Bản án số 19/2025/HC-PT ngày 07/01/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 19/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 19/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 19/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 19/2025/HC-PT ngày 07/01/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 19/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 07/01/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 19/2025/HC-PT
Ngày 07 tháng 01 năm 2025
V/v “Khiếu kiện quyết định hành chính
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Đinh Ngọc Thu Hương
Ông Đặng Văn Ý
Ông Ngô Mạnh Cường
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Châu Loan - Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh:
Ông Đặng Quốc Hoàng - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 07 tháng 01 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai, vụ án thụ lý số:
932/2024/TLPT-HC ngày 28 tháng 10 năm 2024 về “Khiếu kiện quyết định hành
chính về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”,
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2024/HC-ST ngày 17 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3620/2024/QĐ-PT ngày
23 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Bà Lâm Thị Mỹ L, sinh năm 1969 (có mặt);
Địa chỉ: Số A đường N, Phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố S;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Văn T - Chức vụ: Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố S (có đơn xin xét xử vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền : Ông Trần Văn N - Chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố S (Văn bản ủy quyền số 34/GUQ-UBND ngày 09/9/2024)
2
(có đơn xin xét xử vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Số I đường P, Phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
- Người kháng cáo: Người khởi kiện là bà Lâm Thị Mỹ L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tại đơn khởi kiện của người khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án,
cũng như tại phiên tòa người khởi kiện – bà Lâm Thị Mỹ L trình bày như sau:
Nguyên vào ngày 05/9/2023 bà nhận được Quyết định số 1192/QĐ-UBND
của Ủy ban nhân dân thành phố S, tỉnh Sóc Trăng về việc thu hồi đất của bà Lâm
Thị Mỹ L để thực hiện Dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng nâng cấp đô
thị Việt Nam – Tiểu dự án thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Hạng mục: Xây dựng cầu
N (đợt 2).
Theo quyết định thì thu hồi 33,6m
2
đất ở thuộc toàn bộ thửa đất số 69, thuộc
tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại Phường B, thành phố S của bà Lâm Thị Mỹ L, địa chỉ
số A, đường N, Phường B, thành phố S.
Theo Quyết định số: 1818/QĐ-UBND, ngày 05/09/2023 của Ủy ban nhân
dân thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, về việc bồi thường, hỗ trợ cho hộ bà L để thực
hiện Dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng nâng cấp đô thị Việt Nam - Tiểu
dự án thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Hạng mục: Xây dựng cầu N (đợt 2). Số tiền
là: 358.955.800 đồng. Bà không thống nhất theo giá đền bù, mà yêu cầu cấp cho
bà 01 nền tái định cư tại Khu 5A, không thu tiền sử dụng đất.
Bà là hộ thuộc diện giải tỏa trắng, không có nhà nào khác ngoài căn nhà bà
đang bị UBND thành phố S ra quyết định thu hồi đất.
Theo thông báo của UBND thành phố S thì khi nhận 01 nền tái định cư thì
mỗi hộ phải đóng thêm tiền sử dụng đất tại khu tái định cư 5A là 1.250.000.000
đồng. Bà không thống nhất, vì bà là hộ nghèo, bị giải tỏa trắng, không có tiền để
đóng tiền sử dụng đất. Bà làm đơn đề nghị xem xét.
Ngày 17/06/2024 U có mời bà lên giải quyết là không chấp nhận theo đơn
đề nghị của bà. Bà không đồng ý và làm đơn gửi UBND thành phố S. Ngày
20/06/2024, U có mời bà lên giải quyết, lần này có ông Trịnh Thanh B - Phó Giám
đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố S dự, cũng không chấp nhận theo đơn
yêu cầu của bà.
Bà tiếp tục làm đơn gửi UBND tỉnh S yêu cầu giải quyết, đến ngày
17/07/2024 thì U, thành phố S mời bà lên giải quyết là hỗ trợ giao cho bà 01 căn
nhà ngang 04m, dài 10m, tại hẻm I, đường V, Khóm C, Phường A, thành phố S
để ở và sẽ hỗ trợ thêm 50.000.000 đồng. Bà không đồng ý theo cách giải quyết
của UBND thành phố S. Theo quy định của Luật Đất đai : Điều 86. Bố trí tái định
3
cư cho người có đất ở thu hồi mà phải di chuyển chỗ ở : 4. Trường hợp người có
đất thu hồi được bố trí tái định cư mà tiền bồi thường, hỗ trợ không đủ để mua
một suất tái định cư tối thiểu thì được Nhà nước hỗ trợ tiền đủ để mua một suất
tái định cư tối thiểu.
Nay người khởi kiện yêu cầu :
- Hủy Quyết định số 1818/QĐ-UBND ngày 05/9/2023 của Ủy ban nhân dân
thành phố S về việc bồi thường, hỗ trợ cho ông (bà) Lâm Thị Mỹ L để thực hiện
Dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng nâng cấp đô thị Việt Nam-Tiểu dự án
thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Hạng mục: Xây dựng cầu N (đợt 2);
- Yêu cầu Ủy ban nhân dân thành phố S cấp cho bà Lâm Thị Mỹ L 01 nền
đất tái định cư tại khu tái định cư 5A để cất nhà ổn định cuộc sống, không thu tiền
sử dụng đất (do bà L không nhận tiền đền bù giải tỏa). Đồng thời bà L yêu cầu Ủy
ban nhân dân thành phố S xem xét hỗ trợ cho bà một khoản tiền để xây dựng nhà
ở cho gia đình bà gồm 07 nhân khẩu, không có nơi ở do bị giải tỏa trắng.
Người bị kiện - Ủy ban nhân dân thành phố S trong quá trình giải quyết có
đơn vắng mặt và yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng giải quyết theo quy
định của pháp luật và không có văn bản trình bày ý kiến.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2024/HC-ST ngày 17/9/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã tuyên xử:
Bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện bà Lâm Thị Mỹ L về việc yêu
cầu:
- Hủy Quyết định số 1818/QĐ-UBND ngày 05/9/2023 của Ủy ban nhân dân
thành phố S về việc bồi thường, hỗ trợ cho bà Lâm Thị Mỹ L để thực hiện Dự án
đầu tư xây dựng công trình mở rộng nâng cấp đô thị Việt Nam-Tiểu dự án thành
phố S, tỉnh Sóc Trăng. Hạng mục: Xây dựng cầu N (đợt 2) ;
- Yêu cầu Ủy ban nhân dân thành phố S cấp cho bà Lâm Thị Mỹ L 01 nền
đất tái định cư tại khu tái định cư 5A để cất nhà ổn định cuộc sống, không thu tiền
sử dụng đất (do bà không nhận tiền đền bù giải tỏa). Đồng thời bà L yêu cầu Ủy
ban nhân dân thành phố S xem xét hỗ trợ cho bà một khoản tiền để xây dựng nhà
ở cho gia đình bà gồm 07 nhân khẩu, không có nơi ở do bị giải tỏa trắng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy
định pháp luật.
Ngày 26/9/2024, người khởi kiện là bà Lâm Thị Mỹ L có đơn kháng cáo toàn
bộ bản án sơ thẩm, đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
4
Bà Lâm Thị Mỹ L vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Người khởi kiện vẫn
giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc
tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Về tố tụng: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử, Thư ký đã
thực hiện đúng theo quy định của pháp luật; những người tham gia tố tụng chấp
hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung: Xét kháng cáo của bà Lâm Thị Mỹ L:
Bà L kháng cáo đề nghị cấp nền tái định cư, không thu tiền sử dụng đất. Theo
quy định của thành phố S, khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng
thì một suất tái định cư tối thiểu tại đô thị là 200.000.000 đồng. Bà L bị thu hồi
đất, được bồi thường 358.955.800 đồng cao hơn một suất tái định cư tối thiểu.
Trường hợp bà L, giao đất có thu tiền sử dụng đất, giá do UBND tỉnh S quy định.
UBND thành phố S bố trí tái định cư cho bà L. Bà L nhận tiền đền bù với số tiền
358.955.800 đồng và nhận 01 nền tái định cư tại Khu đô thị E nhưng phải đóng
tiền sử dụng đất theo quy định của Nhà nước, nếu bà L không nhận nền tái định
cư tại Khu đô thị E thì sẽ được hỗ trợ suất tái định cư phân tán là 100.000.000
đồng, qua xem xét bà L có hoàn cảnh khó khăn nên UBND thành phố S sẽ hỗ trợ
giao cho bà L 01 căn nhà ngang 4m, dài 10m tại hẻm I, đường V, Khóm C, Phường
A, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng và hỗ trợ thêm số tiền 50.000.000 đồng. Bà L bị
thu hồi có 33,6m
2
đất ở, hỗ trợ nhà 40m
2
nhưng bà L không đồng ý và yêu cầu
UBND thành phố S cấp cho bà một nền đất tái định cư tại Khu tái định cư E để
cất nhà ở, không thu tiền sử dụng đất và yêu cầu xem xét hỗ trợ cho bà một khoản
tiền để xây dựng nhà ở cho gia đình bà. UBND thành phố S giải quyết quyền lợi
cho bà L đúng quy định. Yêu cầu kháng cáo của bà L không có cơ sở. Đề nghị
Hội đồng xét xử bác kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét
đầy đủ ý kiến của các bên đương sự và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về quan hệ pháp luật, thời hiệu khởi kiện:
Ngày 30/7/2024, bà Lâm Thị Mỹ L có đơn khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định
số 1818/QĐ-UBND ngày 05/9/2023 của Ủy ban nhân dân thành phố S về việc bồi
thường, hỗ trợ cho bà để thực hiện Dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng
nâng cấp đô thị Việt Nam-Tiểu dự án thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Hạng mục:
Xây dựng cầu N (đợt 2) (gọi tắt là Quyết định số 1818); Yêu cầu Ủy ban nhân dân
thành phố S cấp cho bà 01 nền đất tái định cư tại khu tái định cư 5A để cất nhà ổn
5
định cuộc sống, không thu tiền sử dụng đất (do bà không nhận tiền đền bù giải
tỏa). Đồng thời bà yêu cầu Ủy ban nhân dân thành phố S xem xét hỗ trợ cho bà
một khoản tiền để xây dựng nhà ở cho gia đình bà gồm 07 nhân khẩu, không có
nơi ở do bị giải tỏa trắng.
Theo quy định tại Điều 116; Điều 30 và Điều 32 Luật Tố tụng hành chính,
thời hiệu khởi kiện vẫn còn và Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng thụ lý và giải quyết
là đúng thẩm quyền.
[2] Xét kháng cáo của bà Lâm Thị Mỹ L, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành quyết định: Đúng quy định pháp
luật tại khoản 2 và 3 Điều 28 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015.
Ngày 05 tháng 9 năm 2023, Ủy ban nhân dân thành phố S ban hành Quyết
định số 1192/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của bà Lâm Thị Mỹ L để thực hiện
dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng nâng cấp đô thị Việt Nam – Tiểu dự
án thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, hạng mục: Xây dựng cầu N (đợt 2) (gọi tắt là
Quyết định 1192). Theo quyết định thì diện tích đất của bà L bị thu hồi là 33,6m
2
đất ở thuộc toàn bộ thửa đất số 69, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại Phường B, thành phố
S, tỉnh Sóc Trăng của bà Lâm Thị Mỹ L tại địa chỉ số A, đường N, Phường B,
thành phố S. Ngày 28/9/2023, bà L nhận được Quyết định số 1192, bà L đồng ý
với Quyết định về việc thu hồi đất của Nhà nước để thực hiện dự án đầu tư (bút
lục số 23).
Ngày 05 tháng 9 năm 2023, Ủy ban nhân dân thành phố S ban hành Quyết
định số 1813/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án và dự toán kinh phí bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng nâng cấp
đô thị Việt Nam – Tiểu dự án thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, hạng mục: Xây dựng
cầu N (đợt 2).
Ngày 05 tháng 9 năm 2023, Ủy ban nhân dân thành phố S ban hành Quyết
định số 1818/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ cho bà Lâm Thị Mỹ L để thực
hiện dự án đầu tư xây dựng công trình mở rộng nâng cấp đô thị Việt Nam – Tiểu
dự án thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, hạng mục: Xây dựng cầu N (đợt 2) với tổng
số tiền bồi thường và hỗ trợ là 358.955.800 đồng kèm theo bảng tính chi tiết chi
phí bồi thường, hỗ trợ cụ thể bao gồm: bồi thường về đất ODT chưa có GCN số
tiền 320.261.760 đồng (33,6m
2
x 9.531.600đ/m
2
), bồi thường nhà số tiền
45.294.040 đồng, hỗ trợ tạm cư 12.000.000 đồng, hỗ trợ di chuyển 5.000.000
đồng, hỗ trợ bàn giao mặt bằng đúng quy định 10.000.000 đồng, khấu trừ thuế sử
dụng đất 33.600.000 đồng.
[2.2] Về nội dung:
[2.2.1] Ngày 06/11/2023, Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố S ban hành
6
Thông báo số 91/TB-TTPTQĐ về việc niêm yết công khai dự thảo phương án sắp
xếp, bố trí giao nền tái định cư, giao đất ở có thu tiền sử dụng đất cho hộ gia đình,
cá nhân bị thu hồi đất thuộc dự án nói trên, theo đó bà Lâm Thị Mỹ L được nhận
01 nền tái định cư có thu tiền sử dụng đất tại khu tái định cư E, Khóm D, Phường
D, thành phố S với số tiền khoảng 1.250.000.000 đồng (diện tích khoảng 150m
2
).
Ngày 17/6/2024, 20/6/2024, 17/7/2024, U và các cơ quan chuyên môn của
UBND thành phố S tiến hành làm việc với bà Lâm Thị Mỹ L, qua đó đưa ra các
phương án như sau: bà L nhận tiền đền bù với số tiền 358.955.800 đồng và nhận
01 nền tái định cư tại Khu đô thị E nhưng phải đóng tiền sử dụng đất theo quy
định của Nhà nước, nếu bà L không nhận nền tái định cư tại Khu đô thị E thì sẽ
được hỗ trợ suất tái định cư phân tán là 100.000.000 đồng, qua xem xét bà L có
hoàn cảnh khó khăn nên UBND thành phố S sẽ hỗ trợ giao cho bà L 01 căn nhà
ngang 4m, dài 10m tại hẻm I, đường V, Khóm C, Phường A, thành phố S, tỉnh
Sóc Trăng và hỗ trợ thêm số tiền 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, phía bà L không
đồng ý và yêu cầu UBND thành phố S cấp cho bà một nền đất tái định cư tại Khu
tái định cư E để cất nhà ở, không thu tiền sử dụng đất và yêu cầu xem xét hỗ trợ
cho bà một khoản tiền để xây dựng nhà ở cho gia đình bà.
UBND thành phố S thu hồi đất của bà Lâm Thị Mỹ L và có phương án sắp
xếp, bố trí nền tái định cư cho bà L là đảm bảo quy định tại Điều 67, Điều 69,
Điều 85, Điều 86 Luật Đất đai năm 2013.
[2.2.2] Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai năm 2013
quy định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất: “c) Hỗ trợ tái định cư đối với trường
hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
mà phải di chuyển chỗ ở”;
Theo Điều 27 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy
định về suất tái định cư tối thiểu :
Theo khoản 6 Điều 1 Quyết định số 28/2021/QĐ-UBND ngày 23/8/2021 về
sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 14 Quyết định số 34/2014/QĐ-UBND ngày
31/12/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh S về quy định một số chính sách bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng thì một
suất tái định cư tối thiểu tại đô thị là 200.000.000 đồng.
Tổng số tiền mà bà L được bồi thường là 358.955.800 đồng nhiều hơn một
suất tái định cư tối thiểu tại địa phương.
Do đó, bà L yêu cầu Ủy ban nhân dân thành phố S cấp cho bà một nền tái
định cư không có thu tiền sử dụng đất do bà không nhận tiền bồi thường là không
có cơ sở.
[3] Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử
đúng pháp luật. Bà L kháng cáo không có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét xử không
7
chấp nhận kháng cáo của bà L, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đại diện Viện kiểm
sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị.
[4] Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà L phải chịu án phí phúc thẩm do
yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 30; 32; 116; Điều 193; khoản 1 Điều 241; Điều 348 và Điều
349 của Luật Tố tụng hành chính;
Căn cứ khoản 2 Điều 74, điểm c khoản 2 Điều 83, khoản 3 và 4 Điều 86 Luật
Đất đai năm 2013;
Căn cứ khoản 2 và 3 Điều 28 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015;
Căn cứ Điều 27 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ;
Căn cứ khoản 6 Điều 1 Quyết định số 28/2021/QĐ-UBND ngày 23/8/2021
về sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 14 Quyết định số 34/2014/QĐ-UBND ngày
31/12/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh S về quy định một số chính sách bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận kháng cáo của bà Lâm Thị Mỹ L. Giữ nguyên Bản án hành
chính sơ thẩm số 17/2024/HC-ST ngày 17/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc
Trăng, cụ thể như sau:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện bà Lâm Thị Mỹ L về việc yêu
cầu:
- Hủy Quyết định số 1818/QĐ-UBND ngày 05/9/2023 của Ủy ban nhân dân
thành phố S về việc bồi thường, hỗ trợ cho bà Lâm Thị Mỹ L để thực hiện Dự án
đầu tư xây dựng công trình mở rộng nâng cấp đô thị Việt Nam-Tiểu dự án thành
phố S, tỉnh Sóc Trăng. Hạng mục: Xây dựng cầu N (đợt 2) ;
- Yêu cầu Ủy ban nhân dân thành phố S cấp cho bà Lâm Thị Mỹ L 01 nền
đất tái định cư tại khu tái định cư 5A để cất nhà ổn định cuộc sống, không thu tiền
sử dụng đất (do bà không nhận tiền đền bù giải tỏa). Đồng thời bà L yêu cầu Ủy
ban nhân dân thành phố S xem xét hỗ trợ cho bà một khoản tiền để xây dựng nhà
ở cho gia đình bà gồm 07 nhân khẩu, không có nơi ở do bị giải tỏa trắng.
2. Về án phí sơ thẩm: Bà Lâm Thị Mỹ L phải chịu 300.000 đồng án phí hành
chính sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo
8
Biên lai thu tạm ứng án phí số 0002992 ngày 07/8/2024 của Cục Thi hành án dân
sự tỉnh Sóc Trăng. Bà L đã thực hiện xong.
3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà Lâm Thị Mỹ L phải chịu 300.000
đồng án phí hành chính phúc thẩm nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng
án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0007316 ngày 26/9/2024 của
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng. Bà L đã thực hiện xong.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND tỉnh Sóc Trăng;
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- Cục THADS tỉnh Sóc Trăng;
- Đương sự;
- Lưu (Án - NTCL).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký tên và đóng dấu)
Đinh Ngọc Thu Hương
Tải về
Bản án số 19/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 19/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Bản án số 02/2025/HNGĐ-ST ngày 21/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 19/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm