn đã đưc UBND huyện Lộc Bình cấp cho h
ông Hoàng Văn T bà Đinh Thị Hồng T ngày 11/12/2013, s vào s cp
GCNL: CH04828.
4. Về án phí: Bị đơn bà Chu Thị Q là người cao tuổi, đã có đơn xin miễn
nộp tiền án pnên được miễn nộp tiền án phí dân ssơ thẩm theo giá ngạch.
Hoàn trả cho nguyên đơn ông Chu Văn T số tiền tạm ứng án phí đã nộp
21.302.000 đồng (hai mươi mốt triệu ba trăm linh hai nghìn đồng) theo Biên lai
thu tiền tạm ứng án phí, lphí Tòa án số 0002315, ngày 13/5/2024 tại Chi cục
thi hành án dân sự huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bđơn, nời có quyền lợi nghĩa v
liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án. Ni quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên
tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản
án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Lạng Sơn; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND h Lộc Bình;
- CCTHADS h Lộc Bình;
- Đương sự......................;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
Nguyễn Thúy Huyền
Tải về
Bản án số 13/2024/DS-ST Bản án số 13/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 13/2024/DS-ST Bản án số 13/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất