Bản án số 13/2024/DS-ST ngày 04/09/2024 của TAND huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 13/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 13/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 13/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 13/2024/DS-ST ngày 04/09/2024 của TAND huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng trao đổi tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Lộc Bình (TAND tỉnh Lạng Sơn) |
Số hiệu: | 13/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Buộc bị đơn bà Chu Thị Q phải có nghĩa vụ thanh toán cho ông Chu Văn T với tổng số tiền nợ là 1.017.378.044 đồng (một tỷ không trăm mười bẩy triệu ba trăm bẩy mươi tám nghìn không trăm bốn mươi bốn đồng). Trong đó |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LỘC BÌNH
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 13/2024/DS-ST
Ngày 04-9-2024
V/v Tranh chấp hợp đồng
mua bán tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thúy Huyền.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Hoàng Văn Vận và bà Vi Thị Hoà.
Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Nhật Trang - Thư ký Toà án nhân dân
huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, tham
gia phiên toà: Ông Hoàng Chí Dũng - Kiểm sát viên.
Ngày 04 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lộc Bình,
tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 29/2024/TLST-
DS ngày 13/5/2024 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”, theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 13/2024/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 7 năm 2024;
Quyết định hoãn phiên toà số: 13/2024/QĐST-DS ngày 20 tháng 8 năm 2024
Quyết định hoãn phiên toà số: 16/2024/QĐST-DS ngày 28 tháng 8 năm 2024,
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Chu Văn T, sinh năm 1990; cư trú tại: Số nhà A, khu
phố B, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Bị đơn: Bà Chu Thị Q, sinh năm 1962; cư trú tại: Khu phố B, thị trấn
N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Hoàng Văn T, sinh năm 1983; có mặt.
2. Ông Hoàng Văn N, sinh năm 1986; vắng mặt.
Đều cư trú tại: Khu phố B, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
3. Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1991; nơi cư trú: Khu A, thị trấn L, huyện
L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.
4. Bà Đinh Thị Hồng T, sinh năm 1987; nơi cư trú: Khu B, thị trấn N,
huyện L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.
5. Bà Nông Thị O, sinh năm 1999; nơi cư trú: Số nhà A, khu phố B, thị
2
trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Người làm chứng: Ông Phùng Văn T; nơi cư trú: Khu phố B, thị trấn
N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 28/3/2024, đơn khởi kiện bổ sung ngày
10/5/2024, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Chu Văn
T trình bày như sau:
Ông với bà Chu Thị Q tự nguyện làm ăn buôn bán với nhau từ năm 2015,
ông là người trực tiếp lấy lợn hơi về để giao bán cho bà Chu Thị Q. Giá lợn hơi
do hai bên thoả thuận theo từng ngày. Khi ông lấy lợn về ông có thuê người làm
để hàng ngày đi giao lợn cho bà Chu Thị Q và những người mua lợn khác, đến
cuối ngày ông là người tổng hợp ghi ra sổ, cuối tháng hai bên tổng hợp, đối
chiếu chốt sổ với nhau.
Đến năm 2019 vợ ông là Nông Thị O hàng ngày thay ông ghi sổ sách và
đến cuối tháng (vợ ông có trách nhiệm chốt sổ với bà Chu Thị Q), số tiền trả nợ,
nợ lại đều được ghi đầy đủ trong sổ sách. Trong sổ sách các ngày, tháng đều thể
hiện ghi ngày âm, không phải ngày, tháng dương lịch.
Đến ngày 07/6/2020 cả hai đã chốt sổ, bà Chu Thị Q còn nợ lại ông là
177.900.000 đồng, bà Chu Thị Q có ghi “ngày 07/6/2020 âm Bác T (gọi theo tên
con trai cả) còn nợ 177.900” (tức là một trăm bẩy mươi bẩy triệu chín trăm
nghìn đồng). Đây là toàn bộ số tiền nợ gốc, khi này ông không tính lãi suất cho
bà Chu Thị Q.
Từ ngày 08/6/2020 đến ngày 21/11/2021 hai bên không giao lợn cho nhau
nữa (do bà Chu Thị Q nợ nhiều tiền chưa trả được).
Năm 2021: Bắt đầu từ ngày 22/11/2021 ông tiếp tục cung cấp lợn hơi cho
bà Chu Thị Q và đến ngày 29/12/2021 vợ chồng ông đã xuống nhà bà Chu Thị
Q chốt sổ, số tiền bà Chu Thị Q còn nợ lại là 154.000.000 đồng (một trăm mươi
tư triệu đồng là số tiền nợ gốc, không tính lãi suất). Số tiền nợ gốc của năm 2020
là 177.900.000 đồng vẫn để nguyên không cộng vào năm 2021.
Năm 2022: Bắt đầu từ ngày 06/01/2022 ông tiếp tục giao lợn hơi cho bà
Chu Thị Q và đến ngày 24/7/2022 thì không giao lợn cho bà Chu Thị Q nữa (do
bà nợ nhiều không trả được). Đến ngày 29/7/2022 đã chốt sổ và bà Chu Thị Q
còn nợ lại của năm 2021: 154.000.000 đồng cộng với số tiền nợ của năm 2022,
tổng nợ là 457.850.000 đồng (chưa bao gồm tiền nợ của năm 2020). Đến ngày
30/12/2022 thì vợ ông cộng toàn bộ số tiền nợ từ năm 2020 đến năm 2022 thì
tổng số tiền bà Chu Thị Q còn nợ ông là: 457.850.000 đồng + 177.900.000 đồng
= 635.750.000 đồng.
Từ ngày 25/7/2022 âm lịch đến ngày 31/3/2023 do bà Chu Thị Q nợ nhiều
tiền không trả được nên ông không cung cấp lợn cho bà nữa nhưng số nợ cũ bà
Chu Thị Q vẫn không trả được.
Năm 2023: Từ ngày 01/4/2023 đến ngày 11/11/2023 ông tiếp tục giao lợn
3
cho bà Chu Thị Q (thời điểm này số nợ gốc bà Chu Thị Q cũng không trả cho
ông được đồng nào). Trong đó: Nợ mới cộng từ ngày 01/4/2023 đến ngày
27/5/2023 vợ ông và bà Chu Thị Q đã chốt sổ nợ là 52.100.000 đồng.
Từ ngày 27, 28/5/2023 đến 11/11/2023 ông là người cầm sổ để ghi chép
theo dõi việc nợ, trả nợ của bà Chu Thị Q. Từ ngày 27, 28/5/2023 đến ngày
01/6/2023 bà Chu Thị Q lấy lợn, đến ngày 02/6/2023 bà Q trả tiền nợ một phần
và ngày 03/6/2023 hai bên chốt sổ số tiền nợ tiền mới là 4.600.000 đồng +
52.100.000 đồng = 56.700.000 đồng.
Sau đó bà Chu Thị Q tiếp tục lấy lợn và đến ngày 20/6/2023 ông với bà
Chu Thị Q đã chốt sổ với nhau: Nợ tiền lợn mới 138.590.000 đồng - tiền trả
120.500.000 đồng = 18.090.000 đồng + 56.700.000 đồng (nợ cũ) + 635.750.000
đồng (nợ cũ đã tổng hợp trong năm 2022) = 710.540.000 đồng (bẩy trăm mười
triệu năm trăm bốn mươi nghìn đồng). Tại thời điểm này cũng chưa tính tiền lãi
suất với bà Chu Thị Q.
Từ ngày chốt sổ 20/6/2023 đến ngày 17/7/2023 (âm lịch) ông với bà Chu
Thị Q đã thống nhất bà Chu Thị Q phải trả cho ông số tiền lãi tháng 8 dương
lịch là 10.000.000 đồng/tháng/tổng số tiền nợ gốc là 710.540.000 đồng.
Từ ngày 23/6/2023 bà Chu Thị Q tiếp tục lấy lợn và đến ngày 01/8/2023
thì hai bên chốt sổ: Số nợ mới 309.288.000 đồng - 321.000.000 đồng (bà Chu
Thị Q trả) = thừa 11.712.000 đồng (nhưng trong sổ ông tính nhầm là thừa
12.500.000 đồng có lợi cho bà Chu Thị Q nên ông vẫn giữ nguyên số tiền này để
trừ cho bà Chu Thị Q và để khớp với sổ nợ). Tổng số nợ cũ: 710.540.000 -
12.500.000 đồng = 698.000.000 đồng.
Từ ngày 01/8/2023 đến ngày 30/8/2023 bà Chu Thị Q tiếp tục lấy lợn hơi
và đến ngày 30/8/2023 hai bên chốt sổ: Số nợ mới 63.254.000 đồng + nợ cũ:
698.000.000 đồng = 761.254.000 đồng + lãi tháng 7 âm và lãi tháng 8 âm của
năm 2023 là 20.000.000 đồng = 781.254.000 đồng. Bà Chu Thị Q có ghi:”Trả
lãi chốt sổ 781.254 triệu”.
Từ ngày 01/9/2023 đến ngày 03/12/2023 bà Chu Thị Q tiếp tục lấy lợn và
chốt sổ ngày 03/12/2023: Nợ mới + nợ cũ tổng là 998.456.000 đồng (trong đó
nợ cũ là 781.254.000 đồng).
Từ ngày 03/12/2023 âm lịch đến ngày 30/12/2023 âm lịch, hai bên đã
chốt sổ: nợ cũ 998.456.000 đồng - mới 13.200.000 đồng = 985.256.000 đồng, lãi
tháng 12/2023 âm lịch là 10.000.000 đồng. Bà Chu Thị Q ghi “cộng lãi 10 triệu”
là 995.256.000 đồng.
Việc tính lãi suất là do bà Chu Thị Q nợ ông số tiền quá lớn và ông cũng
phải đi vay mượn để làm ăn nên bắt đầu từ tháng 6/2023 âm lịch cả hai mới thoả
thuận tính lãi suất với bà Chu Thị Q là 10.000.000 đồng/tháng và mới chỉ tính
được 04 lần trong năm 2023 (trong đó đã có 01 lần ông ghi trùng thời điểm nên
số tiền lãi 10.000.000 đồng ông nhất trí trừ vào số tiền nợ gốc: 995.256.000
đồng - 10.000.000 đồng, nay nợ gốc còn lại là 985.256.000 đồng).
4
Từ thời điểm chốt số tiền nợ với nhau vào ngày 30/12/2023 âm lịch thì cả
hai không làm ăn với nhau nữa, ông đã nhiều lần điện thoại, đến nhà đòi tiền bà
Chu Thị Q nhưng bà Chu Thị Q khất lần không trả. Đến ngày 26/3/2024 dương
lịch bà Chu Thị Q đã viết cho ông một Giấy nhận nợ tiền lợn, trong giấy có
ghi:”….ngày 09/02/2023…lấy lợn từ năm 2015 đến năm 2024 có nợ lại cháu T
số tiền 995.256 triệu đồng (chín trăm chín mươi năm triệu hai trăm năm sáu
nghìn đồng), nay tôi viết giấy này xin khất nợ lại cháu Chu Văn T tôi xin nhận
với số nợ như trên là tôi bán được đất (nhà) tôi tự nguyện lên nhà cháu T thoả
thuận với số nợ như trên. Tôi hoàn toàn tỉnh táo không có sự ép buộc cũng như
không dùng chất kích thích nào…ngày 26/3/2023…”. Giấy này do chính tay bà
Chu Thị Q tự nguyện viết, ký, không ai ép buộc, có sự chứng kiến của ông
trưởng khu phố 1 ông Phùng Văn T. Do thời điểm đó ông không kiểm tra ngày
âm, ngày dương nên không biết bà Chu Thị Q viết nhầm ngày âm. Khi bà Chu
Thị Q viết giấy nhận nhận nợ là viết và ký giấy này trong cùng một buổi tối
ngày 26/3/2024 dương lịch. Phần cuối chỗ chữ viết có ghi Phùng Văn T có 01
dòng ghi “ngày 17/3/2024”(chữ, ngày tháng năm này do ông tự viết ra nhưng
ông đã viết nhầm tháng 02 thành tháng 03 âm lịch).
Do bà Chu Thị Q không trả được nợ, đến ngày 28/3/2024 ông đã làm đơn
khởi kiện gửi Toà án nhân dân huyện Lộc Bình xem xét giải quyết thì đến ngày
18/4/2024 dương lịch, bà Chu Thị Q đã đưa cho ông 01 Giấy chuyển nhượng
nhà ở và 02 GCNQSDĐ của gia đình bà Chu Thị Q cho ông mục đích cũng
muốn chuyển nhượng 01 mảnh đất để trừ nợ cho ông nhưng sau đó bà Chu Thị
Q không thực hiện được.
Tại đơn khởi kiện ông có yêu cầu bà Chu Thị Q phải trả cho ông số tiền
nợ gốc là 995.256.000 đồng và tiền lãi suất 10%/năm kề từ ngày 09/02/2024 đến
ngày 09/05/2024, lãi tạm tính là 1.020.137.400 đồng. Đến nay ông yêu cầu bà
Chu Thị Q phải trả cho ông số tiền nợ gốc là: 985.256.000 đồng và lãi suất
10%/năm ông chỉ yêu cầu tính lãi bắt đầu từ ngày 10/5/2024 (là ngày ông nộp
Đơn khởi kiện bổ sung) cho đến ngày xét xử 04/9/2024.
Các nội dung mà ông yêu cầu tại Thông báo thụ lý vụ án tại mục 2 và 3 có
ghi: Bà Chu Thị Q không trả được nợ, yêu cầu Toà án tuyên buộc bà Chu Thị Q
phải sử dụng các tài sản của mình (bao gồm các tài sản được cho tặng, thừa
kế…) để trả nợ cho ông Chu Văn Tiến. Trường hợp bà Chu Thị Q không trả,
ông Chu Văn Tcó quyền đề nghị cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền
phát mại tài sản hoặc nhận tài sản đề cấn trừ nợ theo quy định của pháp luật và
Trường hợp phát mại các tài sản của bà Chu Thị Q nhưng không đủ để trả khoản
nợ trên, đề nghị Toà án tiếp tục tuyên bà Chu Thị Q tiếp tục có nghĩa vụ trả nợ
cho đến khi thanh toán xong mọi khoản nợ, ông tự nguyện rút yêu cầu, không đề
nghị Toà án xem xét giải quyết.
Đối với 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông chỉ nhận với bà Chu
Thị Q, các bên không làm thủ tục cầm cố, thế chấp gì. Chỉ là giữ để làm tin nên
ông tự nguyện trả lại cho bà Chu Thị Q khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Tại bản khai, lời khai tiếp theo và tại phiên toà bị đơn bà Chu Thị Q trình
5
bày: Giấy nhận nợ tiền lợn, số tiền 995.256.000 đồng, chữ viết, chữ ký do bà tự
nguyện viết, ký vào trong giấy này. Bà thừa nhận có sự việc làm ăn với Chu Văn
T từ năm 2015 đến năm 2023, bà có nợ tiền mua lợn của Chu Văn T. Phần đầu
giấy nhận nợ có ghi ngày 09/02/2024; phần cuối ghi ngày 26/3/2024 theo bà
hiểu đó là một ngày âm, một ngày dương (giấy này được viết trong cùng một
ngày) nhưng do không để ý ngày nên có ghi sai. Bà thừa nhận các chữ viết trong
sổ ghi nợ bà có ghi cho cháu Chu Văn T. Bà không yêu cầu trưng cầu giám định
chữ ký, chữ viết trong sổ ghi tiền nợ và Giấy nhận nợ tiền lợn. Tại phiên toà, bà
Chu Thị Q trình bày: Đối với khoảng thời gian làm ăn từ năm 2025 đến tháng 8
năm 2023 âm lịch bà đều nhất trí không có ý kiến gì trình bày nhưng tại thời
điểm tháng 9/2023 âm lịch thì Chu Văn T chốt sổ lấy lợn với bà không rõ ràng,
có những ngày bà không được lấy lợn nhưng vẫn ghi khống vào sổ là 04 ngày
trong tháng 9/2023, số tiền là 52.977.000 đồng, 03 ngày trong tháng 10/2023 là
45.193.000 đồng và 03 ngày trong tháng 11/2023 là 40.193.000 đồng. Ngoài ra
bà có trả tiền cho ông Chu Văn T nhưng ông Chu Văn T không ghi vào sổ,
không trừ nợ cho bà, số tiền bà trả cho Nông Thị O: Trả 03 lần vào năm 2017
với tổng số tiền trả là 40.000.000; trả 03 lần trong năm 2020, số tiền là
30.000.000 đồng và trả 01 lần trong tháng 8 năm 2023 (không nhớ ngày) là
60.000.000 đồng. Tổng số tiền bà đã trả cho Chu Văn T nhưng không ghi sổ,
không trừ nợ là 130.000.000 đồng. Về số tiền lãi Chu Văn T tính lãi suất cho bà
một tháng 10.000.000 đồng là quá cao. Bà làm ăn với Chu Văn T nhưng do bà
không để tâm đến số tiền nợ, số tiền trả nợ nên vợ chồng Chu Văn T đã ghi
khống lên và như vậy số tiền nợ, tiền lãi đã đội lên với số nợ là 995.256.000
đồng. Bà với Chu Văn T chỉ hai người làm ăn với nhau bà không có căn cứ gì để
chứng minh về số tiền mà vợ chồng Chu Văn T ghi vượt trội hơn so với số tiền
nợ thực tế.
Đối với ý kiến của ông Chu Văn T về nội dung: Bà Chu Thị Q không trả
được nợ, yêu cầu Toà án tuyên buộc bà Chu Thị Q phải sử dụng các tài sản của
mình (bao gồm các tài sản được cho tặng, thừa kế…) để trả nợ cho ông Chu Văn
T. Trường hợp bà Chu Thị Q không trả, ông Chu Văn T có quyền đề nghị cơ
quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mại tài sản hoặc nhận tài sản đề
cấn trừ nợ theo quy định của pháp luật và Trường hợp phát mại các tài sản của
bà Chu Thị Q nhưng không đủ để trả khoản nợ trên, đề nghị Toà án tiếp tục
tuyên bà Chu Thị Q tiếp tục có nghĩa vụ trả nợ cho đến khi thanh toán xong mọi
khoản nợ thì ông Chu Văn T đã rút yêu cầu bà không có ý kiến gì.
Về 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà đưa cho Chu Văn T chỉ để
làm tin là bà bán được đất sẽ trả nợ cho Chu Văn T, nhưng do không bán được
nhà, đất nên bà chưa trả được tiền nợ cho Chu Văn T. Chu Văn T tự nguyện trả
cho bà khi bản án có hiệu lực pháp luật bà không có ý kiến gì.
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Ông Hoàng Văn T, ông Hoàng Văn N, bà Hoàng Thị T và bà Đinh Thị
Hồng T cho biết: Việc bà Chu Thị Q làm ăn với ông Chu Văn T như thế nào các
ông, bà không nắm được và cũng không tham gia. Các ông bà không có liên
6
quan đến việc làm ăn của mẹ và không có ý kiến gì, đề nghị Toà án xem xét giải
quyết theo quy định của pháp luật. Việc bà Chu Thị Q đưa 02 Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất mang tên hộ ông Hoàng Văn T1 và hộ ông Hoàng Văn T cho
ông Chu Văn T không có văn bản thế chấp, cầm cố, các ông bà đề nghị Toà án
xem xét giải quyết cho đúng quy định của pháp luật. Chị Đinh Thị Hồng T đã có
đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt.
Bà Nông Thị O cho biết: Năm 2015 chồng bà là Chu Văn T đã làm ăn với
bà Chu Thị Q. Đến năm 2019 bà đã cầm sổ sách và nhận trách nhiệm cộng, chốt
số với bà Chu Thị Q hàng tháng. Mỗi khi có lợn về bà đều ghi vào sổ theo dõi
và chụp ảnh hoặc gửi tin nhắn báo mã cân lợn cho bà Chu Thị Q, hàng tháng bà
cộng, trừ và chốt sổ với bà Chu Thị Q, quá trình chốt sổ cả hai đã cộng và khớp
sổ với nhau và bà Chu Thị Q có được ghi số tiền còn nợ lại, bà làm sổ cho đến
hết ngày 26/5/2023 thì bà giao lại sổ sách cho chồng là Chu Văn T tiếp tục theo
dõi. Chồng bà bắt đầu làm sổ từ ngày 28/5/2023 và cũng ghi rõ số lợn hàng ngày
giao cho bà Chu Thị Q và cũng thường xuyên cộng chốt sổ với bà Chu Thị Q.
Đến ngày 30/12/2023 chồng bà và bà Chu Thị Q đã chốt sổ với nhau, tổng số
tiền nợ là 995.256.000 đồng, đến ngày 26/3/2024 dương lịch hai bên có làm
Giấy nhận nợ tiền lợn và có sự chứng kiến của ông trưởng khu phố 1 cùng ký
vào giấy này. Đến nay bà nhất trí với yêu cầu của ông Chu Văn T đã trình bày,
bà không bổ sung gì thêm.
Người làm chứng: Ông Phùng Văn T cho biết: Ông là trưởng khu phố B
thị trấn N, ông không có quan hệ họ hàng gì với nguyên đơn và bị đơn, cũng
không có mâu thuẫn gì với họ. Về thời gian ngày, tháng ông không nhớ nhưng
là sau tết năm 2024 ông có được bà Ngô Thị X (là mẹ đẻ của ông Chu Văn T)
gọi ông sang nhà nói chuyện, khi ông đến nơi khoảng 19 giờ 30 phút, ông có
thấy bà Ngô Thị X, bà Chu Thị Q (gọi theo tên con trai cả là bà T) và Chu Văn
T. Khi này ông thấy bà Chu Thị Q đã viết xong Giấy nhận nợ tiền lợn, ông đến
thì thấy bà Chu Thị Q, anh Chu Văn T cùng ký vào Giấy nhận nợ này, ông thấy
bà Chu Thị Q hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc gì. Ông có được ký vào
chỗ người làm chứng và có biết nội dung sự việc là hai bên nhận nợ tiền lợn với
nhau. Phần cuối của Giấy nhận nợ ghi “ngày 17/3/2024” thì chữ viết này không
phải là do ông viết ra, ông không biết ai viết. Việc bà Chu Thị Q ghi ngày
09/02/2024 (đầu trang) và cuối trang ghi ngày 26/3/2024 thì khi đó ông cũng
không kiểm tra lại ngày tháng âm, dương nên cũng không có yêu cầu sửa thông
tin ngày tháng. Ông khẳng định việc viết giấy, ký nhận của mọi người trong
cùng một buổi tối. Khi ông được ký vào Giấy này thì đã có chữ ký của bà Chu
Thị Q và anh Chu Văn T, ký xong ông có việc ông về trước, các bên còn ngồi lại
nói chuyện với nhau và họ về khi nào ông không nắm được. Trong buổi nói
chuyện ông không nghe bà Chu Thị Q hay anh Chu Văn T nói gì về lãi suất. Hai
bên chỉ thống nhất thoả thuận số tiền nợ theo Giấy nhận nợ này. Ngoài ra ông
không được chứng kiến nội dung gì khác. Do bận công việc ông từ chối tham
gia tố tụng, đề nghị Toà án xem xét giải quyết vắng mặt.
Toà án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hoà giải nhưng các bên không thoả thuận được với nhau về
7
việc giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều giữ
nguyên ý kiến đã trình bày nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn phát
biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật Tố tụng và giải quyết vụ án cụ thể như
sau: Thành phần tham gia xét xử tại phiên tòa đúng với thành phần Hội đồng xét
xử được ghi trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thẩm phán đã chấp hành
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án như
xác định đúng thẩm quyền, đúng tư cách các đương sự, đúng quan hệ pháp luật.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện nhiệm vụ quyền
hạn của mình đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Từ khi thụ lý vụ án
cũng như tại phiên tòa nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa
vụ tố tụng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chưa thực hiện đầy đủ các
quyền nghĩa vụ tố tụng, vắng mặt tại phiên họp, phiên toà, người làm chứng đã
có bản khai, có ý kiến giải quyết vắng mặt theo quy định tại các Điều 70, 71, 73,
77, 78 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dụng vụ án: Căn cứ các Điều 116, 117, 280, 350, 357, 430, 440,
468 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Thấy: Tài liệu chứng cứ đều thể hiện nguyên
đơn, bị đơn đã có quá trình làm ăn buôn bán hàng hoá với nhau, đến ngày
30/12/2023 âm lịch hai bên đã chốt sổ tiền nợ và ngày 26/3/2024 dương lịch thì
bị đơn bà Chu Thị Q đã viết cho nguyên đơn 01 Giấy nhận nợ tiền lợn, giấy thể
hiện bà Chu Thị Q còn nợ ông Chu Văn T số tiền là 995.256.000 đồng, được trừ
đi số tiền lãi 10.000.000 đồng (do ghi trùng lãi tháng 7 âm với lãi tháng 8 dương
lịch năm 2023), nay số nợ gốc còn lại là 985.256.000 đồng. Về lãi suất nguyên
đơn yêu cầu là phù hợp với quy định của pháp luật và được tính lãi từ 10/5/2024
đến ngày xét xử 04/9/2024 là 119 ngày x 10%/năm. Do đó đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Chu Văn T, buộc bị đơn bà
Chu Thị Q phải thanh toán số nợ gốc, lãi suất cho ông Chu Văn T với tổng số
tiền là là 1.017.378.044 đồng. Đối với nội dung ông Chu Văn T đã rút đề nghị
Toà án đình chỉ giải quyết theo quy định. Về 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất do bà Chu Thị Q đưa cho ông Chu Văn T không làm hợp đồng cầm cố, thế
chấp, ông Chu Văn T tự nguyện trả lại cho bà Chu Thị Q nên đề nghị Toà án ghi
nhận. Về án phí giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Hoàng
Văn N, bà Hoàng Thị T đã được triệu tập hợp lệ đến phiên toà lần thứ hai nhưng
đều vắng mặt không có lý do. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đinh
Thị Hồng T đã có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt. Người làm chứng ông
Phùng Văn T đã có lời khai, có ý kiến từ chối tham gia tố tụng và xin được giải
quyết vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của các đương sự nêu trên không ảnh
hưởng đến việc giải quyết vụ án, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều
8
228, khoản 2 Điều 229 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành
xét xử vắng mặt các đương sự trên theo quy định của pháp luật.
[2] Về xác định quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn đề nghị Toà án xem xét buộc bị đơn bà Chu Thị Q
phải thanh toán số tiền nợ gốc theo Giấy nhận nợ tiền lợn và tiền lãi suất theo
quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp phải giải
quyết là “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”. Bà Chu Thị Q, cư trú tại: Khu
phố B, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn là nơi bị đơn cư trú. Căn cứ khoản 3
Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng
dân sự, xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện
Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
[3] Bà Chu Thị Q có chồng là Hoàng Văn T1 (đã chết). Ông, bà sinh được
03 người con là: Hoàng Văn T, Hoàng Văn N và Hoàng Thị T. Hoàng Văn T có
vợ là Đinh Thị Hồng T, có 02 người con, con lớn sinh năm 2010 và con nhỏ
sinh năm 2014. Ông Chu Văn T có vợ là Nông Thị O.
[4] Đối với các nội dung: Nguyên đơn, bị đơn đều thừa nhận có việc làm
ăn với nhau (ông Chu Văn T đi bắt lợn hơi về bán cho bà Chu Thị Q, mục đích
hưởng lợi từ chênh lệch giá bán) và từ năm 2015 đến năm 2023 hai bên đã giao
dịch làm ăn với nhau, hàng tháng có cộng sổ sách, có chốt, đối chiếu số tiền trả
nợ và số tiền còn nợ lại với nhau. Đến ngày 30/12/2023 âm lịch hai bên đã chốt
sổ và bà Chu Thị Q đã nợ tiền lợn hơi của ông Chu Văn T với tổng số tiền
995.256.000 đồng (chín trăm chín mươi lăm triệu hai trăm năm mươi sáu nghìn
đồng. Đến ngày 26/3/2024 dương lịch bà Chu Thị Q đã viết Giấy nhận nợ tiền
lợn cho ông Chu Văn T với tổng số tiền nợ gốc là 995.256.000 đồng, có sự
chứng kiến của ông Phùng Văn T trưởng khu phố B thị trấn N, huyện L, tỉnh
Lạng Sơn. Ngày 18/4/2024 dương lịch bà Chu Thị Q đã giao cho ông Chu Văn
T 02 bản gốc Giấy chứng chứng nhận quyền sử dụng đất (thửa đất số 86, diện
tích 103,4m
2
thuộc tờ bản đồ địa chính số 2đ thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn
đứng tên hộ ông Hoàng Văn T1 và thửa đất số 124, diện tích 86,2m
2
, tờ bản đồ
số 30 xã Đ, huyện L, tỉnh Lạng Sơn đứng tên hộ ông Hoàng Văn T bà Đinh Thị
Hồng T mục đích chỉ để làm tin) và 01 Giấy chuyển nhượng nhà ở có chữ ký
của bà Chu Thị Q, có người làm chứng ông Phùng Văn T ký. Các đương sự đã
thừa nhận nội dung trên nên không phải chứng minh.
[5] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu bị đơn phải trả số tiền
nợ gốc 995.256.000 đồng, Hội đồng xét xử thấy: Số tiền nợ này đã được hai bên
chốt sổ nợ vào ngày 30/12/2023 âm lịch. Được thể hiện tại bút lục 99 và 364 có
ghi: “chốt sổ/ nợ cũ 998.456 - mới = 985.256/ 30/12/2023/ cộng lãi mười triệu/
là 995.256 triệu đồng. Trong đó, thể hiện chữ “cộng lãi mười triệu” là chữ viết
của bà Chu Thị Q. Quá trình giải quyết vụ án phía nguyên đơn đã cung cấp cho
Toà án là bản gốc Giấy nhận nợ tiền lợn. Tại Giấy nhận nợ cũng như lời khai
của bà Chu Thị Q đều thừa nhận có nợ tiền lợn của ông Chu Văn Tiến, bà là
người tự nguyện viết Giấy này, không bị ép buộc, chữ viết, chữ ký trong Giấy
nhận nợ tiền lợn đều do bà viết ra, có người làm chứng là ông Phùng Văn T
9
trưởng khu phố B đã chứng kiến. Sau thời điểm chốt nợ ngày 30/12/2023 âm
lịch ông Chu Văn T đã nhiều lần điện thoại cũng như đến nhà đòi nợ bà Chu Thị
Q nhưng bà Chu Thị Q khất lần không trả. Sau khi hai bên viết Giấy nhận nợ
tiền lợn vào ngày 26/3/2024 dương lịch, ông tiếp tục đòi nợ bà Chu Thị Q nhưng
không được, đến ngày 28/3/2024 dương lịch ông đã làm đơn khởi kiện bà Chu
Thị Q ra Toà án. Khi biết tin ông Chu Văn T khởi kiện thì ngày 18/4/2024 bà
Chu Thị Q đã đưa 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình và 01
Giấy chuyển nhượng nhà ở cho ông Chu Văn T, nhưng sau đó hai bên cũng
không thực hiện được việc chuyển nhượng nhà, đất. Sau thời điểm Toà án thụ lý
giải quyết vụ án, ngày 30/5/2024 Toà án đã triệu tập các đương sự để tham gia
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, tại
phiên họp các đương sự đều có mặt nhưng các đương sự đã đề nghị Toà án hoãn
phiên họp để các bên về tự trao đổi, thống nhất thoả thuận với nhau nhưng
không tự thoả thuận được. Đến ngày 05/7/2024, Toà án đã mở phiên họp và tại
phiên họp các bên đã thừa nhận có sự việc mua bán lợn hơi, nợ tiền và số tiền nợ
gốc là 995.256.000 đồng, trong sổ ghi nợ bà Chu Thị Q đã ghi cộng lãi mười
triệu. Như vậy thấy, trên thực tế cả hai có việc làm ăn buôn bán với nhau từ năm
2015 đến năm 2023, có việc chốt sổ, ghi số tiền trả nợ, ghi sổ tiền nợ lại và thực
tế đã chứng minh bằng Giấy nhận nợ tiền lợn đề ngày 26/3/2024. Do đó, ông
Chu Văn T khởi kiện yêu cầu bà Chu Thị Q phải thanh toán số tiền nợ gốc là có
căn cứ.
[6] Tuy nhiên, đối với số tiền nợ gốc 995.256.000 đồng thì Toà án đã tiến
hành kiểm tra theo sổ nợ gốc cũng như bản phô tô các khoản nợ có trong hồ sơ
vụ án thì thấy: Tại bút lục số 116 và bút lục 333 có ghi: “1/9 dương, 17/7 âm trả
10 triệu tiền lãi tháng 8 dương lịch”. Tại bút lục số 128 và bút lục 345 có ghi:
”30/8 âm, chốt sổ nợ lại 63.254, nợ cũ 698.000 = 761.254, trả 10 lãi 7, trả 10
lãi tháng 8 tổng nợ là 781.254 triệu”. Phía nguyên đơn thừa nhận có việc tính
lãi suất cho bà Chu Thị Q nhưng chỉ tính từ tháng 6 năm 2023 âm lịch đến tháng
12/2023 âm lịch và được tính lãi 04 lần. Nhưng kiểm tra trong sổ nợ có ghi “lãi
tháng 8 dương lịch” với “lãi tháng 7 âm lịch” là trùng nhau về mặt thời gian,
đối với việc trùng này ông Chu Văn T cho biết: Do không để ý kỹ về tháng âm,
dương nên ông đã ghi nhầm tháng, đến nay ông Chu Văn T có ý kiến số tiền lãi
của tháng 7 âm là 10.000.000 đồng sẽ được trừ vào số tiền nợ gốc 995.256.000
đồng và số nợ gốc đến nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả là 985.256.000
đồng (chín trăm tám mươi lăm triệu hai trăm năm mươi sáu nghìn đồng). Xét
đối với ý kiến của ông Chu Văn T đưa ra là không trái với quy định của pháp
luật, đảm bảo có lợi cho bị đơn nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Do đó, bà
Chu Thị Q phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền nợ gốc là 985.256.000 đồng (chín
trăm tám mươi lăm triệu hai trăm năm mươi sáu nghìn đồng) cho ông Chu Văn
T.
[7] Xét đối với yêu cầu tính lãi suất của nguyên đơn ông Chu Văn T, yêu
cầu bà Chu Thị Q phải trả lãi suất 10%/năm, thời điểm tính lãi suất từ ngày
10/5/2024 (ngày viết đơn khởi kiện bổ sung) cho đến ngày xét xử sơ thẩm
04/9/2024. Hội đồng xét xử thấy: Đối với Giấy nhận nợ tuy không ghi lãi suất
10
và nguyên đơn ông Chu Văn T chỉ yêu cầu lãi suất sau thời điểm ghi giấy nhận
nợ tiền lợn. Căn cứ theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định
thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1
Điều này tại thời điểm trả nợ “là 10%/năm”. Do đó, số tiền gốc 985.256.000
đồng x 10%/năm x (lãi suất tính từ ngày 10/5/2024 đến ngày xét xử 04/9/2024)
là 119 ngày : 365 ngày = 32.122.044 đồng (ba mươi hai triệu một trăm hai mươi
hai nghìn không trăm bốn mươi bốn nghìn đồng). Xét đối với yêu cầu của ông
Chu Văn T về buộc bà Chu Thị Q phải chịu khoản tiền lãi trên số nợ gốc chưa
trả là phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự được Hội đồng xét xử chấp
nhận. Do đó, bị đơn bà Chu Thị Q phải có trách nhiệm trả số tiền lãi nêu trên
cho ông Chu Văn T.
[8] Đối với ý kiến của bị đơn bà Chu Thị Q cho rằng: Tại thời điểm làm
ăn buôn bán với nhau, do không trả được số tiền nợ gốc, Chu Văn T đã tính
thêm số tiền lãi 10.000.000 đồng/tháng vào trong số nợ gốc chưa trả tại thời
điểm chốt nợ là chưa đúng. Hội đồng xét xử thấy: Kiểm tra các tài liệu chứng cứ
do nguyên đơn đã nộp cho Toà án thấy: Tại bút lục số 116, bút lục 333 có ghi:
“1/9 dương, 17/7 âm trả 10 triệu tiền lãi tháng 8 dương lịch”. Tại bút lục số
128, bút lục 345 có ghi: ”30/8 âm, chốt sổ nợ lại 63.254, nợ cũ 698.000 =
761.254, trả 10 lãi 7, trả 10 lãi tháng 8 tổng nợ là 781.254 triệu”. Tại bút lục
99 và bút lục 364 có ghi:”chốt sổ, nợ cũ 998.456 - mới 13.200 = 985.256,
30/12/2023, cộng lãi mười triệu là: 995.256 triệu đồng”.Kiểm tra trong sổ gốc
ghi nợ thì thấy: Toàn bộ số tiền ghi lãi 10.000.000 đồng đều được ghi tính lãi từ
tháng 6 năm 2023 âm lịch đến tháng 12/2023 âm lịch là 04 lần với tổng số tiền
lãi 40.000.000 đồng (ngoài ra trong sổ sách gốc không thấy ghi số tiền lãi của
thời điểm nào nữa), khi chốt sổ tại thời điểm này cụ thể như sau: Bút lục 116 và
333: Lãi 10.000.000 đồng/tổng số tiền nợ gốc 710.540.000 đồng = 16,88%/năm
(lãi của tháng 8 dương lịch). Bút lục 128 và 345: Ghi ngày 30/8/2023 âm lịch,
trả lãi tháng 7/2023 (âm lịch) là 10.000.000 đồng/698.000.000 đồng nợ gốc (số
tiền lãi này đã trùng với lãi của tháng 8 dương lịch nên được trừ vào số tiền nợ
gốc của bà Chu Thị Q), trả lãi tháng 8/2023 (âm lịch) là 10.000.000 đồng/ tổng
số tiền nợ gốc 761.254.000 đồng = 15,76%/năm. Bút lục 99 và 364: Ngày
30/12/2023 lãi 10.000.000 đồng/tổng số tiền nợ gốc 985.256.000 đồng =
12,17%/năm (lãi của tháng 12). Như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 468
của Bộ luật Dân sự có nêu:”…lãi suất theo thoả thuận không được vượt quá
20%/năm của khoản tiền vay…”, theo đó đối với khoản vay nợ tại thời điểm ghi
lãi thì lãi suất không vượt quá 20%/năm nên lãi suất này là phù hợp với quy định
của pháp luật, được chấp nhận. Hơn nữa, phía bị đơn bà Chu Thị Q cho rằng
việc tính lãi không đảm bảo nhưng bà không đưa ra được tài liệu chứng cứ gì để
chứng minh cho yêu cầu của mình, nếu cho rằng tính lãi không đúng thì trước
thời điểm viết Giấy nhận nợ tiền lợn ngày 26/3/2024 thì hai bên đã phải đối
chiếu lại các khoản nợ, trả nợ, lãi suất cho khớp và khi đã đối chiếu khớp với
nhau thì mới có việc viết Giấy nhận nợ tiền lợn này. Khoản tiền lãi này nếu hàng
tháng tính lãi đủ thì phải được tính từ tháng 6/2023 đến tháng 12/2023 là 06
tháng, nhưng sổ sách chỉ thể hiện tính lãi là 04 tháng (trong đó có 01 tháng tiền
11
lãi 10.000.000 đồng đã được trừ tiền lãi vào tiền nợ gốc) nên chỉ thấy các bên
được tính lãi suất 03 tháng.
[9] Việc bà Chu Thị Q cho rằng ông Chu Văn T chốt sổ lấy lợn với bà
không rõ ràng, có những ngày bà không được lấy lợn nhưng vẫn ghi khống vào
sổ với tổng số tiền ghi khống là 138.835.000 đồng. Bà đã trả tiền cho Chu Văn T
nhưng Chu Văn T không ghi vào sổ, không trừ nợ cho bà với tổng số tiền không
ghi trừ nợ là 130.000.000 đồng. Đối với các yêu cầu của bà Chu Thị Q đưa ra
nhưng bà không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
của mình. Hơn nữa, cho rằng nếu có việc ghi khống số cân lợn hơi, số tiền trả nợ
không chính xác, chưa rõ ràng thì tại sao bà Chu Thị Q vẫn chốt sổ số tiền nợ
với ông Chu Văn T vào ngày 30/12/2023 âm lịch và nếu cho rằng không chính
xác, không rõ ràng tại sao có việc bà Chu Thị Q lại viết Giấy nhận nợ tiền lợn
vào ngày 26/3/2024 dương lịch cho ông Chu Văn T, thậm trí trong giấy này còn
nêu rõ bà Chu Thị Q viết giấy hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, lời khai
của người làm chứng ông Phùng Văn T cũng thể hiện bà Chu Thị Q viết giấy tự
nguyện, không bị ai ép buộc. Do đó đối với ý kiến của bà Chu Thị Q đưa ra là
không có căn cứ, không được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
[10] Như vậy, tổng số tiền nợ gốc và nợ lãi buộc bà Chu Thị Q phải trả
cho ông Chu Văn T là: 985.256.000 đồng + 32.122.044 đồng = 1.017.378.044
đồng (một tỷ không trăm mười bẩy triệu ba trăm bẩy mươi tám nghìn không
trăm bốn mươi bốn đồng). Trường hợp bà Chu Thị Q chậm trả số tiền nêu trên
còn phải chịu lãi suất theo quy định của pháp luật.
[11] Ông Chu Văn T đã rút các nội dung: Bà Chu Thị Q không trả được
nợ, yêu cầu Toà án tuyên buộc bà Chu Thị Q phải sử dụng các tài sản của mình
(bao gồm các tài sản được cho tặng, thừa kế…) để trả nợ cho ông Chu Văn T.
Trường hợp bà Chu Thị Q không trả, ông Chu Văn T có quyền đề nghị cơ quan
Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mại tài sản hoặc nhận tài sản đề cấn trừ
nợ theo quy định của pháp luật và Trường hợp phát mại các tài sản của bà Chu
Thị Q nhưng không đủ để trả khoản nợ trên, đề nghị Toà án tiếp tục tuyên bà
Chu Thị Q tiếp tục có nghĩa vụ trả nợ cho đến khi thanh toán xong mọi khoản
nợ. Xét thấy việc rút các yêu cầu trên là hoàn toàn tự nguyện, Hội đồng xét xử
căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự đình chỉ giải quyết các nội
dung trên.
[12] Đối với 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là: Thửa đất số 86,
diện tích 103,4m
2
, tờ bản đồ địa chính số 2đ, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn
đã được UBND huyện Lộc Bình cấp cho hộ ông Hoàng Văn T1, ngày
10/9/2021, vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00023 QSDĐ/QĐ-UBND và Thửa đất số
124, diện tích 86,2m
2
, tờ bản đồ địa chính số 30, xã Đ, huyện L, tỉnh Lạng Sơn
đã được UBND huyện L cấp cho hộ ông Hoàng Văn T và bà Đinh Thị Hồng T
ngày 11/12/2013, sổ vào sổ cấp GCNL: CH04828 thấy: Quá trình giải quyết vụ
án các bên đương sự đều thừa nhận bị đơn bà Chu Thị Q đưa 02 Giấy chứng
nhận này cho ông Chu Văn T chỉ để làm tin, các bên không làm văn bản cầm cố,
hay thế chấp tài sản này nên không có cơ sở để xem xét, giải quyết đối với 02
12
GCNQSDĐ này, ông Chu Văn T đã tự nguyện hoàn trả lại cho bà Chu Thị Q 02
GCNQSDĐ nêu trên sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là phù hợp với quy
định của pháp luật được Hội đồng xét xử ghi nhận.
[13] Đối với việc bà Chu Thị Q có đơn đề nghị gửi Toà án, Viện kiểm sát
và Công an huyện Lộc Bình để làm rõ hành vi Cưỡng đoạt tài sản của ông Chu
Văn T xảy ra vào ngày 07/5/2024 và đề nghị Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ
án dân sự thì ông Chu Văn T đã nộp cho Toà án 01 bản phô tô Biên bản hoà giải
đề ngày 07/5/2024 (biên bản này không có tên ông Chu Văn T). Tại phiên toà bà
Chu Thị Q cho biết bà có nộp đơn đến Công an huyện Lộc Bình yêu cầu xem
xét hành vi của ông Chu Văn T nhưng bà không cung cấp được tài liệu, chứng
cứ để chứng minh việc Công an huyện Lộc Bình đã tiếp nhận giải quyết vụ việc
đó thế nào và có căn cứ khởi tố ông Chu Văn T về tội Cưỡng đoạt tài sản hay
không. Về phía ông Chu Văn T cho biết, sau thời điểm ông với bà Chu Thị Q
chốt sổ nợ (30/12/2023 âm lịch) đến nay ông không làm ăn gì với bà Chu Thị Q
nữa mà chỉ có mẹ ông là bà X tiếp tục làm ăn và được bán lợn hơi cho bà Chu
Thị Q. Bà Chu Thị Q cho biết, sau thời điểm ghi giấy nhận nợ bà vẫn được lấy
của gia đình nhà ông Chu Văn T (lợn của ai bà không biết) nhưng không được
trả tiền mua lợn cho vợ chồng ông Chu Văn T. Hội đồng xét xử thấy: Việc làm
ăn giữa bà Chu Thị Q với ông Chu Văn T đã được chốt sổ sách và đã viết Giấy
nhận nợ tiền lợn vào ngày 30/12/2023 âm lịch với nhau, từ đó trở đi cả hai đã
không làm ăn với nhau. Đến nay, ông Chu Văn T khởi kiện yêu cầu giải quyết
buộc bà Chu Thị Q phải trả nợ theo Giấy nhận nợ. Đây là vụ án dân sự riêng biệt
và Toà án chỉ xem xét trong phạm vi yêu cầu khởi kiện của đương sự. Trường
hợp Công an huyện Lộc Bình tiến hành điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ
nếu có căn cứ để khởi tố ông Chu Văn T về tội Cưỡng đoạt tài sản thì sẽ được
xem xét giải quyết bằng một vụ án hình sự khác và không liên quan đến việc
giải quyết vụ án dân sự này. Do đó, đối ý kiến của bà Chu Thị Q đề nghị Tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự này là không có cơ sở chấp nhận.
[14] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của ông Chu Văn T được chấp nhận
nên bà Chu Thị Q phải chịu án phí theo giá ngạch theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, bà Chu Thị Q thuộc trường hợp người cao tuổi, đã có đơn xin miễn
nộp tiền án phí. Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Chu Thị Q được miễn nộp
tiền án phí dân sự sơ thẩm theo giá ngạch. Hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí
21.302.000 đồng (hai mươi mốt triệu ba trăm linh hai nghìn đồng) cho ông Chu
Văn T đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0002315 ngày 13/5/2024 tại
Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn theo quy định tại
khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14;
Điều 15 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[15] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa đưa ra là có căn cứ,
phù hợp với các quy định của pháp luật được Hội đồng xét xử chấp nhận.
13
[16] Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền
kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 116, 117, 280, 350, 357, 430, 440, 468 của Bộ luật Dân
sự năm 2015.
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 2
Điều 229, khoản 2 Điều 244, Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015.
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, Điều 15 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,
tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Chu Văn T.
Buộc bị đơn bà Chu Thị Q phải có nghĩa vụ thanh toán cho ông Chu Văn
T với tổng số tiền nợ là 1.017.378.044 đồng (một tỷ không trăm mười bẩy triệu
ba trăm bẩy mươi tám nghìn không trăm bốn mươi bốn đồng). Trong đó: Tiền
nợ gốc là 985.256.000 đồng (chín trăm tám mươi lăm triệu hai trăm năm mươi
sáu nghìn đồng), tiền nợ lãi 32.122.044 đồng (ba mươi hai triệu một trăm hai
mươi hai nghìn không trăm bốn mươi bốn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan
thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả
cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.
2. Đình chỉ giải quyết yêu cầu của nguyên đơn ông Chu Văn T về yêu cầu
bà Chu Thị Q không trả được nợ, yêu cầu Toà án tuyên buộc bà Chu Thị Q phải
sử dụng các tài sản của mình (bao gồm các tài sản được cho tặng, thừa kế…) để
trả nợ cho ông Chu Văn T. Trường hợp bà Chu Thị Q không trả, ông Chu Văn T
có quyền đề nghị cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mại tài sản
hoặc nhận tài sản đề cấn trừ nợ theo quy định của pháp luật và Trường hợp phát
mại các tài sản của bà Chu Thị Q nhưng không đủ để trả khoản nợ trên, đề nghị
Toà án tiếp tục tuyên bà Chu Thị Q tiếp tục có nghĩa vụ trả nợ cho đến khi thanh
toán xong mọi khoản nợ, do ông Chu Văn T đã rút yêu cầu.
3. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Chu Văn T về việc khi bản án có hiệu
lực pháp luật thi hành sẽ thực hiện việc trả lại cho bà Chu Thị Q: 02 Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là: Thửa đất số 86, diện tích 103,4m
2
, tờ bản đồ địa
chính số 2đ, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn đã được UBND huyện L cấp cho
14
hộ ông Hoàng Văn T1, ngày 10/9/2021, vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00023
QSDĐ/QĐ-UBND và Thửa đất số 124, diện tích 86,2m
2
, tờ bản đồ địa chính số
30, xã Đ, huyện L, tỉnh Lạng Sơn đã được UBND huyện Lộc Bình cấp cho hộ
ông Hoàng Văn T và bà Đinh Thị Hồng T ngày 11/12/2013, sổ vào sổ cấp
GCNL: CH04828.
4. Về án phí: Bị đơn bà Chu Thị Q là người cao tuổi, đã có đơn xin miễn
nộp tiền án phí nên được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm theo giá ngạch.
Hoàn trả cho nguyên đơn ông Chu Văn T số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
21.302.000 đồng (hai mươi mốt triệu ba trăm linh hai nghìn đồng) theo Biên lai
thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002315, ngày 13/5/2024 tại Chi cục
thi hành án dân sự huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên
tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản
án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Lạng Sơn; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND h Lộc Bình;
- CCTHADS h Lộc Bình;
- Đương sự......................;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
Nguyễn Thúy Huyền
Tải về
Bản án số 13/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 13/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 09/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 04/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 04/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 20/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm