Bản án số 201/2024/DS-PT ngày 18/11/2024 của TAND tỉnh Trà Vinh về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 201/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 201/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 201/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 201/2024/DS-PT ngày 18/11/2024 của TAND tỉnh Trà Vinh về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Trà Vinh |
Số hiệu: | 201/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | - Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Thạch Thị S. - Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh. - Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 90/2023/DS-ST ngày 20 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh về án phí. Tuyên xử |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TRÀ VINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số:201/2024/DS-PT
Ngày:18 -11-2024
V/v Tranh chấp hợp đồng thuê nhà
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:Ông Lê Thành Trung
Các Thẩm phán: Ông Phạm Văn Long
Ông Huỳnh Đắc Đương
Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Hồng Nhả,Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân tnh Trà Vinh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh tham gia phiên tòa: Bà
Trần Hương Thủy- Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 11 năm 2024 tại Tòa án nhân dân tnh Trà Vinh xét xử phúc
thẩm công khai vụ án thụ lý số: 206/2024/TLPT-DS ngày 17 tháng 10 năm 2024
về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà yêu cầu di dời tài sản và trả tiền thuê
nhà; yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 90/2023/DS-ST ngày 25 tháng 11 năm 2023
của Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tnh Trà Vinh bị kháng cáo, kháng nghị
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:121/2024/QĐPT-DS
ngày 23 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Văn T, sinh năm 1965;
Địa ch: A T, khóm B, phường B, thành phố T, tnh Trà Vinh .
Người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Văn T: Ông Võ Trung D, sinh 1973;
Địa ch: ấp Đ, xã H, huyện C, tnh Trà Vinh (theo văn bản ủy quyền ngày
06/11/2024). (Có mặt)
- Bị đơn: Bà Thạch Thị S, sinh năm 1959. (Có mặt).
Địa ch: khóm A, phường H, thành phố T, tnh Trà Vinh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Thạch Thị S: Luật sư Mai
Công M- Công ty L thuộc Đoàn luật sư Thành phố H;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
1/ Văn phòng C (Có đơn xin vắng mặt).
Địa ch: B L, phường A, thành phố T.
2/ Văn phòng C1- tnh Trà Vinh (Có đơn xin vắng mặt).
Địa ch: C P, Phường A, thành phố T.
3/ Sở Tài nguyên và Môi trường tnh T; Địa ch: D, đường M, Khóm C,
Phường F, thành phố T;
2
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Vạn K, phó Giám đốc thực hiện
nhiệm vụ giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tnh T. Người đại diện hợp pháp
của Sở Tài nguyên và Môi trường tnh T: Ông Lê Văn Mười H - Chức vụ: phó
Giám đốc Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tnh T,
theo văn bản ủy quyền số: 4031/STNMT-VP ngày 29/10/2024 (Có đơn xin vắng
mặt).
4/ Bà Lê Thị B, sinh năm 1959.
Địa ch: A T, khóm B, phường B, thành phố T, tnh Trà Vinh.
5/ Bà Ông A, sinh năm 1967 (vợ ông Lê Văn T)
Địa ch HKĐKTT: Số D, khóm C, phường F, thành phố T, tnh Trà Vinh.
Địa ch liên lạc: 164 T, khóm B, phường B, thành phố T, tnh Trà Vinh,
Người đại diện hợp pháp của bà Lê Thị B, bà Ông A: Ông Võ Trung D, sinh
năm 1973; Địa ch: ấp Đ, xã H, huyện C, tnh Trà Vinh (Theo văn bản ủy quyền
ngày 06/11/2024). (có mặt)
6/ Chị Sơn Thị Ánh N, sinh năm 1977 (có đơn xin vắng mặt).
Địa ch: ấp H, xã L, huyện C, tnh Trà Vinh.
7/ Chị Sơn Thị Thu H1, sinh năm 1982. (có đơn xin vắng mặt).
Địa ch: Số I N, khóm E, phường H, thành phố T, tnh Trà Vinh.
- Người kháng cáo: Bà Thạch Thị S là bị đơn.
- Cơ quan kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân tnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn T trình bày:
Vào ngày 31/7/2015, ông T có thỏa thuận nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất của bà Thạch Thị S ngụ tại óm"khóm A, ường"phường H, thành phố T
đối với 02 thửa đất:
- Thửa đất thứ nhất: số thửa 91, tờ bản đồ số 7, diện tích 190,5 m
2,
loại đất
trồng lúa;
- Thửa đất thứ hai: số thửa 92, tờ bản đồ số 7, diện tích 1.922,3 m
2
, loại đất
trồng lúa;
Cùng tọa lạc tại óm"khóm A, ường"phường H, thành phố T, ính"tnh Trà
Vinh.
Với giá thỏa thuận chuyển nhượng thực tế là 1.700.000.000 đồng (Một tỷ
bảy trăm triệu đồng) kể cả căn nhà trên đất. Nhưng giá ghi trong hợp đồng công
chứng là 480.000.000 đồng (Bốn trăm tám mươi triệu đồng).
Sau khi giao đủ số tiền là 1.700.000.000 đồng (Một tỷ bảy trăm triệu đồng)
cho bà S tại òng"Phòng công chứng. Trước khi ký hợp đồng chuyển nhượng tại
Phòng công chứng thì giữa ông T với bà S có thỏa thuận là ông T cho bà S ở lại
01 năm không tính tiền thuê nhà kể từ ngày 31/7/2015 đến ngày 31/7/2016, trong
01 năm này bà S có yêu cầu ông T nếu bà S có tiền sẽ mua lại với giá thương
lượng là: vốn 1.700.000.000 đồng (Một tỷ bảy trăm triệu đồng) và lãi là 1%/tháng
cụ thể là 17.000.000đồng/tháng, tương ứng với số tháng mà bà S bỏ tiền để mua
lại. Sau 01 năm bà S không có tiền mua lại nên ông T đã sang tên nhà và đất,
chính thức đứng tên trên ấy"giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày
03/8/2016. Do ông T chưa có nhu cầu sử dụng nhà và đất trên nên ông T có ủy
3
quyền cho chị ông T là bà Lê Thị B được trọn quyền định đoạt (cho thuê, quyết
định về giá cả, thu tiền cho thuê) đối với hai thửa đất nêu trên theo giấy ủy quyền
đề ngày 10/9/2016.
Đến ngày 15/9/2016 bà B có báo với ông T là đã ký hợp đồng cho thuê nhà
và đất với bà Thạch Thị S. Theo đó hai bên thỏa thuận giá thuê nhà là
1.500.000đồng/tháng, thời hạn cho thuê là 01 năm kể từ 15/9/2016 đến 15/9/2017.
Trường hợp bên thuê không trả tiền thuê đúng vào ngày 15 hàng tháng thì bên cho
thuê sẽ chấm dứt hợp đồng thuê và lấy lại nhà và đất, buộc phía thuê nhà phải di
dời tài sản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày chấm dứt hợp đồng thuê. Sau khi ký
hợp đồng thuê bà S ch trả được 10 tháng tiền thuê nhà (tức là đến ngày 15/7/2017)
thì ngưng cho đến nay.
Nay ông T yêu cầu giải quyết các vấn đề như sau:
- Chấm dứt hợp đồng thuê nhà ngày 15/9/2016 với bà S, buộc bà Thạch Thị S
phải di dời chổ ở khác để trả nhà và đất thửa số 91, diện tích 190,5 m
2
và thửa số
92, diện tích 1922,3 m
2
, cùng tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại khóm A, phường H, thành
phố T, tnh Trà Vinh cho ông T;
- Buộc bà S phải thanh toán tiền thuê nhà chưa đóng từ ngày 15/7/2017 cho đến
ngày khởi kiện tạm tính là: 11 tháng x 1.500.000 đồng/tháng = 16.500.000 đồng
(Mười sáu triệu, năm trăm nghìn đồng). Đồng thời yêu cầu bà Thạch Thị S phải
tiếp tục trả tiền thuê nhà từ sau ngày 15/6/2018 cho đến khi Tòa án giải quyết
xong vụ án.
Đối với yêu cầu phản tố của bà Thạch Thị S về việc hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất; Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ
599814 cấp ngày 03/08/2016, với diện tích 190,5m
2
, thuộc thửa số 91, tờ bản đồ
số 7; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 599815 cấp ngày 03/08/2016,
với diện tích 1.922.3m
2
, thuộc thửa số 92, tờ bản đồ số 7 do ông T đang đứng tên
thì ông T không đồng ý, vì ông T nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà
S là hợp pháp và ông T cũng trả đủ tiền nhận chuyển nhượng theo sự thỏa thuận
là 1.700.000.000đ (Một tỷ bảy trăm triệu đồng).
- Bị đơn bà Thạch Thị S trình bày :
Nguồn gốc căn nhà đất đang tranh chấp là của bà được cấp quyền sử dụng
cấp ngày 13/01/2011. Năm 2011, bà có đem 02 giấy chứng nhận này thế chấp cho
Ngân hàng K3 - Chi nhánh T2 để vay số tiền là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu
đồng). Đến năm 2013, bà không trả được nên có thỏa thuận với bà Lê Thị Bích
K1 bà B bỏ tiền ra để chuộc 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà B đồng ý
nên bà B đã xuất ra số tiền 230.000.000 đồng (Hai trăm ba mươi triệu đồng) trả
cho Ngân hàng lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra. Sau đó, bà Lê Thị B có
đưa thêm số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).Tổng cộng bà nợ bà
Lê Thị B là 280.000.000d (Hai trăm tám mươi triệu đồng).
Vào ngày 15/12/2011, con của bà là Sơn Thị Thu H1 và Sơn Thị Ánh N có
chuyển nhượng cho bà Lê Thị B 01 thửa đất diện tích 423,7m
2
, tọa lạc tại khóm
D, phường H, thành phố T với giá là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng),
mỗi tháng phải đóng cho bà Lê Thị B 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) tiền lãi
tức 4%/tháng, khi nào có tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) trả lại cho
bà B thì chuộc lại đất. Tuy nhiên từ khi lập hợp đồng chuyển nhượng cho bà B
4
năm 2011 đến năm 2013 thì 02 con của bà không có đóng lãi cho bà B nên bà B
đã tính ra nợ lãi là 120.000.000đ (Một trăm hai mươi triệu đồng).
Ngày 11/01/2013, đồng thời với việc xác nhận nợ của bà và nợ lãi của 02
con bà thì giữa bà B và bà có lập tờ thỏa thuận xác nhận nợ bằng 480.000.000
đồng, gồm: 280.000.000 đồng (nợ của bà) + 120.000.000 đồng (nợ lãi của con bà)
+ 80.000.000đồng (bà đồng ý cộng vô trước 03 tháng lãi) = 480.000.000 đồng;
giấy biên nhận nợ này do bà Bích G.
Đồng thời, bà đã tiến hành lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
02 thửa đất nói trên cho bà Lê Thị Bích T1 òng"Phòng Công chứng Công ý"Lý
nhưng bà B không có sang tên qua cho bà B do giữa bà và bà B có lập ờ"tờ thỏa
thuận tay là bà đồng ý sang bán cho bà Lê Thị B 02 thửa đất của bà cho bà B với
giá 480.000.000 đồng (Bốn trăm tám mươi triệu đồng) nhưng có thỏa thuận giao
kèo việc chuộc lại nhà và đất theo giá thị trường sau 12 tháng là 720.000.000 đồng
(Bảy trăm hai mươi triệu đồng), với điều kiện bà phải gởi tiền mỗi tháng là
20.000.000đồng (Hai mươi triệu đồng) cho bà B để khi chuộc nhà sẽ được trừ lại
trong tổng số tiền chuộc là 720.000.000đồng (Bảy trăm hai mươi triệu đồng).
Thực hiện việc gởi tiền mỗi tháng, bà đã gởi tiền cho bà B được đến tháng 07/2015
là 29 tháng với số tiền là 580.000.000 đồng (Năm trăm tám mươi triệu đồng).
Việc gởi tiền này bà B không có làm biên nhận cho bà nên bà không có chứng cứ
nộp cho Tòa án theo lời trình bày này, nhưng căn cứ vào ờ"tờ thỏa thuận thì chứng
tỏ bà đã đóng tiền đầy đủ cho bà B mỗi tháng nên bà B mới không sang tên qua
cho bà B trong thời gian từ ngày 11/01/2013 đến ngày 31/7/2015.
Ngày 31/7/2015, bà B đã yêu cầu bà làm hợp đồng chuyển nhượng sang tên
cho ông Lê Văn T, tại Văn phòng C1 tnh Trà Vinh. Bà đã đồng ý và tiến hành
lập hợp đồng chuyển nhượng theo mẫu Nhà nước quy định cũng với số tiền ghi
trong hợp đồng chuyển nhượng là 480.000.000 đồng (Bốn trăm tám mươi triệu
đồng), ch làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, không có nhận tiền.
Đồng thời, bà Lê Thị B có lập 01 tờ giấy tay ngày 31/7/2015 "biên nhận bán
nhà” và giá mua bán là 1.700 000.000đồng (Một tỷ bảy trăm triệu đồng) với ông
Lê Văn T nhưng bà hoàn toàn không nhận đồng tiền nào từ ông Lê Văn T. Cho
nên, đối với việc Lê Văn T yêu cầu:
+ Chấm dứt hợp đồng thuê nhà ngày 15/9/2016, buộc bà phải di dời để trả
nhà và đất thửa số 91, diện tích 190,5 m
2
và thửa số 92, diện tích 1.922,3 m
2
, cùng
tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại khóm A, Phường H, thành phố T, tnh Trà Vinh;
+ Buộc bà phải thanh toán tiền thuê nhà chưa đóng từ ngày 15/8/2017 cho
đến ngày 15/6/2018 tạm tính là: 11 tháng x 1.500.000 đồng/tháng = 16.500.000
đồng (Mười sáu triệu, năm trăm nghìn đồng), và yêu cầu bà phải tiếp tục trả tiền
thuê nhà từ sau ngày 15/6/2018 cho đến khi Tòa án giải quyết xong vụ án.
Bà S không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn T. Bà yêu cầu Tòa
án xem xét hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà với ông Lê
Văn T, hủy 02 (hai) giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lê Văn T). Về
số tiền nợ giữa bà và bà B bà không yêu cầu trong vụ án này. Khi nào bà B khởi
kiện bà, bà sẽ tính toán với bà B trong vụ kiện khác. Ngoài ra bà không yêu cầu
phản tố bổ sung gì thêm.
- Theo lời khai Lê Thị B trình bày:
5
Việc giao dịch tiền giữa bà và bà S đã tính toán xong bà B không yêu cầu
gì trong vụ án này. Bà có giới thiệu cho em là Lê Văn T mua hai thửa đất và nhà
của bà Thạch Thị S1 giá mua bán bằng 1.700.000.000 đồng nhưng trong hợp
đồng ghi 480.000.000 đồng, ông T giao tiền cho bà S tại Văn phòng C2 Trà Vinh.
Ông T để cho bà S lưu cư 01 năm sau 01 năm thì thuê lại nhà nên hai bên có làm
biên nhận bán nhà và đất cùng ngày 31/7/2015. Sau đó ông T có ủy quyền cho bà
cho bà S thuê lại nhà đất. Đến ngày 15/9/2016 bà S ký hợp đồng thuê nhà đất thời
hạn thuê 1 năm. Sau khi thuê bà S ch đóng tiền thuê nhà đất được 10 tháng bằng
15.000.000 đồng sau đó bà S không đóng tiền thuê nên ông T khởi kiện bà S yêu
cầu chấm dứt hợp đồng thuê và yêu cầu trả lại nhà đất.
- Theo lời khai của bà Ông A: Bà Ông A là vợ ông Lê Văn T nhưng việc kinh
doanh mỗi người 01 việc khác nhau bà không nắm hết các giao dịch mua bán của
ông T nhưng đây là tài sản của vợ chồng bà trong thời kỳ hôn nhân nên bà thống
nhất với yêu cầu của ông T.
- Bà Sơn Thị Ánh H2 và bà Sơn Thị Ánh N vắng mặt nhưng có lời khai trong
quá trình giải quyết vụ án là 02 bà không liên quan trong việc giao dịch mua bán
giữa bà S với ông T nên mọi quyết định bà thống nhất theo yêu cầu của bà S.
- Văn phòng C; Văn phòng C1- tnh Trà Vinh (Nay là Văn phòng C3) và Sở
Tài nguyên và Môi trường tnh T không có yêu cầu gì trong quá trình giải quyết
vụ án.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 90/2023/DS-ST ngày 25 tháng 11 năm 2023
của Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh đã tuyên xử:
Căn cứ khoản 2 Điều 26; điểm a, khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; khoản 5 Điều 94; Điều 146; Điều 147; Điều 165; Điều 166; khoản 1 Điều 227;
Điều 228; Điều 271, Điều 273; Điều 184; Điều 5 và khoản 1 Điều 6 và Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ Điều 117; khoản 2 Điều 119; Điều 422; Điều 428; khoản 1 Điều
481; khoản 1 Điều 482; Điều 501; Điều 502; Điều 503 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ khoản 1 Điều 167; các điểm a, b, c, d khoản 1 và khoản 3 Điều 188
Luật đất đai năm 2013;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn T.
+ Tuyên bố: Chấm dứt hợp đồng thuê nhà và đất ngày 15/9/2016 giữa bà
Thạch Thị S và ông Lê Văn T.
+ Buộc bà Thạch Thị S phải có trách nhiệm trả cho ông Lê Văn T số tiền
thuê nhà và đất còn nợ lại là 114.500.000đồng (Một trăm mười bốn triệu năm
trăm nghìn đồng).
+ Buộc bà Thạch Thị S có nghĩa vụ di dời tất cả tài sản cá nhân của bà S để
trả lại căn nhà gắn liền thửa đất số 91, tờ bản đồ số 7, diện tích 190,5 m
2,
loại đất
trồng lúa; số thửa 92, tờ bản đồ số 7, diện tích 1922,3 m
2
, loại đất trồng lúa. Cùng
6
tọa lạc tại óm"khóm 1, ường"Phường H, thành phố T, tnh Trà Vinh cho ông Lê
Văn T (giao lại cho ông T cả những phần bà S đã sửa chữa, làm mới như đã nêu
trên).(Có sơ đồ kèm theo).
+ Để tạo điều kiện cho bà S di dời chỗ ở khác, cần xem xét quyền lưu cư
cho bà S trong thời hạn 03 tháng nhưng không làm ảnh hưởng lớn đến tài sản của
nguyên đơn.
- Ghi nhận sự tự nguyện của ông Lê Văn T hỗ trợ toàn bộ chi phí cho bị đơn
bà Thạch Thị S đã bỏ ra để sửa chữa, làm mới 01 số hạng mục của ngôi nhà với
tổng số tiền 242.035.543 đồng.
- Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bà Thạch Thị S về yêu cầu
hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà S với ông T được xác
lập ngày 31/7/2015 và có công chứng tại Văn phòng C1, tnh Trà Vinh và hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 599814 cấp ngày 03/08/2016, với diện
tích 190,5m
2
, thuộc thửa số 91, tờ bản đồ số 7; Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số CĐ 599815 cấp ngày 03/08/2016, với diện tích 1.922.3m
2
, thuộc thửa số
92, tờ bản đồ số 7. Cùng tọa lạc tại khóm A, Phường H, thành phố T, tnh Trà
Vinh được Sở Tài Nguyên và Môi trường tnh T cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Lê Văn T.
- Cấm các đương sự làm thay đổi hiện trạng quyền sử dụng đất tranh chấp
và tài sản trên đất tranh chấp cho đến khi thi hành án xong.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên tiền án phí, nghĩa vụ do chậm thi hành án và quyền
kháng cáo của các đượng sự.
Ngày 07/12/2024 bà Thạch Thị S kháng cáo yêu cầu hủy bản án sơ thẩm,
chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp
cho ông Lê Văn T.
Ngày 25/12/2024 Viện kiểm sát nhân dân tnh Trà Vinh kháng nghị đề nghị
sửa án sơ thẩm về án phí, không buộc ông T chịu án phí có giá ngạch.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị
đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân tnh Trà Vinh vẫn
giữ nguyên kháng nghị.
Ý kiến của người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị đơn:
-Về tố tụng: Tòa án xác định quan hệ pháp luật yêu cầu hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh thụ lý giải quyết là
không đúng thẩm quyền. Việc định giá của Tòa sơ thẩm không đúng giá thị
trường. Bà S hoàn toàn không biết ông T; ông T không phải là đối tượng sử dụng
đất. Bản chất vụ án là do bà S vay nợ của bà B còn thiếu 480.000.000 đồng, thực
tế là không có việc chuyển nhượng giữa bà S và ông T. Đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận yêu cầu kháng cáo và yêu cầu khởi kiện phản tố của bà S sửa bản án
sơ thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tnh Trà Vinh về vụ án:
- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm các
đương sự đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự.
7
- Về nội dung vụ án:
+ Đối với kháng cáo của bà Thạch Thị S, quá trình giải quyết vụ án ở cấp
sơ thẩm cũng như tại phiên tòa bà Thạch Thị S thừa nhận có ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất được xác lập ngày 31/7/2015 với ông Lê Văn T và ký
biên nhận bán nhà và đất ngày 31/7/2015. Nội dung tờ biên nhận: giá chuyển
nhượng trong hợp đồng công chứng là 480.000.000 đồng, giá thực tế mua bán là
1.700.000.000 đồng, tờ biên nhận được bà S ký tên bên bán, sau khi công chứng
bà S đã nhận đủ 1.700.000.000 đồng. Bà S không có căn cứ nào khác chứng minh
là không có chuyển nhượng nhà đất cho ông T và không có nhận tiền như lời khai
của bà.
Bà S cho rằng ch thiếu nợ bà B 480.000.000 đồng do bà B kêu ký tên hợp
đồng chuyển nhượng nhà đất để cho bà đóng lãi. Khi nào có tiền thì chuộc lại.
Theo biên nhận ngày 31/7/2015 bà S có thỏa thuận trong 01 năm sẽ chuộc lại bằng
1.700.000.000 đồng và tính lãi 1%/tháng. Sau khi hết hạn bên bà S không chuộc
lại nhà đất nên ông T làm thủ tục đứng tên quyền sử dụng đất và ủy quyền cho bà
B cho bà S thuê lại nhà. Bà S cũng thực hiện đóng tiền thuê nhà cho bà B được
10 tháng bằng 15.000.000 đồng.
Năm 2020 bà Lê Thị B có kiện bà S đòi số nợ 2.700.000.000 đồng, bà S
cũng nại ra ngày 15/12/2011 bà B cho con bà vay 200.000.000 đồng và làm hợp
đồng chuyển nhượng diện tích 423,7m
2
, tọa lạc tại khóm D, phường H, thành phố
T, tnh Trà Vinh do Sơn Thị Thu H1 và Sơn Thị Ánh N đứng tên để đảm bảo cho
việc vay nợ; nên việc bà S cho rằng thiếu bà B 480.000.000 đồng, bà B tính lãi và
yêu cầu ký hợp đồng chuyển nhượng nhà cho ông T là không đủ cơ sở chấp nhận.
+ Đối với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tnh Trà Vinh: Việc Tòa
án cấp sơ thẩm buộc ông T phải chịu 12.102.000 đồng là không đúng theo quy
định tại Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc Hội, bởi vì trong vụ án này Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị
đơn, nhưng Tòa án buộc ông Lê Văn T nộp án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền
hỗ trợ bị đơn chi phí sửa chữa nhà làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của ông T.
Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng
cáo của bị đơn, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tnh Trà Vinh.
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa bản án dân sự sơ thẩm
số 90/2023/DS-ST ngày 20 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố
Trà Vinh theo hướng không buộc ông Lê Văn T phải chịu án phí trên số tiền đã
hỗ trợ cho bà Thạch Thị S.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra, căn cứ vào kết quả tranh
tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của các
bên đương sự và Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét kháng cáo của bà Thạch Thị S
8
Bà Thạch Thị S khai năm 2011 bà có vay của bà Lê Thị B 280.000.000
đồng có làm hợp đồng chuyển nhượng 02 thửa đất thửa số 91, diện tích 190,5 m
2
và thửa số 92, diện tích 1.922,3 m
2
, cùng tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại khóm A,
phường H, thành phố T, tnh Trà Vinh để đảm bảo cho khoản vay này.
Đồng con của bà là Sơn Thị Thu H1 và Sơn Thị Ánh N có chuyển nhượng
cho bà Lê Thị B 01 thửa đất diện tích 423,7m
2
, tọa lạc tại khóm D, phường H,
thành phố T với giá là 200.000.000 đồng, thỏa thuận lãi 8.000.000 đông/ tháng,
khi nào có 200.000.000 đông thì sẽ chuộc lại đất. Tổng cộng hai khoản vay là
480.000.000 đông nên bà và bà B có lập tờ thỏa thuận tay ngày 11/01/2013 bà
đồng ý sang bán cho bà Lê Thị B 02 thửa đất của bà cho bà B với giá 480.000.000
đồng và thỏa thuận 12 tháng chuộc lại bằng 720.000.000 đồng. Ngày 31/7/2015,
bà B đã yêu cầu bà làm hợp đồng chuyển nhượng sang tên cho ông Lê Văn T, bà
đã đồng ý và tiến hành lập hợp đồng chuyển nhượng theo mẫu Nhà nước quy định
cũng với số tiền ghi trong hợp đồng chuyển nhượng là 480.000.000đồng. Đồng
thời, bà Lê Thị B có lập 01 tờ giấy tay ngày 31/7/2015 "biên nhận bán nhà” và
giá mua bán là 1.700 000.000 đồng với ông Lê Văn T nhưng bà hoàn toàn không
nhận đồng tiền nào từ ông Lê Văn T.
[2] Bà Lê Thị Bích K2 việc bà S nợ tiền của bà bà kiện bà S trong vụ án
khác. Việc bà S chuyển nhượng nhà đất cho ông T là do bà giới thiệu, mua bán
bằng 1.700.000.000 đồng nhưng trong hợp đồng ghi 480.000.000 đồng, ông T có
giao tiền cho bà S tại Văn phòng C2 Trà Vinh. Ông T để cho bà S lưu cư 01 năm
sau 01 năm thì thuê lại nhà nên hai bên có làm biên nhận bán nhà và đất cùng
ngày 31/7/2015. Đến ngày 15/9/2016 bà S ký hợp đồng thuê nhà đất thời hạn thuê
1 năm.
[3] Bà S cho rằng không có chuyển nhượng nhà gắn liền với thửa số 91,
diện tích 190,5 m
2
và thửa số 92, diện tích 1.922,3 m
2
cho ông T là không có cơ
sở để chấp nhận. Bởi lẽ bà S thừa nhận có ký hợp đồng chuyển nhượng ngày
31/7/2015 tại Văn phòng C2 Trà Vinh và tờ biên nhận bán nhà và đất ngày
31/7/2015 thể hiện mua bán trên hợp đồng ghi 480.000.000 đồng thực tế bằng
1.700.000.000 đồng, sau khi công chứng bà S đã nhận đủ 1.700.000.000 đồng (BL
35). Bà S thừa nhận có ký tên trong hợp đồng chuyển nhượng và biên nhận bán
nhà và đất ngày 31/7/2015, bà S không có căn cứ nào khác chứng minh là không
có chuyển nhượng nhà đất cho ông T và không có nhận tiền như lời khai của bà.
Mặt khác, sau khi ông T làm thủ tục đứng tên quyền sử dụng đất xong, ông T ủy
quyền cho bà B để ký hợp đồng thuê lại nhà đất. Bà S vẫn đồng ý ký tên thuê lại
nhà đất và có đóng tiền thuê nhà đất như bà B khai. Nếu không có chuyển nhượng
nhà đất thì bà S sẽ không ký hợp đồng thuê lại nhà và đất với bà B.
[4] Bà S cho rằng ch thiếu nợ bà B 480.000.000 đồng do bà B kêu ký tên
hợp đồng chuyển nhượng nhà đất để cho bà đóng lãi. Khi nào có tiền thì chuộc
lại. Theo biên nhận ngày 31/7/2015 bà S có thỏa thuận trong 01 năm sẽ chuộc lại
bằng 1.700.000.000 đồng và tính lãi 1%/ tháng. Sau khi hết hạn bên bà S không
chuộc lại nhà đất, nên ông T làm thủ tục đứng tên quyền sử dụng đất và ủy quyền
cho bà B cho bà S thuê lại nhà. Bà S cũng thực thực hiện đóng tiền thuê nhà cho
bà B được 10 tháng bằng 15.000.000 đồng.
9
[5] Ngày 26 tháng 7 năm 2019 và ngày 04/9/2019 bà Lê Thị B có kiện bà
S đòi số nợ 2.700.000.000 đồng do bà S vay của bà B vào năm 2016. Bà S khai
số tiền 2.700.000.000 đồng, trong đó có 200.000.000 đồng mà bà mượn giấy
chứng nhận diện tích 423,7m
2
, tọa lạc tại khóm D, phường H, thành phố T do Sơn
Thị Thu H1 và Sơn Thị Ánh N đứng tên để đem thế chấp cho bà B và làm hợp
đồng chuyển nhượng thửa đất này để đảm bảo cho việc vay nợ, nên việc bà S cho
rằng thiếu bà B 480.000.000 đồng bà B tính lãi và yêu cầu bà ký hợp đồng chuyển
nhượng nhà cho ông T là không đủ cơ sở để chấp nhận.
[6] Theo biên bản định giá ngày 12/3/2019, tổng giá trị tài sản bằng
1.466.394.395 đồng thấp hơn giá chuyển nhượng bằng 1.700.000.000 đồng nên
không có có sở cho rằng hợp đồng chuyển nhượng giả cách che dấu hợp đồng vay
nợ.
Từ các chứng cứ nêu trên, kháng cáo của bà Thạch Thị S yêu cầu hủy hợp
đồng chuyển nhượng, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Lê
Văn T là không có cơ sở để chấp nhận.
[7] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tnh Trà Vinh đề nghị không
buộc ông Lê Văn T chịu án phí trên số tiền hỗ trợ cho bà S.
Theo Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH quy định:
1. Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu của họ không
được Tòa án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí
sơ thẩm.
2. Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ
yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận.
3. Nguyên đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp
toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn không được Tòa án chấp nhận.
4. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu
không được Tòa án chấp nhận. Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng
với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận.
Yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn T được Tòa án chấp nhận nên ông T
không phải chịu án phí sơ thẩm, kháng nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ để
chấp.
[8] Ý kiến của người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị đơn Hội đồng xét
xử có cân nhắc xem xét nhưng không có cơ sở để chấp nhận. Ý kiến của Kiểm sát
viên là phù hợp với các tình tiết của vụ án nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị
tiếp tục có hiệu lực thi hành.
[9] Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo của bà Thạch Thị S không được chấp
nhận nên bà phải chịu án phí, do bà S là người cao tuổi nên được miễn án phí theo
quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 481; khoản 1 Điều 482; Điều 501; Điều 502; Điều
503 Bộ luật Dân sự năm 2015Điều Bộ luật Dân sự;
10
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Thạch Thị S.
- Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tnh Trà Vinh.
- Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 90/2023/DS-ST ngày 20 tháng 11 năm 2023
của Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tnh Trà Vinh về án phí.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bà Thạch Thị S về yêu cầu
hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Thạch Thị S với ông Lê
Văn T được xác lập ngày 31/7/2015 và có công chứng tại Văn phòng Công chứng
số 01 tnh Trà Vinh và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 599814
cấp ngày 03/08/2016 với diện tích 190,5m
2
, thuộc thửa số 91, tờ bản đồ số 7; Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 599815 cấp ngày 03/08/2016, với diện tích
1.922.3m
2
, thuộc thửa số 92, tờ bản đồ số 7, cùng tọa lạc tại khóm A, phường H,
thành phố T, tnh Trà Vinh được Sở Tài Nguyên và Môi trường tnh T cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn T.
2.Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Văn T không phải nộp án phí dân sự
sơ thẩm. Hoàn trả cho ông Lê Văn T số tiền 712.500 đồng tạm ứng án phí dân sự
sơ thẩm ông T đã nộp theo biên lai thu tiền số 0018730 ngày 19/7/2018 của Chi
cục thi hành án dân sự thành phố Trà Vinh.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị
tiếp tục có hiệu lực thi hành.
Về án phí phúc thẩm: Miễn án phí dân sự phúc thẩm bà Thạch Thị S.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và
Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tnh Trà Vinh;
- TAND thành phố Trà Vinh;
- Chi cục THADS thành phố Trà Vinh;
- Các đương sự (theo địa ch);
- Lưu: TDS, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thành Trung
11
Tải về
Bản án số 201/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 201/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 10/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 10/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm