Bản án số 19/2024/DS-PT ngày 07/09/2024 của TAND tỉnh Lào Cai về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 19/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 19/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 19/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 19/2024/DS-PT ngày 07/09/2024 của TAND tỉnh Lào Cai về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lào Cai |
Số hiệu: | 19/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 07/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Đỗ Văn Ch, Đoàn Thị T1 đề nghị tuyên văn bản công chứng vô hiệu |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÀO CAI
Bản án số: 19/2024/DS-PT
Ngày 07 – 9 – 2024
V/v tranh chấp tuyên bố
văn bản công chứng vô hiệu
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Văn Khanh
Các Thẩm phán: Ông Trần Văn Nghĩa
Ông Trương Quyết Thắng
- Thư ký phiên tòa: Bà Đoàn Khánh Nguyệt – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Lào Cai
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai tham gia phiên tòa: Ông
Trần Xuân Phong – Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 9 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 14/2024/TLPT-DS ngày 18/6/2024 về việc:
"Tranh chấp về tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2022
của Toà án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1258/2024/QĐPT-DS
ngày 07 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 1325/2024/QĐPT-
DS ngày 16/8/2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
+ Ông Đỗ Văn Ch
Địa chỉ: Xóm 02, xã S, huyện H, tỉnh N. Có mặt.
+ Bà Đoàn Thị T1
Địa chỉ: Xóm 02, xã S, huyện H, tỉnh N. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn:
+ Ông Bùi Văn H
Địa chỉ: Tổ 17, phường C, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Có mặt.
+ Ông Nguyễn Văn H
Địa chỉ: Tổ 26, phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Có mặt.
Bị đơn: Bà Trương Thị Th
Địa chỉ: Tổ 23, phường C, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Mạnh H
Địa chỉ: Số 007, phố T, phường C, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn phòng công chứng Tạ
Thị M
Địa chỉ: Số 051, phố L, phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai
Người đại diện theo pháp luật: Bà Tạ Thị M – Trưởng văn phòng
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Đ
Địa chỉ: Số 051, phố L, phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt,
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Người kháng cáo: Ông Đỗ Văn Ch
Địa chỉ: Xóm 02, xã S, huyện H, tỉnh Nam Định
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn ông Đỗ Văn Ch, bà Đoàn Thị T1 và Người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn trình bày:
Ông Đỗ Văn Ch được Ủy ban nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 091624 ngày 19/05/2020 thửa đất số 113,
tở bản đồ 09, diện tích 1.329m
2
tại thôn C, xã Đ, thành phố L, tỉnh Lào Cai.
Khoảng tháng 6/2020, khi ông và vợ là Đoàn Thị T1 đang ở nhà tại xóm 2,
xã H, huyện H, tỉnh Nam Định thì bà Trương Thị Th đến nhà và nói ông bà ký
giấy tờ cho cô Đỗ Thị H (là cô ruột của ông Ch). Vì tin tưởng là cô ruột nhờ nên
ông, bà không xem nội dung mà ký vào các giấy tờ theo chỉ dẫn của bà Th. Sau
này ông Ch và bà T1 mới biết hồ sơ bà Th đưa là Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất đối với quyền sử dụng đất của ông Ch nêu trên cho bà Trương Thị
Th. Sau đó, bà Trương Thị Th mang hồ sơ về Văn phòng Công chứng Nguyễn
Anh L (nay là Văn phòng công chứng Tạ Thị M) làm thủ tục công chứng hợp
đồng trên. Ngày ghi trong hợp đồng là ngày 30/6/2020, do công chứng viên
Nguyễn Anh L là người thực hiện chứng kiến việc ký hợp đồng giữa bên bán ông
Đỗ Văn Ch và bà Đoàn Thị T1 với bên mua bà Trương Thị Th. Tuy nhiên trên
thực tế ngày 30/6/2020 ông Ch và bà T1 không có mặt tại phòng công chứng, tại
thời điểm đó ông Ch và bà T1 có mặt ở nhà tại xóm 2, xã H, huyện H, tỉnh N,
không gặp người nhận chuyển nhượng là bà Trương Thị Th cũng như không hề
có sự chứng kiến của công chứng viên Nguyễn Anh L như lời chứng được ghi tại
Hợp đồng. Việc công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã vi
phạm về trình tự, thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, vi phạm nghiêm
trọng nguyên tắc công chứng được quy định tại Điều 44 về địa điểm công chứng,
Điều 48 về ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng của Luật Công chứng.
Sau khi công chứng hợp đồng, bà Th đã mang hồ sơ đi làm thủ tục đăng ký
quyền sử dụng đất và được Ủy ban nhân dân thành phố L cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CU 742474 cấp ngày 22/7/2020 mang tên người sử dụng
Trương Thị Th. Vì vậy nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Tuyên bố văn bản công chứng số 723, quyển sổ 02/2020/TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 30/6/2020 về “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa người chuyển nhượng là ông Đỗ Văn Ch và bà Đoàn Thị T1 với người nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất bà Trương Thị Th ” của Văn phòng công chứng
Nguyễn Anh L công chứng là vô hiệu.
- Buộc bà Trương Thị Th phải trả lại quyền sử dụng đất và tài sản trên đất
theo Hợp đồng chuyển nhượng giữa: Ông Đỗ Văn Ch và bà Đoàn Thị T1 với
người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất: Bà Trương Thị Th đã được Văn
phòng công chứng Nguyễn Anh L công chứng, đề ngày công chứng ngày
30/6/2020, gồm: Thửa đất số 113, tờ bản đồ số 09, tại: Thôn C, xã Đ, thành phố
L, tỉnh Lào Cai và tài sản trên đất như hiện trạng trước khi chuyển nhượng.
Bị đơn bà Trương Thị Th, Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình
bày:
Năm 2010 bà Trương Thị Th có mua của bà Kim Thị D ở thôn 9, xã Đ tổng
diện tích đất vườn tạp 1500m
2
(Trên thực tế diện tích còn lại sau khi Nhà nước
thu hồi làm đường xuyên á là 1329,0m
2
), khi mua bán hai bên có làm giấy mua
bán viết tay với giá 200.000.000đồng. Do diện tích đất này là đất vườn nên bà Th
đã nhờ ông Đỗ Văn Ch đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Để
đảm bảo quyền lợi của mình, tránh tranh chấp sau này ông Ch đã viết giấy bán đất
cho bà Th toàn bộ thửa đất. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật thì việc mua
bán đất viết tay không có giá trị pháp lý nên bà Th đã liên hệ và mời vợ chồng
ông Ch và bà T1 lên Lào Cai để ký Hợp đồng chuyển nhượng tại Văn phòng công
chứng. Sau khi ký xong hợp đồng công chứng vợ chồng ông Ch và bà T1 được
bà Th trả cho 7.000.000đồng. Việc ông Ch, bà T1 ký Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và làm thủ tục công chứng hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện,
bà Th không lừa dối ông Ch, bà T1 ký hợp đồng như lời trình bày của nguyên
đơn. Vì vậy, bà Th không nhất trí với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng Tạ Thị M
(trước đây là Văn phòng công chứng Nguyễn Anh L) trình bày:
Ngày 30/6/2020 bà Trương Thị Th mang hồ sơ gồm: Sổ hộ khẩu, chứng
minh thư nhân dân của bà Th, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP091624,
số vào sổ CH 02217 do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 19/5/2020 mang
tên Đỗ Văn Ch; ông Đỗ Văn Ch và bà Đoàn Thị T1 xuất trình giấy tờ nhân thân
và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản gốc. Qua đối chiếu hồ sơ đầy đủ, rõ
ràng, người yêu cầu công chứng và người tham gia ký kết hợp đồng đầy đủ nên
nhân viên văn phòng công chứng Nguyễn Anh L đã soạn thảo hợp đồng và cho
các bên đọc lại, giải thích các quyền và nghĩa vụ, các bên đều tự đọc hợp đồng,
đồng ý với các điều khoản trong hợp đồng, ký và điểm chỉ trước mặt công chứng
viên.
Sau khi các bên ký và điểm chỉ vào hợp đồng chuyển nhượng, Công chứng
viên Nguyễn Anh L tiếp tục xem xét hồ sơ, đối chiếu bản gốc, bản sao, các thông
tin của những người tham gia giao dịch, đối chiếu khuân mặt, chữ ký và dấu vân
tay của những người tham gia ký kết hợp đồng công chứng, thấy rằng toàn bộ hồ
sơ, con người tham gia giao dịch đều phù hợp nên phát hành lời chứng thực đính
kèm hợp đồng, ký vào từng trang, từng mặt của hợp đồng và giao hợp đồng cho
các bên.
Như vậy văn bản công chứng số 723, quyển sổ 02/2020/TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 30/6/2020 về “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa người chuyển nhượng là ông Đỗ Văn Ch và bà Đoàn Thị T1 với người nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất bà Trương Thị Th ” của Văn phòng công chứng
Nguyễn Anh L đã thực hiện đúng trình tự, đúng quy định của luật dân sự, luật đất
đai và luật công chứng. Vì vậy đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 19/4/2022 của Tòa án nhân
dân thành phố L, tỉnh Lào Cai đã quyết định:
Căn cứ Điều 5, khoản 1 Điều 26, Điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều
147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 400; Điều 500; Điều 501; Điều 502 và Điều
503 Bộ luật dân sự 2015 và Điều 5; Khoản 1 Điều 44 Luật công chứng 2014;
Điểm a, d khoản 3 Điều 167 Luật đất đai 2013.
Căn cứ khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của
Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về:
- Tuyên bố Văn bản công chứng số 723, quyển sổ 02/2020/TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 30/6/2020 về việc “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa người chuyển nhượng ông Đỗ Văn Ch và bà Đoàn Thị T1 với người nhận
chuyển nhượng sử dụng đất bà Trương Thị Th ” của Văn phòng công chứng
Nguyễn Anh L là vô hiệu.
- Buộc bà Trương Thị Th phải trả lại quyền sử dụng đất và tài sản trên đất
theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa: Ông Đỗ Văn Ch và bà
Đoàn Thi T1 là người chuyển nhượng với người nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất: Bà Trương Thị Th đã được Văn phòng công chứng Nguyễn Anh L công
chứng, đề ngày công chứng ngày 30/6/2020 gồm: Thửa đất số 113, tờ bản đồ số
09, tại: Thôn C, xã Đ, thành phố L, tỉnh Lào Cai và tài sản trên đất như hiện trạng
trước khi chuyển nhượng.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng
cáo cho các đương sự.
Ngày 28/4/2022, nguyên đơn ông Đỗ Văn Ch kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại bản án dân sự phúc thẩm số
20/2022/DS-ST ngày 25/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai đã quyết định:
Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Đỗ Văn Ch và bà Đoàn Thị T1.
Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 19/4/2022 của Tòa án nhân
dân thành phố L, tỉnh Lào Cai như sau:
Căn cứ Điều 5, khoản 3 Điều 26, Điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng
dân sự; Điều 127, Điều 131, Điều 407, Điều 400, Điều 500, Điều 501, Điều 502
và Điều 503 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 5, Điều 40, Điều 41, khoản 1 Điều 44,
khoản 1 Điều 48, Điều 50, Điều 51 Luật Công chứng 2014; Điểm a, d khoản 3
Điều 167 Luật Đất đai 2013.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đỗ Văn Ch, bà
Đoàn Thị T1 như sau:
- Tuyên bố Văn bản công chứng số 723, quyển sổ 02/2020/TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 30/6/2020 về việc “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa người chuyển nhượng ông Đỗ Văn Ch và bà Đoàn Thị T1 với người nhận
chuyển nhượng sử dụng đất bà Trương Thị Th ” của Văn phòng công chứng
Nguyễn Anh L là vô hiệu.
- Buộc bà Trương Thị Th phải trả lại quyền sử dụng đất và tài sản trên đất
theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa: Ông Đỗ Văn Ch và bà
Đoàn Thi T1 là người chuyển nhượng với người nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất: Bà Trương Thị Th đã được Văn phòng công chứng Nguyễn Anh L công
chứng, đề ngày công chứng ngày 30/6/2020 gồm: Thửa đất số 113, tờ bàn đồ số
09, tại: Thôn C, xã Đ, thành phố L, tỉnh Lào Cai và tài sản trên đất như hiện trạng
trước khi chuyển nhượng.
Ông Đỗ Văn Ch, bà Đoàn Thị T1 có trách nhiệm liên hệ với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để làm thủ tục điều chỉnh lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng
cáo cho các đương sự.
Ngày 07/7/2023, bà Trương Thị Th có đơn đề nghị xem xét lại Bản án dân
sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 26/12/2023, Chánh án
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc
thẩm số 29/2023/KN-DS kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 20/2022/DS-
ST ngày 25/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai. Ngày 06/3/2024, Tòa án
nhân dân cấp cao tại Hà Nội ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 12/2024/DS-
GĐT và quyết định:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 337, Điều 342, khoản 3 Điều 343, khoản 2
Điều 345, Điều 349 Bộ luật Tố tụng dân sự:
- Chấp nhận Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm số 29/2023/KN-DS
ngày 26/12/2023 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đối với Bản
án dân sự phúc thẩm số 20/2022/DS-ST ngày 25/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh
Lào Cai về vụ án “Tranh chấp về tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu” giữa
nguyên đơn ông Đỗ Văn Ch, bà Đoàn Thị T1 với bị đơn bà Trương Thị Th cùng
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 20/2022/DS-ST ngày 25/9/2022
của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai; giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân tỉnh Lào
Cai để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút
toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện nhưng người đại diện theo ủy quyền của bị
đơn không đồng ý. Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân
sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu rút đơn khởi kiện của nguyên đơn,
vụ án được tiến hành theo quy định của pháp luật về xét xử phúc thẩm, xét kháng
cáo của nguyên đơn. Tại phiên tòa phúc thẩm, ngưởi đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn và nguyên đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo; Bị đơn bà Trương
Thị Th và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn giữ nguyên ý kiến cho rằng
văn bản công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên là hợp
pháp, đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Người đại diện theo
ủy quyền của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng Tạ
Thị M là ông Nguyễn Văn Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên quan
điểm trong quá trình giải quyết về việc Văn phòng công chứng đã thực hiện công
chứng hợp đồng đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, đề nghị Tòa
án bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai phát biểu ý kiến:
Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước
thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Hội đồng xét xử, thư ký tòa án đã thực hiện
đúng theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đều chấp
hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ
luật Tố tụng dân sự đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông
Đỗ Văn Ch, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 19/4/2022
của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai.
Tuyên án phí và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về hình thức đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Đỗ
Văn Ch có đầy đủ nội dung, đảm bảo thời hạn theo quy định tại Điều 272, 273
Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về mối quan hệ pháp luật: Trong vụ án này, các đương sự tranh chấp
với nhau về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và lời chứng của công
chứng viên. Do đó căn cứ vào Điều 52 Luật Công chứng và khoản 11 Điều 26
Bộ luật Tố tụng dân sự thì yêu cầu của nguyên đơn là “Tranh chấp liên quan
đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu”. Tòa án cấp sơ thẩm xác định
quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô
hiệu” là không đúng.
[3] Về nguồn gốc của thửa đất là đối tượng của Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất:
Ông Đỗ Văn Ch được Ủy ban nhân dân thành phố L cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CP
091624, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 02217 ngày 19/5/2020 đối với thửa
đất số 113. Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn cho rằng ông Ch chỉ đứng
tên hộ bà Đỗ Thị H, nguồn gốc thửa đất là do bà H nhận ủy quyền của bà Kim
Thị D để bán hộ bà D 4.000m
2
tại thôn C, xã Đ. Sau khi nhận ủy quyền, bà Hđã
chuyển nhượng diện tích đất trên cho 03 người gồm ông Ch, ông T, ông Ph và
những người này đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Người làm
chứng bà Đỗ Thị H xác định thửa đất 113 là do năm 2012 bà và bà Th cùng nhau
mua chung của bà Kim Thị D và bà có nhờ ông Ch là cháu của bà, có hộ khẩu
thường trú tại địa phương đứng tên hộ. Bà H và bà Th thỏa thuận mỗi người được
½ diện tích đất nên năm 2019 bà đưa giấy tờ cá nhân của ông Ch, bà T1 cho bà
Th để nhờ bà Th tách thửa hộ. Nhưng người làm chứng bà Đỗ Thị H không cung
cấp được chứng cứ chứng minh việc mua chung đất, việc thỏa thuận phân chia
mỗi người ½ lô đất và thỏa thuận nhờ bà Th làm thủ tục tách thửa hộ bà Hạt.
Trong khi đó, bà Kim Thị D là người bán đất và chị Trần Thị Huệ là người
làm chứng đều xác nhận ngày 15/10/2010 bà Kim Thị D bán thửa đất chuyển
nhượng theo hợp đồng ngày 30/6/2020 cho bà Trương Thị Th , ngoài ra không
bán đất cho ai khác (Bút lục 123 – 124; 126). Ngoài ra, chị Huệ cũng khai việc bà
Th có nhờ bà Kim Thị D ký hồ sơ chuyển nhượng cho người khác có hộ khẩu tại
địa phương và ký giấy ủy quyền cho bà Đỗ Thị H để đi làm các thủ tục chuyển
nhượng với mục đích để sau này chuyển đổi mục đích sử dụng sang đất ở. Như
vậy, lời khai của người làm chứng bà Kim Thị D, chị Trần Thị H phù hợp với lời
khai của bị đơn bà Trương Thị Th , phù hợp với văn bản ủy quyền của bà Dung
nhờ bà H bán đất hộ cũng như giấy tờ mua bán đất (viết tay) giữa bà Dung với bà
Th. Việc nguyên đơn cho rằng đứng tên hộ bà Htrên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thực chất là đứng tên hộ bà Th, bản chất không có việc mua bán giữa bà
Dung và bà Hmà chỉ có việc mua bán giữa bà Th và bà Dung.
Mặt khác, bà Th cũng là người phát hiện ra việc cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất mang tên ông Đỗ Văn Ch không đúng với thực địa nên đã làm đơn đề
nghị kiểm tra vị trí thửa đất ngày 03/01/2020, ngày 06/01/2020 và được Ủy ban
nhân dân thành phố L cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng với hiện
trạng và thực tế sử dụng (Bút lục 254 – 261). Như vậy có thể thấy, bà Th vẫn là
người trực tiếp quản lý, sử dụng thửa đất 113 từ khi mua bán với bà Kim Thị D
cho đến nay và quản lý Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Đỗ Văn
Ch từ khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Do đó, từ những phân tích
trên Hội đồng xét xử xác định nguồn gốc thửa đất 113 là của bà Trương Thị Th
mua của bà Kim Thị D.
[4] Xét tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu:
[4.1] Về điều kiện có hiệu lực của văn bản công chứng:
Về hình thức: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào sổ công
chứng số 732, quyển số 02/2020/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 30/6/2020 (sau đây
gọi tắt là Hợp đồng) được thể hiện dưới hình thức văn bản, được công chứng viên
chứng nhận theo quy định, đủ điều kiện là văn bản công chứng theo quy định tại
Điều 119 Bộ luật Dân sự; Điểm a, d khoản 3 Điều 167, Điều 500 Luật Đất đai,
khoản 4 Điều 2 Luật Công chứng.
Về chủ thể: Người chuyển nhượng là ông Đỗ Văn Ch, bà Đoàn Thị T1 và
người nhận chuyển nhượng là bà Trương Thị Th đều là cá nhân, có đầy đủ năng
lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, tham gia ký kết Hợp đồng hoàn toàn tự
nguyện, không bị ai ép buộc, đều tự mình ký xác nhận nội dung trong Hợp đồng,
thể hiện ý chí của cá nhân phù hợp với quy định tại Điều 47 Luật Công chứng.
Việc nguyên đơn đưa ra lý do bị lừa dối, do ông bà tin tưởng, không đọc nội dung
mà ký vào toàn bộ giấy tờ do bà Th mang đến nhưng không đưa ra được chứng
cứ để chứng minh, do đó không có cơ sở để khẳng định việc ông, bà bị lừa dối ký
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác
định tại thời điểm giao kết Hợp đồng trên, các bên tham gia ký kết hợp đồng đảm
bảo về điều kiện chủ thể của hợp đồng, có năng lực pháp luật dân sự, năng lực
hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập.
Về mục đích, nội dung: Ông Đỗ Văn Ch được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng thửa đất số 113; Tờ bản đồ số 09; Diện tích 1329,0m
2
; Hình thức sử
dụng: sử dụng riêng; Mục đích sử dụng đất: đất trồng cây lâu năm; Thời hạn
sử dụng đất: đến tháng 10/2068; Nguồn gốc sử dụng đất: nhận chuyển nhượng
đất được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất; Tài sản gắn liền với
đất: Đất trống. Toàn bộ diện tích đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CP 091624,
số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 02217 do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp
ngày 19/5/2020 cho ông Đỗ Văn Ch, năm sinh 1968, CMND số 063 392 862,
địa chỉ thường trú: thôn C 1, xã Đ, thành phố L, tỉnh Lào Cai (sau đây gọi tắt
là thửa đất 113). Mục đích, nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội, đảm bảo điều kiện thực hiện quyền chuyển
nhượng theo quy định tại Điều 501 Bộ luật Dân sự; Khoản 1 Điều 188 Luật
Đất đai. Đối tượng của Hợp đồng đã được đăng ký biến động về quyền sử dụng
đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật vào ngày
01/7/2020 (Bút lục 114) theo quy định tại khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai.
[4.2] Về thủ tục, trình tự công chứng:
Về hồ sơ yêu cầu công chứng: Theo hồ sơ Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Văn phòng công chứng
Tạ Thị M cung cấp (Bút lục 302 – 318), hồ sơ yêu cầu công chứng có các giấy tờ
sau: Phiếu yêu cầu công chứng; Giấy chứng minh nhân dân mang tên Đỗ Văn Ch,
Đoàn Thị T1, Trương Thị Th ; Sổ hộ khẩu chủ hộ Đỗ Văn Ch; Sổ hộ khẩu chủ hộ
Trương Thị Th ; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 091624 mang tên Đỗ
Văn Ch. Như vậy, hồ sơ đã đảm bảo các giấy tờ được quy định tại khoản 1 Điều
41 Luật Công chứng.
Về trình tự: Tại Bản tự khai của người đại diện theo ủy quyền của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Đoạt (Bút lục 72) và Biên bản lấy
lời khai của đương sự ông Nguyễn Anh L (Bút lục 87) đều xác định:
Ngày 30/6/2020, bà Trương Thị Th mang hồ sơ gồm: Sổ hộ khẩu, chứng
minh thư nhân dân của bà Th, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP091624,
số vào sổ CH 02217 do Ủy ban nhân dân thành phố L cấp ngày 19/5/2020 mang
tên Đỗ Văn Ch; ông Đỗ Văn Ch và bà Đoàn Thị T1 xuất trình giấy tờ nhân thân
và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản gốc. Qua đối chiếu hồ sơ đầy đủ, rõ
ràng, người yêu cầu công chứng và người tham gia ký kết hợp đồng đầy đủ nên
nhân viên Văn phòng công chứng đã soạn thảo hợp đồng và cho các bên đọc lại,
giải thích các quyền và nghĩa vụ, các bên đều tự đọc hợp đồng, đồng ý với các
điều khoản trong hợp đồng, ký và điểm chỉ trước mặt công chứng viên. Sau khi
các bên ký và điểm chỉ vào hợp đồng chuyển nhượng, Công chứng viên tiếp tục
xem xét hồ sơ, đối chiếu bản gốc, bản sao, các thông tin của những người tham
gia giao dịch, đối chiếu khuôn mặt, chữ ký và dấu vân tay của những người tham
gia ký kết hợp đồng công chứng, thấy rằng toàn bộ hồ sơ, con người tham gia giao
dịch đều phù hợp nên phát hành lời chứng thực đính kèm hợp đồng, ký vào từng
trang, từng mặt của hợp đồng và giao hợp đồng cho các bên. Như vậy, công chứng
viên đã thực hiện đúng quy định tại Điều 502 Bộ luật Dân sự và Điều 41 Luật
Công chứng.
[4.3] Về phạm vi, thời hạn, địa điểm, chữ viết, ký, điểm chỉ trong văn bản
công chứng:
Ông Ch, bà T1 trình bày vào ngày 30/6/2020 ông bà không có mặt tại Văn
phòng Công chứng Nguyễn Anh L mà ông bà bán thịt lợn tại nhà ở xóm 2, xã H,
huyện H, tỉnh N và có hai người làm chứng là anh Nguyễn Văn Th và ông Nguyễn
Văn S. Tại Biên bản lấy lời khai của người làm chứng ngày 29/11I/2021, anh
Nguyễn Văn Th cho rằng khoảng khung giờ từ 03 giờ đến 05 giờ ngày 30/6/2020
có đến nhà ông Ch và bà T1 để lấy thịt lợn về bán, sau khoảng khung giờ trên
cũng không đến nhà ông Ch nữa, ngoài ra anh Th cũng không cung cấp được
chứmg cứ nào khác. Tại Biên bản lấy lời khai của người làm chứng ngày
04/01/2022, ông Nguyễn Văn S khai rằng vào 07 giờ đến 09 giờ ngày 30/6/2020
ông Sang cũng có đến nhà ông Ch và bà T1 để mua thịt lợn về bán và ông Ch có
ghi vào sổ bán hàng thịt lợn. Ngoài ra, ông Sang cũng không cung cấp được chứng
cứ nào khác để chứmg minh cho việc ngày 30/6/2020 ông có mặt tại nhà ông Ch
để mua thịt lợn. Tại Biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày l19/4/2022 thể hiện: Nguyên
đơn khẳng định ngoài hai người làm chứng nêu trên thì nguyên đơn không còn tài
liệu chứng cứ nào khác đê chứng minh việc ông Ch và bà T1 có mặt tại nhà để
bán thịt lợn trong ngày 30/6/2020.
Quá trình xét xử phúc thẩm giải quyết vụ án lần thứ nhất, Nguyên đơn có
xuất trình sổ ghi chép việc bán hàng (do Nguyên đơn tự lập) và cho rằng tại sổ
ghi chép (được tính theo ngày âm lịch) ngày 10/5/2020 âm lịch (tức ngày
30/6/2020 dương lịch), ông Ch, bà T1 có bán hàng tại địa phương nơi cư trú. Xét
sổ ghi chép việc bán hàng của ông Ch và bà T1 thấy rằng, tại sổ ghi chép bán hàng
do ông Ch, bà T1 xuất trình thể hiện ngày 10/5, ông Ch, bà T1 có ghi chép về việc
bán hàng cho một số khách nhưng trong danh sách khách hàng không có tên ông
Nguyễn Văn S. Mặt khác, ông Ch và bà T1 trình bày là ghi sổ bán hàng theo ngày
âm lịch nhưng không có chứng cứ chứng minh. Tại sổ ghi ngày 10/5 nhưng không
ghi rõ là năm nào. Ngoài ra, trong sổ nếu tính theo dương lịch thì ông Ch và bà
T1 chỉ bán hàng ngày 29/6 và ngày 01/7, ngày 30/6 không thể hiện tại sổ việc bán
hàng của ông Ch, bà T1. Như vậy, lời khai của ông Ch và bà T1 mâu thuẫn với
lời khai của người làm chứng và tài liệu do ông Ch, bà T1 xuất trình. Chị Lưu Thị
Quỷnh H (là nhân viên văn phòng công chứng Nguyễn Anh L) xác nhận ngày
30/6/2020 chị có làm việc tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Anh L và chị là
người thu phí công chứng của bà Trương Thị Th là 80.000 đồng; vào cuối buổi
chiều ngày 30/6/2020 thì cả bà Trương Thị Th và ông Đỗ Văn Ch, bà Đoàn Thị
T1 đều có mặt tại Văn phòng công chứng để công chứng Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 30/6/2020 giữa ông Ch, bà T1 với bà Th có hiệu
lực là có cơ sở.
[4.4] Về lời chứng của công chứng viên:
Sau khi xem xét toàn diện hồ sơ công chứng, chữ ký, chữ viết, điểm chỉ
của các bên tham gia giao dịch, xét thấy tài liệu, con người phù hợp và hợp pháp
nên công chứng viên ban hành lời chứng kèm theo hợp đồng, ký tên, đóng dấu
Văn phòng công chứng, có đầy đủ nội dung quy định tại Điều 46 Luật Công
chứng, Điều 22 Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 của Bộ Tư pháp
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật công chứng, Lời
chứng đúng quy định theo mẫu TP-CC-20 kèm theo Thông tư. Như vậy, Hội
đồng xét xử xét thấy Lời chứng của công chứng viên kèm theo Hợp đồng đã đảm
bảo quy định của pháp luật, phù hợp với sự thật khách quan và ý chí của các bên
tham gia giao dịch.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất vào sổ công chứng số 732, quyển số 02/2020/TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 30/6/2020 giữa bên chuyển nhượng ông Đỗ Văn Ch, bà Đoàn
Thị T1 với bên nhận chuyển nhượng bà Trương Thị Th và Lời chứng của công
chứng viên của Văn phòng công chứng Nguyễn Anh L là hoàn toàn hợp pháp, có
hiệu lực pháp luật theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự; Điều 5 Luật Công
chứng và Điều 503 Bộ luật Dân sự.
[5] Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm và tại phiên tòa, tòa
án đã tiến hành lấy lời khai của nguyên đơn xác định từ trước đến nay, bà Th là
người trực tiếp quản lý, sử dụng thửa đất chứ không phải ông Ch. Sau khi bản án
phúc thẩm lần thứ nhất có hiệu lực pháp luật, ông Ch đã làm thủ tục chuyển
nhượng toàn bộ diện tích đất trên cho người thứ ba là ông Bùi Văn Th, sinh năm
1990, địa chỉ: Thôn C, xã Đ, thành phố L, tỉnh Lào Cai và đã được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số DL 507394, vào sổ cấp giấy chứng nhận số VP 02961
do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Lào Cai cấp ngày 26/9/2023.
Bị đơn đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp cho ông Bùi Văn Th. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét
thấy yêu cầu của bị đơn là ngoài phạm vi kháng cáo và không liên quan đến nội
dung kháng cáo của nguyên đơn. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem
xét.
Trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm và tại phiên tòa, người kháng
cáo ông Đỗ Văn Ch không cung cấp được chứng cứ nào khác chứng minh nội
dung kháng cáo của mình là có căn cứ. Do đó kháng cáo của ông Đỗ Văn Ch
không được chấp nhận.
Sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm về xác định mối quan hệ pháp luật và chưa
nhận định về lời chứng của công chứng viên, Hợp đồng công chứng và chữ ký
của các bên tham gia giao kết hợp đồng nhưng đã đánh giá đúng nguồn gốc và
bản chất của giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Th với ông Ch,
bà T1, không ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của các đương sự, vì vậy cần
giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai.
[6] Về án phí và chi phí tố tụng:
Về án phí sơ thẩm và chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Do yêu cầu khởi
kiện không được chấp nhận nên bản án sơ thẩm buộc nguyên đơn ông Đỗ Văn
Ch, bà Đoàn Thị T1 phải chịu án phí sơ thẩm và chi phí xem xét, thẩm định tại
chỗ là đúng theo quy định của pháp luật.
Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận, Hội đồng xét
xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm nên người kháng cáo ông Đỗ Văn Ch
phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Đỗ Văn Ch. Giữ
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 19/4/2022 của Tòa án
nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai như sau:
Căn cứ Điều 5, khoản 11 Điều 26, Điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; Điều 400; Điều 500; Điều 501; Điều 502 và Điều 503 Bộ luật dân sự
2015 và Điều 5; Khoản 1 Điều 44; Điều 46 Luật công chứng 2014; Điểm a, d khoản
3 Điều 167 Luật đất đai 2013.
Căn cứ khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về:
- Tuyên bố Văn bản công chứng số 723, quyển sổ 02/2020/TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 30/6/2020 về việc “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa người chuyển nhượng ông Đỗ Văn Ch và bà Đoàn Thị T1 với người
nhận chuyển nhượng sử dụng đất bà Trương Thị Th ” của Văn phòng công chứng
Nguyễn Anh L là vô hiệu;
- Buộc bà Trương Thị Th phải trả lại quyền sử dụng đất và tài sản trên đất
theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa: Ông Đỗ Văn Ch và bà
Đoàn Thi T1 là người chuyển nhượng với người nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất: Bà Trương Thị Th đã được Văn phòng công chứng Nguyễn Anh L công
chứng, đề ngày công chứng ngày 30/6/2020 gồm: Thửa đất số 113, tờ bàn đồ số
09,tại: Thôn C, xã Đ, thành phố L, tỉnh Lào Cai và tài sản trên đất như hiện trạng
trước khi chuyển nhượng.
2. Về án phí và chi phí tố tụng:
Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng:
- Ông Đỗ Văn Ch và bà Đoàn Thị T1 phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm
nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án
phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng
án phí, lệ phí Tòa án số 0000957 ngày 04/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự
thành phố L, tỉnh Lào Cai. Ông Đỗ Văn Ch và bà Đoàn Thị T1 đã nộp đủ tiền án
phí dân sự sơ thẩm.
Ông Đỗ Văn Ch và bà Đoàn Thị T1 phải chịu 3.000.000đồng tiền chi phí
thẩm định ngày 21/01/2022. Xác nhận nguyên đơn ông Đỗ Văn Ch và bà Đoàn
Thị T1 đã nộp đủ tiền chi phí thẩm định tại chỗ.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Đỗ Văn Ch phải chịu 300.000đồng (Ba
trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự phúc thẩm. Xác nhận ông Đỗ Văn Ch đã nộp
300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu
tạm ứng án phí số 0001490 ngày 05/5/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố L, tỉnh Lào Cai (do bà Nguyễn Thiên H nộp thay). Ông Đỗ Văn Ch đã nộp
đủ tiền án phí dân sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lào Cai (2);
- TAND TP. L;
- Chi cục THADS TP. L;
- Các đương sự;
- Lưu VT, HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Văn Khanh
Tải về
Bản án số 19/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 19/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 14/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 31/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 29/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 19/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 28/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 11/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 24/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 10/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm